Đại học | |||
Tên ngành | Phương thức tuyển sinh | Khối thi | Điểm chuẩn 2013 |
---|---|---|---|
Công nghệ thông tin | Thi tuyển | A A1 D1 | 17 17 17.5 |
Giáo dục Công dân | Thi tuyển | C | 15 |
Giáo dục Mầm non | Thi tuyển | M | 19 |
Giáo dục Quốc phòng - An ninh | Thi tuyển | A A1 B C D1 | 15 15 16 16 15.5 |
Giáo dục Thể chất | Thi tuyển | T | 20.5 |
Giáo dục Tiểu học | Thi tuyển | A A1 C D1 | 20 20 21 19.5 |
Hóa học | Thi tuyển | A | 16 |
Khoa học thư viện | Thi tuyển | A A1 C D1 | 17 17 18 17.5 |
Lịch sử | Thi tuyển | C | 17 |
Ngôn ngữ Anh | Thi tuyển | D1 | 15 |
Ngôn ngữ Trung quốc | Thi tuyển | D1 D4 | 15 15 |
Sinh học | Thi tuyển | B | 17 |
Sư phạm Hóa học | Thi tuyển | A | 20 |
Sư phạm Kĩ thuật Công nghiệp | Thi tuyển | A A1 D1 | 18 18 18.5 |
Sư phạm Kĩ thuật Nông nghiệp | Thi tuyển | B | 17 |
Sư phạm Lịch sử | Thi tuyển | C | 18 |
Sư phạm Ngữ văn | Thi tuyển | C | 18 |
Sư phạm Sinh học | Thi tuyển | B | 17 |
Sư phạm tiếng Anh | Thi tuyển | D1 | 18 |
Sư phạm Tin học | Thi tuyển | A A1 D1 | 17 17 17.5 |
Sư phạm Toán học | Thi tuyển | A A1 | 20 20 |
Sư phạm Vật lí | Thi tuyển | A A1 | 18 18 |
Toán học | Thi tuyển | A A1 | 20 20 |
Văn học | Thi tuyển | C | 16 |
Vật lí học | Thi tuyển | A A1 | 18 18 |
Việt Nam học | Thi tuyển | C | 15 |
Trường Ðại học Sư phạm Hà Nội 2 là đơn vị đào tạo giáo viên, cán bộ khoa học, kĩ thuật trình độ đại học và sau đại học; là trung tâm nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ phục vụ cho phát triển giáo dục, kinh tế, văn hoá của đất nước và hội nhập quốc tế.
Nhà trường trải qua 2 giai đoạn xây dựng và phát triển:
Giai đoạn 1967 - 1975
Trường được thành lập theo quyết định số 128/CP, ngày 14/8/1967 của Hội đồng Chính phủ.Gồm các khoa tự nhiên: Khoa Toán, Khoa Vật lý, Khoa Hoá, Khoa Sinh - Kĩ thuật nông nghiệp, Khoa Kĩ thuật công nghiệp và Khoa cấp 2 của Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
Giai đoạn từ 1975
Ngày 11/10/1975, Bộ trưởng Bộ Giáo dục ra Quyết định số 872/QĐ về việc cải tạo xây dựng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1 và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 để mỗi trường đều hoàn chỉnh, có các khoa đào tạo giáo viên cấp 3 khoa học xã hội, các khoa đào tạo giáo viên cấp 3 khoa học tự nhiên và chuyển Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 lên Xuân Hoà, Sóc Sơn, Hà Nội. Từ đó, Trường bước vào giai đoạn mới, xây dựng và phát triển toàn diện.
Thời kì 1975-1985:
- Đây là thời kì đầy thử thách nhưng cũng thật tự hào của mọi cán bộ và sinh viên.Trường đã xây dựng được đội ngũ cán bộ đông đảo và một hệ thống tương đối hoàn chỉnh các khoa, phòng, ban và đơn vị trực thuộc, đáp ứng toàn diện những lĩnh vực hoạt động của trường.
- Hàng trăm cán bộ đã trưởng thành. Hàng ngàn sinh viên đã tốt nghiệp. Gần một ngàn giáo viên trung học phổ thông các tỉnh, thành phố được đào tạo đạt chuẩn trình độ đại học 4 năm. Hàng trăm cán bộ, công nhân viên các cơ quan, đơn vị đã đạt được bằng tốt nghiệp trung học bổ túc.
Thời kì 1985-1995:
Để đảm bảo chất lượng, phù hợp với nhu cầu xã hội, quy mô đào tạo của Trường bị thu hẹp. Với tiềm lực trí tuệ và quyết tâm, Trường đã có những quyết định quan trọng, tạo nên vị thế mới: mở hệ đào tạo giáo viên cốt cán cấp hai, giáo viên cốt cán bậc Tiểu học và chuyên ngành sau đại học: Tâm lý học sư phạm và lứa tuổi; kiên trì xây dựng đội ngũ, từng bước mở rộng phạm vi tuyển sinh và hình thức đào tạo, giữ ổn định và tự khẳng định vươn lên.
Thời kì 1995-2005:
Đây là thời kì Trường phát triển vững chắc, mở rộng quy mô, từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất, chuẩn hoá đội ngũ, cải thiện đời sống, có vị trí xứng đáng trong mạng lưới các trường đại học: Quy mô tuyển sinh tăng dần; Triển khai đượ nhiều nhiều đề tài và dự án nghiên cứu
Thời kì 2005-2015:
Năm 2005, Trường thành lập Khoa Tin học, Khoa Hoá học, Trung tâm Khảo thí; Năm 2007, Trường thành lập Khoa Giáo dục Chính trị, Khoa Giáo dục Thể chất, Khoa Ngoại Ngữ, Trung tâm Khảo thí và Kiểm định chất lượng, Trung tâm Tin học và Thiết bị kĩ thuật, Trung tâm Hỗ trợ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Thành tựu đạt được:
Đến 8/2007, đào tạo được hơn 20 nghìn cử nhân khoa học hệ chính qui, trong đó 95% làm giáo viên, 4500 chuyên gia cốt cán giáo dục, 550 thạc sĩ; đào tạo nâng chuẩn và bồi dưỡng cho gần 6000 giáo viên các trường phổ thông. Hoạt động khoa học công nghệ: 3 chương trình quốc gia; các đề tài khoa học công nghệ: cấp Nhà nước: 5, cấp bộ: 87, cấp trường: 230; xây dựng chương trình, viết giáo trình đáp ứng đào tạo; Hơn 90 cán bộ bảo vệ thành công luận án tiến sĩ.
Định hướng phát triển trong những năm tới của Đại học sư phạm Hà nội 2 là trở thành trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực, là trung tâm nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ năng động của cả nước.
www.edunet.com.vn
Nguồn: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2