Như đã phân tích ở trên, lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế cho một đất nước có tầm quan trọng như thế nào tới sự thành công hay thất bại của nước đó. Nó quyết định nhanh chóng phát triển cùng với xu hướng thời đại hay không, hoàn thành quá trình CNH nhanh hay chậm. Chiến lược thay thế nhập khẩu đã nhanh chóng bộc lộ những hạn chế đặt ra một đòi hỏi tất yếu cho các nước đang áp dụng nó phải đổi hướng chiến lược. Điều đó là phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế, phù hợp với quy luật khách quan đó là cái cũ phải được thay thế bằng một cái mới tiến bộ hơn, là chiến lược hướng về xuất khẩu. Với chiến lược này các nớc khắc phục được những điều kiện không phù hợp của mình với chiến lược thay thế nhập khẩu đó là một thị trường trong nước nhỏ hẹp, một nền kinh tế mất cân đối và nợ chồng chất nước ngoài. Đồng thời chiến lược này cho phép tất cả mọi nước tiêu dùng một lượng hàng hoá dịch vụ nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với giới hạn sản xuất trong nước dựa vào lợi thế so sánh. Điều ấy có nghĩa là tôi có thể tiêu dùng một mức nhiều hơn khả năng tôi sản xuất nếu tôi trao đổi với anh và ngược lại anh cũng được lợi khi anh trao đổi với tôi. Xét một cách khái quát hơn chiến lược hướng về xuất khẩu tác động vào phát triển nền kinh tế ở những mặt sau.
Tất cả những ưu điểm mà chiến lược hướng ngoại khắc phục được hạn chế của chiến lược hướng nội là một nguyên nhân để các nước chuyển hướng chiến lược phát triển thì nguyên nhân thứ hai là xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế .
Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu cần thiết của quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất khiến thị trường nội địa trở nên nhỏ hẹp, buộc các quốc gia phải ngồi lại với nhau để tìm cách khơi thông dòng chảy của hàng hoá, dịch vụ, đồng vốn và sức lao động. Họ đấu tranh thoả hiệp với nhau nhằm mở rộng hơn nữa thị trường cho phát triển kinh tế. Xét cả về phương diện nhu cầu phát triển của bản thân, cả về phương diện buôn có bạn, bán có phường.Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này.