Thông tư THÔNG TƯ CỦA TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC
Hướng dẫn ký kết và thực hiện Hợp đồng kinh tế
(theo Pháp lệnh HĐKT ngày 25/9/1989 và Nghị định 17/HĐBT
ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế)
Căn cứ điều 26 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16-1-1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh HĐKT ngày 25-9-1989, Trọng tài kinh tế Nhà nước ban hành Thông tư này hướng dẫn ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo quy định tại các văn bản nói trên;
I. PHẠM VI CỦA HỢP ĐỒNG KINH TẾ
1. Theo quy định tại các điều 1, 2 và Điều 11 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế thì các hợp đồng có đủ điều kiện sau đây mới gọi là hợp đồng kinh tế:
a) Hợp đồng có nội dung thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình.
b) Các bên ký kết hợp đồng là pháp nhân với pháp nhân hoặc pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều kiện để được thừa nhận là pháp nhân, cá nhân có đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật đã dược quy định tại Điều 1 Nghị định 17-HĐBT ngày 16-1-1990).
c) Hợp đồng được ký kết bằng văn bản hoặc bằng tài liệu giao dịch. Hợp đồng ký kết bằng văn bản tức là hai bên cùng ký hoặc một bên ký trước, bên khác ký sau nhưng cùng ký trên một văn bản. Hợp đồng ký kết bằng tài liệu giao dịch chỉ bao gồm những loại tài liệu như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn dặt hàng. (Các hình thức giao dịch khác như thư từ, điện thoại, giấy giới thiệu, giấy biên nhận, biên lai, hoá đơn, vé tàu xe, sổ tiết kiệm v.v... không được xem là tài liệu giao dịch để ký kết hợp đồng kinh tế, mà chỉ có ý nghĩa làm chứng cứ trong quan hệ hợp đồng kinh tế, đã được ký kết bằng văn bản hoặc bằng tài kiệu giao dịch, công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng).
Như vậy, trong quan hệ hợp đồng nếu thiếu 1 trong 3 điều kiện nói trên thì quan hệ hợp đồng đó không thuộc phạm vi của HĐKT.
2. Theo quy định tại Điều 42, 43 Pháp lệnh HĐKT thì quan hệ hợp đồng giữa các bên sau đây được áp dụng các quy định của Pháp lệnh HĐKT:
a) Giữa pháp nhân với người làm công tác khoa học - kĩ thuật, nghệ nhân, hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân, cá thể;
b) Giữa pháp nhân Việt Nam với tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam.
Trong các trường hợp này, tuy một bên không phải là cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhưng do được áp dụng các quy định của Pháp lệnh HĐKT trong ký kết và thực hiện hợp đồng, nên những hợp đồng đó cũng được xem là HĐKT. Ví dụ: hộ gia đình xã viên (sau khi đã nhận khoán với HTX) ký hợp đồng với các tổ chức làm dịch vụ (cày bừa máy, thuỷ nông, bảo vệ thực vật v.v...), hoặc với các tổ chức mua bán (phân bón, sản phẩm...), mà các tổ chức dịch vụ, mua bán đó là pháp nhân thì những hợp đồng này là hợp đồng kinh tế.
Tổ chức và cá nhân nước ngoài tại Việt Nam là những tổ chức và cá nhân nước ngoài đang thường trú tại Việt Nam. Nếu tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài đó đã tham gia các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài), thì các xí nghiệp này là pháp nhân Việt Nam, do đó quan hệ kinh tế giữa họ (xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài) với nhau hoặc giữa họ với các đơn vị kinh tế của Việt Nam là quan hệ HĐKT. Còn quan hệ giữa các bên liên doanh với nhau (bên Việt Nam và bên nước ngoài) trong hợp đồng liên doanh hoặc trong hợp đồng hợp tác kinh doanh thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật HĐKT, mà thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, còn có những tổ chức và cá nhân nước ngoài vào và ở Việt Nam không phải với mục đích đầu tư kinh doanh (cơ quan đại sứ quán, lãnh sự quán, các tổ chức quốc tế, ngoại kiều...). Nhưng trong nhu cầu công việc và đời sống của họ cần có những quan hệ hợp đồng với các đơn vị kinh tế của Việt Nam. Trường hợp này, nếu đơn vị kinh tế của Việt Nam là pháp nhân thì quan hệ hợp đồng đó được xem là quan hệ HĐKT. Những hợp đồng giữa một bên là đơn vị kinh tế của Việt Nam với một bên là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài không có trụ sở và thường trú tại Việt Nam thì không phải là HĐKT. Trường hợp tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài có đại diện thường trú tại Việt Nam, thì chỉ những quan hệ hợp đồng nào ký kết với pháp nhân Việt Nam có nội dung phục vụ cho nhu cầu công việc và đời sống của đại diện tại Việt Nam, mới thuộc phạm vi của hợp đồng kinh tế, còn những quan hệ hợp đồng mà họ ký với tư cách là đại diện một tổ chức hoặc một cá nhân nước ngoài có nội dung không phải là phục vụ cho nhu cầu công việc và đời sống tại chỗ của họ thì không thuộc phạm vi hợp đồng kinh tế.
II. ĐẠI DIỆN TRONG QUAN HỆ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
1. Đại diện ký kết hợp đồng kinh tế.
Theo quy định tại Điều 9 Pháp lệnh HĐKT, Điều 5 Nghị định 17-HĐBT thì:
a) Mỗi bên tham gia quan hệ HĐKT chỉ cần một đại diện để ký HĐKT. Nếu là pháp nhân thì phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân đó. Đại diện hợp pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hoặc được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó (người phó không phải là đại diện hợp pháp của pháp nhân). Nếu là cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật thì đại diện phải là người đứng tên xin giấy phép kinh doanh, được cấp giấy phép kinh doanh và đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định về đăng ký kinh doanh. Trong tất cả các trường hợp, không bắt buộc kế toán trưởng phải cùng ký với đại diện vào bản HĐKT.
b) Trường hợp một bên là người làm công tác khoa học kỹ thuật, nghệ nhân thì người ký HĐKT phải là người trực tiếp thực hiện công việc trong HĐKT đó, nếu có nhiều người cùng làm thì người ký vào HĐKT phải do tất cả những người đó cử. Văn bản cử người thay mặt ký HĐKT phải có chữ ký của tất cả những người đó và phải kèm theo HĐKT. Khi một bên là hộ kinh tế gia đình, hộ nông dân, ngư dân cá thể thì đại diện phải là chủ hộ; là tổ chức nước ngoài tại Việt Nam thì đại diện phải do tổ chức đó uỷ nhiệm bằng văn bản; là cá nhân nước ngoài tại Việt Nam thì bản thân họ phải là người ký hợp đồng kinh tế.
2. Đại diện trong quá trình thực hiện HĐKT và trong tố tụng trọng tài kinh tế.
Đại diện ký kết HĐKT như đã nêu trên cũng chính là đại diện đương nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế và trong tổ chức tố tụng trọng tài kinh tế;
III. UỶ QUYỀN ĐẠI DIỆN
1. Đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh có thể uỷ quyền cho người khác thay mình để ký kết hợp đồng kinh tế (trừ những loại HĐKT mà pháp luật đã quy định phải đăng ký, những hợp đồng kinh tế dược ký kết bằng tài liệu giao dịch: công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng).
2. Đại diện đương nhiên của các bên trong quá trình thực hiện HĐKT và tố tụng trọng tài kinh tế (như đã nêu tại điểm 2 mục II) có thể uỷ quyền cho người khác thay mình thực hiện các công việc của HĐKT cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong tố tụng trọng tài kinh tế.
3. Việc uỷ quyền cho người khác làm đại diện phải được làm thành văn bản có ghi rõ họ tên, chức vụ, nơi làm việc,giấy chứng minh của người được uỷ quyền, phạm vi uỷ quyền và thời hạn uỷ quyền.
4. Người được uỷ quyền chỉ được phép hành động trong phạm vi được uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba. Trong phạm vi đã uỷ quyền, người uỷ quyền phải chịu trách nhiệm về hành động của người được uỷ quyền như là hành động của chính mình.
5. Những trường hợp sau đây, có thể áp dụng việc uỷ quyền thường xuyên:
a) Đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân không đầy đủ (thiếu 1 trong 4 điều kiện của pháp nhân theo quy định tại điểm 1 điều 1 Nghị định 17-HĐBT ngày 16-1-1990), nhưng lại có quan hệ kinh tế thường xuyên với nhiều dơn vị kinh tế khác;
b) Người đứng đầu pháp nhân kiêm nhiệm công việc khác nên không có mặt thường xuyên ở đơn vị kinh tế;
Khi uỷ quyền thường xuyên, người uỷ quyền làm văn bản uỷ quyền uỷ thường xuyên cho người quản lý đơn vị kinh tế trực thuộc (trong trường hợp có tư cách pháp nhân không đầy đủ)hoặc người phó của mình ( trường hợp nói tại điểm b mục này). Mỗi lần giao dịch trong quan hệ HĐKT, người được uỷ quyền phải xuất trình văn bản uỷ quyền thường xuyên hoặc cung cấp bản sao (photocopi) văn bản đó. Trách nhiệm của người uỷ quyền và được uỷ quyền trong trường hợp uỷ quyền thường xuyên giống như uỷ quyền không thương xuyên đã dược nêu tại điểm 4 mục này.
IV. QUYỀN KÝ KẾT HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Theo quy định tại Điều 4 pháp lệnh HĐKT thì ký kết HĐKT là quyền của các đơn vị kinh tế. Quyền ký kết HĐKT phải được gắn liền với các điều kiện sau đây:
Không được phép lợi dụng ký kết HĐKT để hoạt động trái pháp luật;
Đối với các đơn vị kinh tế có chức năng sản xuất kinh doanh trong các ngành nghề thuộc độc quyền Nhà nước thì không được lơi dụng quyền ký kết HĐKT để đòi hỏi những điều kiện bất bình đẳng, ép buộc cửa quyền, hoặc vì không đạt được những đòi hỏi bất bình đẳng đó nên dẫ từ chối ký kết HĐKT thuộc ngành, nghề độc quyền của mình;
Nếu các bên không ký kết HĐKT (bằng văn bản hoặc bằng tài liệu giao dịch: công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng) thì khi có tranh chấp sẽ không có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đã bị vi phạm.
Quyền ký kết HĐKT của các đơn vị kinh tế còn được thể hiện trong việc từ chối sự áp đặt của bất cứ một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào trong việc ký kết HĐKT.
V. BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Theo quy định tại điều 5 Pháp lệnh HĐKT thì các bên ký kết có quyền thoả thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT như thế chấp tài sản, cầm cố, bảo lãnh tài sản theo quy định của pháp luật. Nghĩa là, khi một bên đòi hỏi và bên kia chấp nhận thì một trong các biên pháp này mới được áp dụng. Trường hợp một bên đòi hỏi mà bên kia không có điều kiện để chấp nhận hoặc không chấp nhận, thì quan hệ HĐKT đó có thể không hình thành. Còn trường hợp cả hai bên đều thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT thì các bên có quyền không áp dụng. Việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT không phụ thuộc vào thành phần kinh tế của mỗi bên, mà chủ yếu là do yêu cầu và sự thoả thuận của các bên.
Nguyên tắc, thủ tục áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện HĐKT đã được quy định tại Điều 2 Nghị định 17-HĐBT ngày 16-1-1990.
Để tránh tình trạng một số tài sản được đem thế chấp nhiều nơi, khi áp dụng biện pháp này, bên đòi thế chấp phải xem xét cụ thể tài sản đó hiện còn đang thế ở đâu chưa. Nếu tài sản đó hiện không thế chấp ở một nơi nào khác thì khi nhận thế chấp cần yêu cầu giữ giấy tờ sở hữu tài sản đó nhằm ngăn chặn không để cho tài sản đó được đem thế chấp nơi khác.
VI. HÌNH THÀNH HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh HĐKT thì hợp đồng kinh tế bằng văn bản được coi là đã hình thành và có giá trị pháp lý từ thời điểm các bên đã ký vào văn bản, trừ các hợp đồng kinh tế mà pháp luật có quy định phải đăng ký mới có giá trị pháp lý, HĐKT bằng tài liệu giao dịch ( công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng) được coi là đã hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịchthể hiện sự thoả thuận về tất cả những điều khoản chủ yếu của loại HĐKT đó. Căn cứ để xác nhận tài liệu giao dịch đã được phát đi hoặc nhận được là các chứng từ về giao nhận qua bưu điện hoặc trực tiếp ký sổ. Các loại HĐKT mà pháp luật quy định phải đăng ký không được ký kết bằng tài liệu giao dịch.
VII. CHỨNG THƯ, ĐĂNG KÝ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
1. Theo quy định tại Điều 6 Pháp lệnh HĐKT, Điều 4 Nghị định 17- HĐKT, các bên có quyền thoả thuận việc làm chứng thư HĐKT. Nghĩa là khi cả hai bên thấy cần làm chứng thư hợp đồng kinh tế hoặc khi một bên yêu cầu, bên kia chấp thuận thì các bên đưa HĐKT đến làm chứng thư tại một cơ quan công chứng Nhà nước hoặc tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có cơ quan công chứng).
Chứng thư hợp đồng kinh tếlà sự xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về sự kiện pháp lý là các bên đã ký kết bản HĐKT đó. Chứng thư hợp đồng kinh tế không có ý nghĩa công nhận tính hợp pháp của nội dung hợp đồng kinh tế.
Như vậy là việc làm chứng thư hợp đồng kinh tế theo quy định tại Quyết định số 222 ngày 5-12-1987 đã hết hiệu lực.
2. Việc đăng ký HĐKT chỉ áp dụng đối với những loại HĐKT mà pháp luật đã quy định phải đăng ký mới có gía trị pháp lý. Các loại HĐKT không phải đăng ký ở bất cứ một cơ quan nào.
Trường hợp một hoặc các bên ký kết HĐKT muốn được bảo đảm tính hợp pháp của nội dung hợp đồng kinh tế, thì có thể yêu cầu một cơ quan TTKT nào thuận tiện nhất giúp đỡ, xem xét nội dung, góp ý kiến để sửa chữa các sai sót trong văn bản HĐKT đó. Trường hợp này không được xem là đăng ký HĐKT.
VIII. HỢP ĐỒNG KINH TẾ TRÁI PHÁP LUẬT.
1. HĐKT bị coi là vô hiệu toàn bộ
Theo quy định tại điều 8 Pháp lệnh HĐKT, những HĐKT nào có một trong các nội dung sau đây thì coi là vô hiệu toàn bộ ngay từ khi HĐKT đó được hình thành:
a) Nội dung HĐKT vi phạm điều cấm của pháp luật: Những bản HĐKT có nội dung công việc đã bị pháp luật cấm ví dụ như sản xuất, tiêu thụ hàng giả, mua bán, vận chuyển hàng cấm, v.v...
b) Một trong các bên ký kết HĐKT không có đăng ký hợp đồng kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng:
Nếu pháp luật đã quy định, để thực hiện công việc đó đòi hỏi cả hai bên phải có đăng ký kinh doanh, mà một trong các bên không có đăng ký kinh doanh, thì HĐKT đó bị coi là vô hiệu toàn bộ; Nếu pháp luật đã quy định chỉ một bên phải có đâưng ký kinh doanh (ví dụ như bên bán, bên làm dịch vụ, bân nhận thầu, bên chủ phương tiện vận tải), mà bên đó không có đăng ký kinh doanh thì HĐKT đó coi là vô hiệu toàn bộ.
Trường hợp một bên ký kết HĐKT để thực hiện một công việc không thuộc hoạt động sản xuất kinh doanh mà mình đã đăng ký thì phải chứng minh bằng các công việc đó không vi phạm pháp luật đăng ký kinh doanh. Nếu chứng minh được thì HĐKT đó mới không bị coi là vô hiệu toàn bộ. Ví dụ: một xí nghiệp đăng ký sản xuất vật liệu xây dựng ký HĐKT bán cho một đơn vị khác một số mặt hàng công nghiệp thực phẩm, nhưng xí nghiệp đó chứng minh được rằng số hàng công nghiệp thực phẩm này là do một xí nghiệp công nghiệp thực phẩm khác trả cho xí nghiệp thay vì phải trả bằng tiền mà họ đã mua vật liệu xây dựng của xí nghiệp đó, HĐKT này không bị coi là vô hiệu toàn bộ;
c) Người ký HĐKT không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo:
Hợp đồng kinh tế đã ký kết với đại diện của một hoặc các bên không đúng thẩm quyền nói tại mục II và III thông tư này, Nếu khi phát hiện mà không được sự chấp nhận bằng văn bản về nội dung HĐKT đó của người có thẩm quyền nói tại mục II thông tư này, thì HĐKT đó bị coi là vô hiệu toàn bộ;
Hợp đồng kinh tế được ký kết với người có hành vi lừa đảo như giả danh, giả mạo giấy tờ, chữ ký, con dấu bị coi là vô hiệu toàn bộ. Trong trường hợp này cần phân biệt với việc sử dụng các hợp đồng kinh tế có chữ ký của đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh và đóng dấu sẵn (hợp đồng khống chỉ) bị mất hoặc giao hợp đồng khống chỉ hoặc bản hợp đồng khống chỉ để ký kết HĐKT. Trong quan hệ HĐKT này không bị coi là không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo và bên ký hợp đồng khống chỉ phải chịu trách nhiệm với bên kia về nội dung đã được ghi trong văn bản HĐKT đó.
Những HĐKT có một trong ba nội dung nêu trên đều bị coi là vô hiệu toàn bộ, mà không phân biệt trường hợp một trong các bên không cố ý hoặc không biết trước được quan hệ HĐKT đó là trái pháp luật.
2. Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Pháp lệnh HĐKT thì những HĐKT có một phần nội dung vi phạm đièu cấm của pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng thì bị coi là vô hiệu từng phần (phần vi phạm pháp luật). Ví dụ vi phạm pháp luật quản lý, tiêu chuẩn, đo lường chất lượng sản phẩm; quản lý giá; vi phạm nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ...hoặc trong HĐKT có những thoả thuận vi phạm đến lợi ích xã hội, lợi ích của người khác.
IX. THƯỞNG, PHẠT, BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Pháp lệnh HĐKT, việc đặt khoản tiền thưởng trong HĐKT hoàn toàn do sự thoả thuận của các bên khi điều đó có tác dụng khuyến khích thực hiện tốt HĐKT, đem lại hiệu quả thiết thực (nghĩa là chỉ áp dụng thưởng khi thực hiện tốt hơn các cam kết trong HĐKT, vì thực hiện đúng cam kết trong HĐKT là nghĩa vụ đương nhiên). Việc thưởng có thể do một bên đặt ra cho bên kia hoặc cả hai bên đặt ra cho nhau. Mức tiền thưởng theo tỷ lệ % giá trị hợp đồng hoặc bằng một số tiền tuyệt đối do các bên thoả thuận. Trường hợp đã có quy định mức tiền thưởng của các ngành quản lý ở Trung ương (ví dụ như thưởng trong xây dựng cơ bản tại thông tư số 72TT/LB ngày 8-6-1983 của liên bộ UBXDCBNN và bộ tài chính) thì áp dụng mức tiền thưởng đã được quy định. Các thoả thuận về điều kiện để được nhận thưởng phải được quy định rõ ràng, cụ thể để tránh xẩy ra tranh chấp về tiền thưởng.
2. Theo quy định tại khoản 2 Điều 19, điểm a khoản 2 Điều 29 pháp lệnh HĐKT, tiền phạt vi phạm HĐKT là số tiền mà bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm. Khi ký kết HĐKT, các bên thoả thuận với nhau và ghi vào HĐKT mức phạt đối từng loại vi phạm (theo khung phạt đã được quy định tại Điều 13 Nghị định 17- HĐKT và tại các văn bản quy định loại HĐKT cụ thể). Trong trường hợp pháp luật chưa có quy định mức phạt, các bên có quyền thoả thuận mức phạt bằng tỷ lệ % giá trị hợp đồng hoặc bằng một số tiền tuyệt đối, nhưng không vượt quá 12% giá trị HĐKT. Nếu trong HĐKT không ghi mức phạt, khi có vi phạm HĐKT và tranh chấp về tiền phạt thì áp dụng theo quy định tại Điều 13 Nghị định 17- HĐBT và tại các văn bản quy định loại HĐKT cụ thể.
3. Tại Điều 30 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, điểm c Điều 21 Nghị định 17- HĐBT quy định phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán áp dụng mức lãi suất tín dụng quá hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cần được hiểu là: 1) Lãi suất tín dụng qua hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định (không cố định theo thời gian), tính theo tháng; 2) Tiền phạt được tính theo lãi suất tín dụng quá hạn và thời gian chưa hoàn thành nghĩa vụ thanh toán (kể từ ngày hết thời hạn thanh toán theo quy định tại Điều 23 Pháp lệnh HĐKT), và không bị giới hạn số tiền phạt tối đa. Ví dụ: theo HĐKT, A giao hàng cho B trị giá 100 triệu đồng, theo thoả thuận trong hợp đồng, B có nghĩa vụ phải trả tiền cho A trong 5 ngày kể từ ngày nhận hàng, nhưng thực tế hết hạn 5 ngày B chưa trả tiền cho A. Lãi suất tín dụng quá hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại thời điểm này là 6%. Vậy, Nếu sau một tháng B mới trả, thì B phải trả thêm 100 triệu x 6% = 6 triệu đồng tiền phạt cho A; Nếu sau 2 tháng mới trả thêm 100 triệu x 6% x2 tháng=12 triệu đồng tiền phạt cho A.
4. Theo quy định tại khoản b điểm 2 Điều 29 Pháp lệnh HĐKT; Điểm b khoản 2 Điều 21 Nghị định 17-HĐBT, thì trong trường hợp có thiệt hại, bên vi phạm HĐKT phải bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm các khoản tiền sau đây:
a) Giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng bao gồm cả số tiền lãi phải trả cho Ngân hàng (trong trường hợp bị vi phạm nghĩa vụ thanh toán) và các chi phí cần thiết mà bên bị vi phạm đã phải chi ( chi phí chờ đợi, vận chuyển, bảo quảnv.v...), các khoản thu nhập trực tiếp và thực tế đã không thu được (trong trường hợp có đầy đủ chứng cứ rõ ràng do bị vi phạm HĐKT nên bị đã bị mất một khoản thu trực tiếp mà nếu không bị vi phạm HĐKT thì khoản thu này là một khoản thu thực tế);
b) Các chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra (chi phí hợp lý và cần thiết) mà bên bị vi phạm đã phải chi. Bên bị vi phạm có nghĩa vụ phải chứng minh việc đã áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế thiệt hại sau khi được biết có vi phạm;
c) Tiền phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại mà bên bị vi phạm đã phải trả cho người khác do hậu quả trực tiếp của sự vi phạm hợp đồng gây ra (chỉ kể những hậu quả trực tiếp do vi phạm hợp đồng này dẫn đến sự vi phạm hợp đồng với người khác).
Trong các khoản tiền nói trên, bên bị vi phạm đã bị thiệt hại khoản nào thì mới được đòi bồi thường khoản đó.
X. THỰC HIỆN, THAY ĐỔI, HUỶ BỎ, ĐÌNH CHỈ,
THANH LÝ HĐKT
1. Thực hiện đúng và đầy đủ cam kết trong HĐKT trên tinh thần hợp tác, tôn trọng lợi ích của nhau là nghĩa vụ hàng đầu của các đơn vị kinh tế. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được can thiệp trái pháp luật đến việc đơn vị kinh tế thực hiện HĐKT đã ký. Đơn vị kinh tế có quyền từ chối sự can thiệp trái pháp luật đó.
2. Việc thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ thực hiện HĐKT đã ký do các bên thoả thuận trên cơ sở một bên đề suất yêu cầu, bên kia xem xét chấp nhận hoặc các bên đều có ý muốn thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ thực hiện hợp đồng. Sự thoả thuận đó nhất thiết phải được làm thành văn bản có ghi rõ hậu quả pháp lý của việc thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ thực hiện hợp đồng. Nội dung hậu quả pháp lý đã được ghi tại Điều 19 Nghị định 17- HĐBT. Nếu một bên đề xuất yêu cầu thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ thực hiện hợp đồng mà bên kia không chấp nhận, hoặc các bên không thoả thuận được với nhau về hậu quả pháp lý của việc thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ thực hiện hợp đồng, thì các bên có quyền yêu cầu trọng tài kinh tế giải quyết.
3. Quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau:
a - Có sự vi phạm HĐKT của bên cùng ký và đã được bên ấy thừa nhận và thông qua các chứng từ, văn bản hoặc đã được TTKT có thẩm quyền kết luận bằng văn bản;
b - Nếu việc tiếp tục thực hiện HĐKT đó không mang lại lợi ích cho bên bị vi phạm như mục như mục đích khi ký kết HĐKT.
4. Theo quy định tại Điều 28 Pháp lệnh HĐKT, Điều 20 Nghị định 17- HĐBT, việc thanh lý HĐKT là quyền và nghĩa vụ của các bên ký kết HĐKT đối với nhau. Trong các trường hợp đã quy định là phải thanh lý HĐKT (Điều 28 Pháp lệnh HĐKT), Nếu một bên yêu cầu thanh lý HĐKT mà bên kia không chấp nhận hoặc cố tình trì hoãn, thì bên yêu cầu thanh lý có quyền yêu cầu TTKT giải quyết. Nếu quá thời hạn 10 ngày mà các bên không thanh lý HĐKT và trong thời hạnh 6 tháng không có khiếu nại về thanh lý HĐKT thì xem như các bên đã từ bỏ quyền thanh lý HĐKT.
XI. TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG KINH TẾ
1. Bên vi phạm nghĩa vụ thanh toán, ngoài việc chịu phạt vi phạm hợp đồng theo lãi suất tín dụng quá hạn, còn phải chịu bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm. Tiền bồi thường bằng tổng số tiền lãi mà bên vi phạm phải trả cho Ngân hàng (trên số tiền chưa được thanh toán), kể cả trường hợp bên bị vi phạm đã phải chuyển sang nợ quá hạn của Ngân hàng.
2. Bên vi phạm hợp đồng về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, công việc không đúng yêu cầu kỹ thuật, có quyền:
a - Hoặc không nhận sản phẩm, hàng hoá, công việc không đúng chất lượng thoả thuận trong HĐKT, bắt phạt vi phạm HĐKT và đòi bồi thường thiệt hại giống như trường hợp không thực hiện hợp đồng;
b - Hoặc nhận sản phẩm, hàng hoá, công việc với điều kiện bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm về chất lượng (theo mức phạt các bên đã thoả thuận, hoặc theo quy định của pháp luật), hoặc phải giảm giá (không áp dụng phạt vi phạm chất lượng);
c - Hoặc yêu cầu bên vi phạm phải sửa chữa sai sót về chất lượng trước khi nhận. Nếu phải sửa chữa sai sót mà hợp đồng không được thực hiện theo đúng thời hạn thì phải chịu phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại giống như trường hợp vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng.
3. Bên vi phạm hợp đồng về chất lượng trong thời gian bảo hành được giải quyết theo một trong các cách sau đây:
a- Đòi giảm giá hoặc đổi lấy sản phẩm khác;
b- Yêu cầu bên vi phạm thoả thuận cho mình tự sửa chữa các sai sót về chất lượng. Chi phí sửa chữa bên vi phạm phải trả;
c- Yêu cầu bên vi phạm phải sửa chữa sai sót về chất lượng. Nếu không được sửa chữa hoặc việc sửa chữa bị kéo dài dẫn đến sản phẩm hàng hoá không thể sử dụng được theo đúng mục đích của bên hợp đồng kinh tế đã ký kết thì bên vi phạm phải chịu phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại giống như trường hợp không thực hiện HĐKT;
Thiệt hại phát sinh do chất lượng sản phẩm hàng hoá, công việc không đúng theo HĐKT, và xẩy ra trong thời hạn bảo hành, mà các sản phẩm, hàng hoá, công việc đó thuộc loại bảo hành bắt buộc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hành có nghĩa vụ phải bồi thường.
4. Bên vi phạm hợp đồng về thời hạn thực hiện HĐKT có quyền:
a- Hoặc không nhận sản phẩm, hàng hoá, công việc hoàn thành, chậm trễ, bắt phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại giống như trường hợp không thực hiện hợp đồng;
b- Hoặc nhận sản phẩm, hàng hoá, công việc hoàn thành chậm trễ và bắt phạt vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng và bồi thường thiệt hại.
Trường hợp một phần hoặc toàn bộ nội dung công việc của hợp đồng đã hoàn thành trước thời hạn, Nếu trong hợp đồng không có quy định bên nhận phải tiếp nhận trước thời hạn, thì bên tiếp nhận có quyền chưa tiếp nhận hoặc tiếp nhận với điều kiện bên giao phải chịu các phí tổn bảo quản trong thời gian chưa đến hạn quy định.
5. Bên bị vi phạm hợp đồng về không hoàn thành đồng bộ có quyền:
a- Yêu cầu bên vi phạm phải hoàn thành đồng bộ sản phẩm, hàng hoá, công việc rồi mới nhận. Nếu phải chờ hoàn thành đồng bộ mà hợp đồng không thực hiện đúng thời hạn, thì bên vi phạm phải chịu phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại giống như trường hợp vi phạm thời hạn thực hiện hợp đồng;
b- Nhận sản phẩm hàng hoá, công việc chưa hoàn thành đồng bộ với điều kiện bên vi phạm chịu phạt vi phạm hợp đồng không hoàn thành đồng bộ và trả các chi phí cần thiết để hoàn thành đồng bộ.
6. Khi một bên không tiếp nhận sản phẩm, hàng hoá, công việc đã được hoàn thành đúng chất lượng và thời hạn theo HĐKT thì bên kia có quyền:
a- Bắt bên vi phạm chịu phạt vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận sản phẩm, hàng hoá, công việc đã hoàn thành theo đúng HĐKT;
b- Đòi bên vi phạm phải trả các chi phí chuyên trở, bảo quản và các thiệt hại khác do vi phạm nghĩa vụ tiếp nhận;
c- Yêu cầu TTKT giải quyết để tránh các thiệt hại khác có thể phát sinh.
7. Khi một bên đơn phương đình chỉ thực hiện HĐKT không đúng quy định tại Điều 27 Pháp lệnh HĐKT, bên kia có quyền:
a- Hoặc đòi hỏi tiếp tục thực hiện HĐKT đã ký kết với thời hạn có hiệu lực của hợp đồng được kéo dài thêm một thời gian bằng thời gian HĐKT đã bị đình chỉ;
b- Hoặc đòi phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại giống như trường hợp không thực hiện hợp đồng.
8. Khi một bên không thực hiện HĐKT đã ký kết thì bên kia có quyền:
a- Hoặc đòi phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại do không thực hiện hợp đồng;
b- Hoặc đòi phải thay thế việc thực hiện hợp đồng bằng cách phải trả gọn một số tiền nhất định. Số tiền này có thể được thoả thuận lúc ký hợp đồng hoặc lúc đã xẩy ra vi phạm.
XII. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Bãi bỏ tất cả các thông tư hướng dẫn ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế của Trọng tài kinh tế Nhà nước, TTKT các tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương đã ban hành trước ngày 25-9-1989 và những quy định trong các văn bản khác của Trọng tài kinh tế Nhà nước, TTKT các tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương, trái với nội dung của Thông tư này./.