Căn cứ Nghị định số 108-CP ngày 13-5 -1978 của Hội đồng Chính phủ về trách nhiệm và quyền hạn quản lý tài chính và ngân sách của chính quyền Nhà nước cấp tỉnh và cấp huyện.
Căn cứ Quyết định số 91-TTg ngày 15-4-1981 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 34-CT ngày 5-8-1981 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc điều chỉnh giá thu mua và giá bán lẻ muối ở các tỉnh thành phố phía Bắc và phía Nam;
Bộ Tài chính đã ra Thông tư số 11-TC/CTN ngày 28-5-1981 hướng dẫn thi hành chế độ thu thuế muối. Nay Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành việc điều tiết thuế muối cho ngân sách xã như sau:
1. Thuế muối là loại thuế công thương nghiệp và đã được điều tiết một phần cho ngân sách tỉnh và thành phố tại Quyết định số 14-TC/QLNS ngày 24-5-1980 của Bộ Tài chính. Nay cần đặt vấn đề điều tiết thuế muối cho ngân sách xã có làm muối nhằm:
Bảo đảm tăng nguồn thu cho ngân sách xã, tạo điều kiện cho chính quyền cấp xã có nghề làm muối có phương tiện tài chính để làm tròn chức trách và nhiệm vụ của mình;
- Khuyến khích chính quyền cấp xã có nghề làm muối tích cực giúp các cơ sở làm muối và các tổ chức thu mua muối của Nhà nước hoàn thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước về sản xuất và thu mua muối, chống mua bán muối trái phép, trốn thuế, lậu thuế, bảo đảm tập trung vào tay Nhà nước tuyệt đại bộ phận muối sản xuất tại địa phương.
2. Căn cứ tình hình sản xuất, thu mua, giao nộp muối cho Nhà nước, tình hình thu thuế muối ở từng vùng làm muối, Bộ Tài chính quy định chung cho toàn tỉnh và thành phố một tỷ lệ điều tiết thuế muối cho ngân sách xã có nghề làm muối như sau:
- Tỉnh Hà Nam Ninh được điều tiết bình quân bằng 2% số thuế muối thu tại địa phương cho ngân sách xã.
- Tỉnh Nghệ Tĩnh được điều tiết bình quân bằng 3%.
- Thành phố Hải Phòng, tỉnh Thái Bình, Thanh Hoá 5%.
- Tỉnh Quảng Ninh, Bình Trị Thiên 10%.
- Các tỉnh và thành phố phía Nam (từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở vào) 5%.
Căn cứ tỷ lệ điều tiết trên, các
y ban nhân dân tỉnh quy định tỷ lệ điều tiết thuế muối dành cho ngân sách xã A này là 2%. Như vậy, việc phân chia số thu về thuế muối giữa các cấp ngân sách được thực hiện như sau:Tổng số thu về thuế muối ở xã A là: 750đ x 1000T = 750000 đồng
Số thu về thuế muối trích dành cho ngân sách xã A: 750000 đ x 2% = 15000đ.
Số thuế muối còn lại (sau khi đã trích cho ngân sách xã A) là 750000 đ - 15000đ = 735000 đồng và số này được coi là 100% số thu nộp cho ngân sách Nhà nước và được phân chia giữa 3 cấp ngân sách theo tỷ lệ điều tiết thuế công thương nghiệp hiện hành:
1. Số thu vào ngân sách Trung ương:
735000đ x 25% = 183750 đồng
2. Số thu vào ngân sách tình X:
735000 đ x 35% = 257250 đồng
3. Số thu vào ngân sách huyện Y:
735000đ x 40% = 294000 đồng.
4. Phần thuế muối điều tiết cho mỗi xã làm muối được trích theo tỷ lệ điều tiết do
y ban nhân dân tỉnh và thành phố đã quyết định cho từng xã; đơn vị nộp số thu về muối phải căn cứ quyết định đó mà lập hai giấy nộp tiền: Một giấy để nộp vào ngân sách xã, một giấy để nộp vào ngân sách huyện, ngân sách cấp tỉnh, thành phố và ngân sách trung ương. Ngân hàng Nhà nước huyện hạch toán phần thuế muối dành cho ngân sách mỗi xã vào tiểu khoản của xã đó thuộc tài khoản 770 (ngân sách xã) mở tại Ngân hàng Nhà nước huyện.Thi hành Thông tư số 5-TT/LB ngày 7-3-1979 liên Bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam , Ban Tài chính giá cả huyện, thị cần tăng cường kiểm tra việc hạch toán số thuế muối thu được trên địa bàn huyện phân chia cho các cấp ngân sách trung ương tỉnh, thành phố, huyện và xã; nếu phát hiện có sai sót, thì thông báo kịp thời cho Ngân hàng Nhà nước huyện để điều chỉnh lại cho đúng.
5. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1982.