Văn bản pháp luật: Thông tư 46/TC-NLTL

 
Công báo số 20/1984;
Thông tư 46/TC-NLTL
Thông tư
01/01/1985
02/11/1984

Tóm tắt nội dung

Hướng dẫn chế độ quản lý vốn đo đạc, phân hạn và đăng ký thống kê ruộng đất theo Chỉ thị số 299-TTg ngày 10-11-1980 của Thủ tướng Chính phủ

 
1.984
 

Toàn văn

Thông tư

THÔNG TƯ

CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 46/TC-NLTL NGÀY 2-11-1984
HƯỚNG DẪN CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ VỐN ĐO ĐẠC, PHÂN HẠNG VÀ
ĐĂNG KÝ THỐNG KÊ RUỘNG ĐẤT THEO CHỈ THỊ SỐ 299/TTG
NGÀY 10-11-1980 CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ.

Thi hành Chỉ thị số 299-TTg ngày 10-11-1980 của Thủ tướng Chính phủ từ 1980 đến nay, hàng năm ngoài việc huy động công lao động và hiện vật do dân đóng góp, Ngân sách Nhà nước Trung ương và địa phương đã giành một số khá lớn để chi cho công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất ở các địa phương và đã đạt được một số kết quả nhất định.

Ngày 19-11-1983 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị quyết số 138-HĐBT quy định chế độ phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước, xác định rõ nguồn vốn đầu tư và trách nhiệm quản lý của mỗi cấp ngân sách.

Để tiếp tục đẩy mạnh công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong những năm tới, đồng thời sắp xếp các khoản chi tiêu của Ngân sách nước theo đúng nghị quyết nói trên, sau khi thảo luận với Tổng cục quản lý ruộng đất, Bộ Tài chính quy định chế độ quản lý vốn như sau:

 

I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

1. Chỉ thị số 299-TTg của Thủ Tướng Chính phủ đã quy định "Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố cần huy động và sử dụng mọi lực lượng cán bộ và khả năng vật tư tài chính hiện có của địa phương để triển khai công tác này trong địa phương mình..." Vì vậy mọi nhu cầu chi ngoài phần đóng góp của dân đều do ngân sách địa phương đài thọ. Đối với các tỉnh, thành phố chưa cân đối được ngân sách thì ngân sách trung ương sẽ trợ cấp theo quy định tại điều 5 mục A phần I của Nghị quyết số 138-HĐBT ngày 19-11-1983.

2. Mọi nguồn vốn huy động của dân hoặc do Ngân sách Nhà nước chi đều phải được sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ và tiêu chuẩn định mức đo đạc, phân hạng và đăng ký, thống kê đã quy định.

3. Các tỉnh, thành phố có trách nhiệm quản lý tất cả các nguồn vốn đầu tư cho công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký, thống kê ruộng đất ở địa phương mình.

 

II. NỘI DUNG CHI PHÍ ĐO ĐẠC, PHÂN HẠNG VÀ ĐĂNG KÝ THỐNG KÊ RUỘNG ĐẤT.

1. Căn cứ vào nội dung và tính chất công việc thì các chi phí chủ yếu của công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký, thống kê ruộng đất gồm:

a) Chi đo đạc . Căn cứ vào hiện trạng ruộng đất của từng địa phương và yêu cầu của công việc đo đạc để xác định mức chi phí cho các hình thức đo đạc như đo mới, đo bổ sung, đo bao, đo khoanh, chi đo chỉnh lý ảnh, chỉnh lý bản đồ giải thửa, v.v...

b) Chi phân hạng ruộng đất như chi phí lấy mẫu, phân tích, xét nghiệm đất.

c) Chi đăng ký và thống kê ruộng đất theo từng đối tượng sử dụng.

d) Các khoản chi đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đo đạc ruộng đất cho các lực lượng trưng tập hoặc hợp đồng.

Mỗi nội dung chi trên đây cần được phản ảnh theo từng yếu tố chi phí như tiền lương của cán bộ công nhân, tiền công trả cho người trưng tập, làm hợp đồng, các chi phí về vật liệu phân bổ dụng cụ, vật rẻ tiền, chi văn phòng phẩm, chi mua sắm khấu hao và sửa chữa tài sản cố định...

2. Các khoản chi phục vụ cho công tác đo đạc phân hạng và đăng ký, thống kê ruộng đất do Tổng cục quản lý ruộng đất đảm nhiệm gồm:

- Chi phí in: chụp ảnh bằng máy bay đo độ cao.

- Chi in ấn tài liệu liên quan đến công tác đo đạc phân hạng và đăng ký, thống kê ruộng đất.

- Chi đào tạo bồi dưỡng, các chi phí cho việc kiểm tra đánh giá chất lượng công tác đo đạc của địa phương.

III. NGUỒN VỐN

1. Vốn chi cho công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký, thống kê ruộng đất tiến hành trên lãnh thổ địa phương gồm:

Nguồn vốn do người chủ sử dụng ruộng đất đóng góp bằng tiền, bằng vật liệu, hoặc bằng công lao động phục vụ việc đo đạc phân hạng, đăng ký và các khoản thu lệ phí sử dụng ruộng đất theo quy định hiện hành của Nhà nước.

Nguồn vốn sự nghiệp kinh tế của Ngân sách Nhà nước ở địa phương như đã quy định tại điểm 2, phần B, mục I, Nghị quyết số 138-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng

Từ năm 1985 cần tính toán đưa khoản chi này vào cân đối Ngân sách địa phương. Sau khi sắp xếp lại thu chi ngân sách mà thật sự không có khả năng tự cân đối được thì Bộ Tài chính xem xét bảo đảm vốn cần thiết phải bổ sung để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của địa phương, trong đó có việc đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất.

2. Nguồn vốn chi cho một số công việc do Tổng cục quản lý ruộng đất đảm nhiệm như quy định ở điểm 2, mục II trên đây sẽ do Ngân sách trung ương cấp phát cho Tổng cục quản lý ruộng đất theo kế hoạch đã được Nhà nước duyệt.

IV. LẬP KẾ HOẠCH, CẤP PHÁT VÀ THANH QUYẾT TOÁN VỐN

1. Lập kế hoạch:

Căn cứ vào yêu cầu khối lượng, tiến bộ phải hoàn thành và khả năng của các địa phương, Tổng cục quản lý ruộng đất cần tính toán và kiến nghị với Hội đồng Bộ trưởng giao số hướng dẫn cho các địa phương hàng năm.

Căn cứ vào số hướng dẫn, các Ban quản lý ruộng đất địa phương tổ chức xây dựng kế hoạch từ cơ sở theo đúng trình tự và nội dung kế hoạch hoá của Nhà nước, trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố duyệt, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trình kế hoạch để Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn. Chỉ tiêu chính thức sau khi được Chính phủ duyệt là căn cứ cho cơ quan tài chính trung ương và địa phương cấp phát - kế hoạch vốn phải được xác định trên cơ sở chỉ tiêu nhiệm vụ, các tiêu chuẩn, chế độ hiện hành của Nhà nước và các định mức của Tổng cục quản lý ruộng đất. Kế hoạch năm phải được phân chia thành kế hoạch từng quý.

2. Cấp phát:

Căn cứ vào kế hoạch năm, quý, Bộ Tài chính cấp phát kinh phí cho Tổng cục quản lý ruộng đất, các Sở Tài chính cấp phát kinh phí cho các Ban quản lý ruộng đất theo đúng chế độ cấp phát vốn sự nghiệp kinh tế hiện hành.

3. Quyết toán:

Ban quản lý ruộng đất của tỉnh, thành phố phải quyết toán với các Sở Tài chính và gửi quyết toán cho Tổng cục quản lý ruộng đất để tổng hợp theo ngành, các Sở Tài chính gửi quyết toán được duyệt cho Bộ Tài chính.

Tổng cục quản lý ruộng đất quyết toán số kinh phí được cấp và đã sử dụng theo đúng chế độ quyết toán đã quy định tại Quyết định số 3-TC/TDT ngày 30 tháng 3 năm 1972 của Bộ Tài chính.

 

V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Thông tư này thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 1985. Trong quá trình thực hiện có vướng mắc đề nghị các địa phương phản ảnh kịp thời về Bộ Tài chính để giải quyết.

 


Nguồn: vbpl.vn/TW/Pages/vbpq-thuoctinh.aspx?ItemID=3347&Keyword=


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận