Bão Cát Chương 19

Chương 19
Ngày 4 tháng 12, 12 giờ 2 phút chiều Dưới lòng đất

Safia bước vội xuống con đường ngoằn ngoèo, dẫn đường những người khác. Vụ nổ phía trên làm tất cả bọn họ hoảng sợ. Mảnh vụn các loại thủy tinh, đá... thậm chí cả một khối kim loại lăn lông lốc rồi rơi rào rào từ trên xuống giống như một thứ đồ chơi trẻ em quanh chỗ lượn rồi rơi tọt xuống dưới.

Omaha dùng đèn pin chiếu theo cho tới khi nó biến mất. Tiếng động phía trên giảm dần, chỉ còn lại tiếng vọng.

- Có chuyện gì xảy ra vậy? - Safia hỏi.

Omaha lắc đầu.

- Anh đoán chắc là Painter.

Kara đi bên cạnh nàng.

- Barak và Coral quay lại xem sao.

 

Phía sau họ là Danny và Clay mang vác các thứ. Họ cầm đèn pin. Clay cầm nó bằng cả hai tay như thể nó là mạng sống của cậu ta. Safia phân vân liệu cậu ta sau này có dám tình nguyện đi thực địa một chuyến nữa không.

Phía sau là những người Rahim, cũng đeo những thứ thiết bị như vậy. Chỉ có một vài ánh đèn pin. Lu’lu đang cúi xuống trao đổi với một người lớn tuổi nữa dẫn họ đi. Họ đã mất 6 phụ nữ trong cuộc chiến đấu và trận đánh bom. Safia đọc thấy nỗi đau buồn trong mắt của tất cả bọn họ. Một đứa trẻ khẽ khóc ở phía sau. Với cuộc sống tách biệt của mình, những người Rahim coi mỗi cái chết của một người bọn họ như sự mất mát lớn lao. Số người của họ đã giảm xuống chỉ còn 30, ¼ trong đó là trẻ nhỏ và bà già.

Nền dưới chân bỗng khác hẳn từ thủy tinh gồ ghề sang đá. Safia nhìn xuống khi họ đi qua một chỗ lượn.

- Sa thạch. - Omaha nói. - Chúng ta đã tới đoạn cuối của khu vực bị nổ.

Kara rọi đèn trở lại.

- Vụ nổ đã biến đổi mọi thứ thế này à?

- Một kiểu biến đổi về hình dạng. - Omaha nói, có vẻ như không mấy ấn tượng.

- Hầu hết đoạn đường ngoằn ngoèo ở phía dưới đây. Chỗ gian cầu nguyện chẳng qua là cái nút bị bịt lại. Vụ nổ chỉ có nhiệm vụ bật tung nó lên thôi.

Safia biết anh ta nói vậy để đơn giản hóa mọi chuyện. Nàng vẫn tiếp tục bước đi. Nếu như đã qua đoạn đường thủy tinh để tới đoạn tiếp bằng đá thì chắc sắp tới đích. Sa thạch dưới chân vẫn còn ướt. Liệu họ có tìm thấy đoạn đường bị ngập nước không? Chưa kể còn phải đối mặt với Cassandra.

Có tiếng ồn ào thu hút sự chú ý của nàng. Coral và Barak bước tới chỗ họ. Safia dừng lại cùng với mọi người.

 

Coral chỉ về phía sau.

- Painter đã làm điều đó. Dùng một chiếc xe bịt chặt miệng hang lại.

- Một chiếc xe cỡ lớn. - Barak nói rõ hơn.

- Thế còn Painter thì sao? - Safia hỏi.

Đôi mắt của Coral nheo lại lo lắng.

- Không thấy đâu cả.

Safia liếc nhìn về phía sau cô ta, tìm kiếm.

- Việc đó đã ghìm chân bọn Cassandra khiến chúng không thể bám đuôi chúng ta được nữa. Tôi đã nghe bọn chúng đào bới. - Coral nói tiếp. - Painter đã cho chúng ta có thêm thời gian, cần phải tận dụng.

Nghe vậy Safia bỗng thấy rùng mình. Coral nói đúng. Nàng quay lại tiếp tục bước đi. Chả ai nói câu nào nữa.

- Chúng ta đang ở sâu bao nhiêu rồi? - Kara hỏi.

- Tôi cho rằng khoảng 200 fít, - Omaha trả lời.

Đi qua một khúc quanh nữa là thấy một cái hang hiện ra, to bằng hai lần cái ga ra ô tô. Ánh đèn pin rọi vào phản chiếu một giếng nước nằm chính giữa. Mặt nước xao động nghe có tiếng róc rách, sương khói mờ ảo. Những giọt nước nhỏ li ti rỏ từ trên trần xuống.

- Đây chính là nguồn của máng dẫn nước. - Omaha nói. - Vụ nổ chắc phải hút nước lên giống như sữa chảy qua một cái ống hút.

Tất cả bọn họ đều bước v ào hang. Một khối đá bao bọc quanh miệng giếng.

- Nhìn xem này. - Kara chiếu đèn pin vào một cánh cửa phía bên kia.

Họ đi vòng quanh miệng giếng.

Omaha sờ tay lên mặt cánh cửa.

 

- Cửa này cũng làm bằng sắt nữa. Quanh đây có vẻ như mọi thứ đều bị nung chảy.

Cửa có tay nắm để mở nhưng đã bị một thanh ngang chốt lại suốt cả khung cửa.

- Để giữ cho áp lực của căn phòng kín. - Coral nói từ phía sau họ. - Khoảng không rất dễ bị nổ. - Cô ta gật đầu về phía giếng nước.

Từ trên đầu họ, một tiếng nổ vọng xuống.

Omaha nắm lấy thanh chốt ngang rồi giật mạnh. Nó chẳng hề nhúc nhích.

- Mẹ kiếp, chắc bị kẹt rồi. - Anh ta lấy tay chùi vào áo khoác. - Toàn bôi dầu cả.

- Để chống bị rỉ sét. - Danny nói. Cậu ta cũng thò tay vào nhưng cả hai anh em xem ra chẳng ăn thua gì. - Chúng ta cần phải có cái xà beng hoặc vật gì đó.

- Không! - Bà cụ nói từ phía sau. - Những chiếc khóa ở Ubar chỉ có thể do một trong những người Rahim mở mà thôi.

Omaha lại lau tay rồi nói.

- Thưa quý cụ, xin mời cụ thử xem.

Lu’lu gõ gõ cây gậy vào thanh chốt ngang.

- Phải có một người đã được Ubar tôn vinh, mang dòng máu của Quận chúa đầu tiên, tác động vào những cổ vật có giá trị như vậy. - Nói rồi bà cụ quay về phía Safia.

- Nhưng ai mang dòng máu của người Rahim?

- Con ư? - Safia hỏi.

- Con đã qua thử thách. - Bà cụ nhắc nhở. - Những chiếc chìa khóa đã nghe theo lời con.

Safia chợt nhớ lại lúc ở ngôi mộ Job. Nàng nhớ lúc chờ ngọn giáo và pho tượng bán thân xoay xoay chỉ về phía Ubar. Ban đầu chả có điều gì xảy ra. Lúc đó nàng đeo đôi găng tay bảo hộ. Gã Kane đã đến cầm ngọn giáo cắm vào lỗ. Nó không hề nhúc nhích. Chỉ đến khi nàng dùng những ngón tay trần của mình gạt những giọt nước mưa giống như nước mắt trên gò má của pho tượng. Nó không nhúc nhích cho đến khi nàng


chạm vào.

Rồi nó chuyển động.

Và lại đến cặp sừng của con bò mộng. Chả có gì xảy ra cho đến khi nàng kiểm tra nó, làm phát ra một vài tia lửa tĩnh điện. Chính nàng đã khởi phát quả bom bằng việc quệt một ngón tay vào đó.

Lu’lu gật đầu ra hiệu cho nàng tiến lên.

Safia lầm lũi bước lên.

- Hãy chờ chút đã. - Coral rút một cái gì đó trong túi ra.

- Cái gì vậy? - Omaha hỏi.

- Để thử nghiệm. - Coral nói. - Tôi đã nghiên cứu những chiếc chìa khóa trước đó bằng một vài thiết bị điện tử của Cassandra. - Nói rồi cô vẫy Safia tiếp tục.

- Chết tiệt! - Omaha trợn mắt.

- Ồ, chắc điều đó làm anh ngạc nhiên. - Kara nói.

- Chắc tôi đã làm cho cánh cửa lỏng ra một chút rồi đấy.

Coral lắc đầu.

- Đó là một loại khóa từ.

- Cái gì vậy? - Safia hỏi.

- Đây là một cái máy đo từ trường. - Cô ta nhấc một thiết bị cầm tay lên.

Nó ghi nhận cường độ từ trường. Cực của thanh sắt cũng thay đổi khi anh chạm tay vào.

Safia tròn mắt nhìn vào thanh chốt ngang.

- Làm sao mà...

- Sắt là thứ kim loại dẫn và nhạy cảm với từ trường. Chạm một cây kim vào một từ trường trên la bàn là thấy có sự dịch chuyển. Tuy nhiên, những vật đó cũng đáp ứng với sự có mặt của ta, một lượng năng lượng nào đó do mình phát ra.

 

Safia hình dung ra mũi nhọn trên quả tim bằng sắt nằm trên bàn đá cẩm thạch ở ngôi mộ Imran. Nó dịch chuyển như một cái la bàn, nằm dọc theo một trục nào đó.

Lại nghe thấy tiếng động ở phía bên trên.

Omaha bước lên trước.

- Dù sao thì cửa cũng đã được mở ra rồi, chúng ta hãy thử qua xem sao?

Sau khi thanh chốt được mở, Omaha dùng đèn pin dẫn đường. Đám người kia đi theo sau.

Lối đi chỉ là một quãng ngắn nhưng lại ngoằn ngoèo. Nó dài khoảng 100 fit, dẫn vào một cái hang rộng gấp 4 lần cái hang trên. Một vũng nước lớn chiếm toàn bộ cái hang này, tối đen, lấp lánh và bốc ra một mùi vị rất khó chịu. Chắc chắn là do ẩm ướt nhưng cũng thấy có dấu vết của chất o-zôn - loại khí thường đồng hành với sấm chớp.

Nhưng lúc này những điều đó không làm Safia chú ý.

Cách đó vài bước, một cây cầu dẫn bằng đá vươn ra trên mặt nước. Cuối cầu tàu là một cái thuyền bằng gỗ rất đẹp, một kiểu thuyền buồm A-rập dài khoảng 30 fít. Hai bên sườn ánh lên vết dầu mỡ, đặc biệt sáng lên khi đèn pin rọi vào. Vàng lá được dùng để trang trí mạn thuyền và buồm. Tuy những cánh buồm chả có tác dụng gì ở đây nhưng vẫn thấy có, dù đã được gấp lại và buộc vào.

Những tiếng thầm thì thán phục nổi lên khi cả nhóm tụ tập.

Về phía trái. Một đường hầm ngập nước dẫn vào khoảng tối.

Trên mũi tàu có tượng một người đàn bà, ngực để trần,
đôi tay khép lại trước ngực, mắt nhìn thẳng vào đường hầm ngập nước.

Dù chỉ đứng ở đây, Safia cũng đã nhận ra khuôn mặt của pho tượng.

Quận chúa Sheba.

 

- Sắt. - Omaha nói khi thấy nàng nhìn vào. Anh ta chĩa đèn pin vào pho tượng trên con thuyền. Pho tượng hoàn toàn làm bằng sắt. Anh dịch đèn pin về phía cầu tàu.

- Xem này, có vẻ như chúng ta sắp lên thuyền buồm đến
nơi rồi.

 

 

12 giờ 32 phút tối

 

Ở dưới đáy hệ thống cống, Cassandra nhìn trân trối vào cái xác bầm giập. Ả không biết cảm giác của mình thế nào nữa. Tiếc nuối, giận dữ, thoáng sợ hãi. Không còn thời gian để tìm hiểu nữa. Đầu óc ả xoay quanh việc làm sao biến chuyện này thành có lợi cho mình.

- Kéo anh ta lên rồi cho vào túi đựng xác.

Hai tên biệt kích hì hục lôi cái xác gã chỉ huy cũ của chúng ra khỏi xe ủi. Vài tên trèo vào khoang sau xe cố lấy ra được những gì có thể rồi nhét thuốc nổ để nổ tung chiếc xe. Một số dùng mô tô chạy trên cát để lôi các mảnh vụn ra.

Hai tên biệt kích khác rải đường dây qua cái lỗ hổng
mới phá.

Mọi việc đã ổn.

Cassandra xoay chiếc mô tô lại rồi leo lên đó. Ả chụp mũ và đeo kính rồi phóng sang bên. Sẽ mất khoảng 15 phút nữa cho đến khi khối thuốc nổ tung. Ả lao vội lên trên rồi trèo ra khỏi
hố cống.

Không có vách ngăn, cơn bão cát quật mạnh làm ả phải xoay người lại. Mẹ kiếp, gió đã bắt đầu mạnh lên. Ả cố lao tới nơi chỉ huy trong tòa nhà còn lại. Những chiếc xe đã tụ tập quanh đó.

Ả phanh xe, dựa nó cạnh tường rồi bước xuống, đi ngang qua cửa.

 

Những tên bị thương nằm la liệt trên các tấm chăn và giường cá nhân. Nhiều tên trong số này đã trúng đạn khi đụng độ với đám chiến binh kỳ lạ của Painter. Ả đã nghe báo cáo về khả năng tác chiến của những phụ nữ đó. Rằng họ hiện ra không biết từ đâu rồi dễ dàng biến mất. Không thể biết họ có bao nhiêu người.

Nhưng giờ đây họ đã biến mất. Ở dưới hố.

Cassandra bước tới một chiếc giường cá nhân. Một bác sĩ đang chăm sóc một người đàn ông nằm bất tỉnh, khâu nốt mũi cuối cùng trên vết thương ở má. Còn vết sưng to như quả ổi trên trán anh ta thì gã đành bó tay.

Painter chắc phải có cái mạng thật lớn như cách nói của người da đỏ là 9 cái mạng của một con mèo. Nhưng lần này, anh lại không nhảy xuống bằng đôi ch n của mình. Anh bị một cú đánh vào đầu. Lý do duy nhất giúp anh sống sót được là nhờ rơi xuống đúng chỗ cát mềm bên trong hố cống.

Qua ánh mắt của bọn lính, ả có thể nhận thấy chúng đều căm giận anh. Tất cả bọn chúng đều biết về cái chết thảm khốc của John Kane.

Cassandra dừng lại chân giường bệnh.

- Tình hình hắn ta thế nào rồi?

- Bị chấn động nhẹ. Hai đồng tử cũng vậy. Hắn chỉ bị ngất đi thôi.

- Vậy đánh thức hắn dậy.

Gã bác sĩ thở dài, đành phải làm theo. Gã còn những kẻ bị thương khác phải chăm sóc, nhưng dù sao Cassandra cũng là chỉ huy ở đây. Và ả đã tính đến việc sử dụng Painter.

 

 

12 giờ 42 phút tối

 

- Vậy chúng ta làm gì đây? - Omaha hỏi. - Chèo bằng tay hay đẩy?

Từ mũi thuyền, anh ngoái nhìn lại. Cả nhóm đã trèo lên chiếc thuyền đẹp như trong mơ này. Barak ngồi chồm hỗm trên mạn thuyền còn Clay thì đang quỳ xuống lấy tay cạo cạo vào mấy tấm vàng lá. Danny và Coral hình như đang nghiên cứu cấu tạo của bánh lái, tựa vào mạn thuyền nhìn xuống. Những người đàn bà Rahim tỏa ra ngắm nghía các chi tiết.

Khi đến gần thì chiếc thuyền quả là tuyệt vời. Các tấm vàng lá được dùng trang trí hầu như toàn bộ mặt ngoài. Những viên ngọc trai trang điểm lấp lánh, ngay cả trên dây thừng cũng có vài sợi bằng vàng điểm trong đó. Quả đây là một con thuyền của hoàng gia.

Nhưng dù đẹp như vậy nó lại không có công dụng như một chiếc thuyền buồm. Trừ phi một cơn gió mạnh bỗng nhiên thổi.

Đằng sau Omaha, Kara và Safia đứng trên mũi thuyền, cạnh pho tượng đầu Quận chúa Sheba. Bà cụ đứng tựa người trên
cây gậy.

- Hãy chạm vào đó đi! - Kara giục Safia. Bà cụ cũng đề nghị như vậy.

Safia giơ cánh tay lành lặn của mình, nét mặt nàng đầy vẻ băn khoăn.

- Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra đây.

Trong mắt nàng, Omaha nhìn thấy ánh lửa lấp lánh đã, được thắp sáng từ căn phòng cầu nguyện dẫn đến vụ nổ. Safia liếc nhìn đám người trên con thuyền. Nàng lo sợ sẽ dẫn họ vào chỗ hiểm nguy, đặc biệt từ bàn tay của mình.

Omaha bước tới bên cạnh. Anh đặt tay lên vai nàng.

- Saff, Cassandra sắp tới đây rồi, súng sẽ nổ. Anh thà đương đầu với quý bà bằng sắt này còn hơn phải đối mặt với con chó cái có trái tim đá kia.

Safia thở dài. Anh ta cảm thấy nàng đã đỡ căng thẳng đôi chút và chấp thuận.

 

- Hãy giữ chặt lấy. - Nàng thì thầm rồi thò tay ra đặt vào vai pho tượng sắt khi Omaha cầm tay nàng. Khi chạm vào người Safia, anh cảm giác như có một luồng điện nhẹ chạy qua khắp người. Safia dường như không biết điều đó.

Không có gì xảy ra cả.

- Con không nghĩ mình chính là người...

- Không. - Omaha nói cắt ngang lời. - Hãy giữ chặt.

Anh ta cảm thấy có sự rung nhẹ dưới chân như thể nước dưới con thuyền đã bắt đầu nhúc nhích. Thậm chí nó đã chậm chạp trôi về phía trước.

Anh quay ngoắt người lại gọi với.

- Hãy tháo những dây cột thuyền ra.

- Có chuyện gì xảy ra vậy? - Safia hỏi, tay vẫn giữ nguyên.

- Barak, anh có tay bánh lái chưa?

Từ phía mũi thuyền, anh ta dùng tay vẫy ra hiệu có.

Coral và Danny vội lao về phía trước. Người phụ nữ cao lớn kéo theo cả chiếc va li.

Tốc độ của chiếc thuyền tăng dần. Barak lái nó về phía miệng đường hầm ngập nước. Omaha giơ đèn pin lên. Tia sáng như bị nuốt đi trong bóng đêm.

Nó sẽ đi tới đâu? Và dẫn về nơi nào?

Chỉ có một cách để tìm ra.

Safia run rẩy dưới bàn tay anh. Anh tiến lại gần, thân thể anh chạm sát vào người nàng. Nàng không phản đối, hơi tựa người vào. Omaha có thể đọc được suy nghĩ của nàng. Con thuyền không bị nổ tung. Họ vẫn ổn.

Coral và Danny lại cúi xuống bên mạn thuyền, rọi đèn pin.

- Cậu có ngửi thấy mùi ô-zôn không? - Cô hỏi cậu kia.

- Có.

- Hãy nhìn xem nước bốc thành hơi khi sắt chạm vào nó.

Sự tò mò đã thu hút chú ý của họ.

 

- Này, các người đang làm gì vậy? - Omaha hỏi.

Danny vênh lên, mặt đỏ bừng.

- Nghiên cứu.

Omahachớp mắt. Cậu em trai đúng là một anh chàng làm khoa học.

Coral đứng thẳng dậy.

- Có một vài phản ứng xúc tác nào đó diễn ra trong nước. Tôi tin chắc là do chất sắt gây ra. Nó đã sản sinh ra một thứ lực đẩy nào đó.

 Coral tựa người vào tay vịn.

- Tôi muốn phân tích loại nước này.

Danny gật đầu, một chú cún con đang vẫy đuôi.

- Tôi sẽ đi lấy gầu.

Omaha mặc kệ họ với đề tài khoa học của mình. Ngay lúc này, tất cả những điều anh quan tâm là họ đang đi đâu. Anh để ý đôi mắt của Kara nhìn mình... ồ không, nhìn anh và Safia.

Bị bắt quả tang, Kara vội liếc nhìn đi chỗ khác, về phía đưòng hầm đen ngòm.

Omaha nhận thấy bà cụ cũng đang làm như vậy.

- Cụ có biết con thuyền đang dẫn chúng ta đi đâu không? - Anh hỏi.

Bà cụ nhún vai.

- Tới chính trái tim thực sự của Ubar.

Một không khí im lặng bao trùm lên con thuyền khi họ tiếp tục đi sâu nữa vào cái cổ họng tối om, dài thượt. Omaha nhìn lên, nửa như muốn thấy bầu trời đêm. Nhưng không phải ở đây.

Ở đây, họ đã đi được vài trăm bộ dưới cát ngầm.

 

 

 

 


12 giờ 45 phút tối

 

Painter bừng tỉnh, mồm khô khốc, đôi mắt bỏng rát.

Anh cố ngồi dậy nhưng lại bị đẩy nằm xuống. Đầu óc anh rung lên giống như một cái chuông bị gõ vào. Ánh sáng tỏa ra nhợt nhạt. Căn phòng như rung lên. Anh lăn sang một bên rồi nôn thốc ra bên cạnh giường. Bụng anh quặn lên từng hồi.

- Tỉnh rồi, tôi thấy mà.

Một giọng nói khiến anh dù đang sốt bừng bừng cũng như lạnh toát đi. Bất chấp ánh đèn chói cả mắt, anh đối mặt với người đàn bà ngay tại chân giường - Cassandra.

Ả mặc bộ quần áo màu hung với cái áo choàng đến đầu gối, thắt lại chỗ ngang lưng. Một cái mũ đính ở phía sau, một chiếc khăn choàng quấn quanh cổ. Làn da của ả bóng loáng dưới ánh đèn, cặp mắt sáng rực hơn lúc nào hết.

Anh cố nhỏm dậy. Hai tên lính giữ chặt đôi vai anh.

Cassandra ra hiệu chúng cứ để mặc anh.

Painter chậm chạp ngồi dậy. Những họng súng chĩa vào người anh.

- Chúng ta có chút việc cần phải bàn.

Cassandra hơi khuỵu một chân xuống.

- Cú đánh của anh phá đi hầu hết các thiết bị điện tử
của tôi. Mặc dù chúng tôi còn cứu được vài thứ như chiếc
laptop này.

Ả chỉ vào chiếc máy tính đặt trên cái ghế gập. Trên màn hình là bản đồ vệ tinh của khu vực với những thông số chi tiết về cơn bão.

Anh để ý đến những thông số thời tiết đang chạy. Đợt áp thấp ở vùng biển A-rập hiện đã vượt qua dãy núi và sẽ hòa vào cơn bão cát trong vài giờ nữa. Một cú đúp, cả bão biển và bão
sa mạc.

 

Nhưng giờ đây những thứ đó chẳng thành vấn đề gì cả.

- Tôi không có gì để nói cho cô cả. - Anh bật ra.

- Tôi nhớ là mình đã hỏi anh câu gì đâu.

Anh cười khẩy. Điều đó cũng làm ả bực bội.

Ả quay về phía máy tính rồi ấn vài nút. Màn hình tiếp tục hiện ra toàn cảnh khu vực từ chỗ thị trấn, khu phế tích đến sa mạc. Trông thật đơn điệu, trừ một vòng tròn nhỏ màu xanh di chuyển chậm chạp theo trục X-Y-Z. Một con chíp thu phát tín hiệu trực tiếp. Anh biết mình đang nhìn vào cái gì. Đó là tín hiệu thu từ một con chíp phát tín hiệu, một thiết bị do chính tay anh thiết kế.

- Cô đã làm gì vậy?

- Chúng tôi cấy nó trên người tiến sỹ al-Maaz. Chúng tôi không muốn để mất dấu vết cô ấy.

- Tín hiệu phát từ dưới lòng đất... - Anh cảm thấy nghẹn lời, không nói tiếp được.

- Khi chúng tôi tháo hết chỗ dây từ chiếc xe bị lật thì có thể nhận được rõ hơn tín hiệu từ cô ta. Việc thu âm thanh có vẻ thuật lợi ở dưới đó. Chúng tôi cũng đã hạ xuống cả bộ phận khuếch đại để có thể theo dõi cô ta từ bất cứ nơi nào.

- Tại sao cô lại nói tất cả điều này với tôi?

Cassandra quay lại phía giường anh đang ngồi. Tay ả đang cầm một cái nút ấn nhỏ.

- Để thông báo với anh một chút điều chỉnh so với mẫu anh đã thiết kế ban đầu. Hình như là với một vài quả pin, người ta có thể cho nổ cả một mẩu thuốc nổ C4. Tôi có thể chỉ cho anh
sơ đồ.

Anh bỗng thấy lạnh toát người.

- Cassandra, cô đang làm trò gì vậy? - Anh vừa hình dung ra khuôn mặt của Safia, nụ cười ngượng nghịu của nàng.

- Chỗ thuốc nổ C4 đủ để nổ tung xương sống của ai đó.

 

- Cô không thể...

Ả nhíu lông mày, một cử chỉ vốn từng làm anh bị kích thích và bối rối nhưng giờ đây lại làm anh hoảng hốt.

Anh nắm chặt tấm ga giường.

- Tôi sẽ nói với cô những gì cô muốn biết.

- Hợp tác như vậy có phải tốt hơn không. Nhưng này Painter, tôi đâu có hỏi anh câu gì. - Ả giơ cái nút ấn tín hiệu lên rồi liếc nhìn vào màn hình. - Giờ đến lúc phải trừng phạt cái trò anh vừa làm ban nãy.

Ả ấn nút.

- Đừng!

Tiếng hét của anh lẫn đi trong một tiếng nổ dữ dội như
thể trái tim anh c ũng nổ tung ra. Phải mấy vài giây anh mới
hiểu được.

Cassandra nhìn anh cười, vẻ rất hài lòng.

Những tiếng cười khùng khục từ những gã đàn ông
trong phòng.

Ả giơ thiết bị lên.

- Xin lỗi, tôi đoán là bấm nhầm nút tín hiệu khác rồi. Cái này điều khiển chỗ thuốc nổ đặt dưới xác chiếc xe ủi. Các chuyên gia thuốc nổ của tôi đã hứa sẽ dùng chỗ thuốc nổ đó để dọn sạch đường hầm. Việc phải làm giờ đây là dọn dẹp đôi chút. Chúng ta sẽ di chuyển trong nửa giờ nữa.

Trái tim anh vẫn đau nhói, đập thình thịch.

Cassandra lôi ra nút ấn tín hiệu thứ hai.

- Đây mới chính là cái nối với con chíp gắn vào người Safia. Liệu chúng ta có nên thử nó không nhỉ?

Painter chỉ biết gục đầu xuống. Cô ả sẽ làm điều đó. Ubar giờ đây đã mở cửa rồi, ả cũng chả cần gì đến kinh nghiệm của Safia nữa.

Cassandra nhích đến gần hơn.

 

- Bây giờ anh hãy nghe kỹ điều tôi nói đây. Chúng ta cần nói chuyện với nhau một chút.

 

 

1 giờ 52 phút sáng

 

Safia khẽ cựa quậy, một tay tựa vào cái đầu tượng bằng sắt, hông của nàng áp vào mạn thuyền. Lúc này nàng bỗng thấy thật mệt mỏi và lo lắng làm sao. Đã nửa giờ rồi sau khi họ nghe thấy tiếng nổ đúng từ chỗ ngoặt trên đường hầm.

- Có tiếng động nghe như Cassandra đang tới gõ cửa. -Omaha nói.

Lúc này con thuyền của họ đã đi được một đoạn khá dài trong đường hầm. Tuy nhiên, sự căng thẳng vẫn gia tăng. Nhiều ánh đèn pin chiếu về phía sau, chờ đợi sự phiền toái. Chả có gì cả. Safia chỉ có thể hình dung sự bực tức của Cassandra khi phát hiện ra họ đã biến mất và đối mặt với một đường hầm ngập nước.

Nếu chúng quyết định đuổi theo chắc sẽ phải bơi khá xa.

Dù cho chiếc thuyền này chỉ chạy nhanh hơn đi bộ một chút nhưng họ đã đi được chừng một tiếng đồng hồ rồi. Có lẽ còn phải đi ít nhất 6, 7 dặm nữa, một cuộc tẩu thoát chậm chạp nhưng phù hợp.

Với mỗi giây trôi qua, mọi người lại thấy nhẹ nhõm đôi chút. Và ai có thể nói nếu như Cassandra đã thành công trong việc dọn dẹp chướng ngại vật ở cửa hang?

Tuy nhiên, Safia vẫn còn một nỗi lo khác, gần hơn trong trái tim nàng.

Painter.

Số phận của anh giờ này ra sao rồi? Chết, bị bắt hay mất tích trong cơn bão cát. Hình như chả có chút hy vọng nào cả.

 

Đằng sau nàng, mấy người phụ nữ Rahim vẫn khe khẽ hát với giọng buồn bã tưởng nhớ tới những người vừa mất. Lại tiếng Aramaic. Trái tim nàng cũng hòa nhịp, thổn thức.

Lu’lu ngoái lại nhìn vẻ tư lự của nàng.

- Ngôn ngữ cổ của chúng ta, ngôn ngữ của bà Quận chúa cuối cùng, tuy là một ngôn ngữ mất đi rồi nhưng chúng tôi vẫn dùng để trò chuyện với nhau.

Safia cố lắng nghe nhưng cũng phải mất một lúc mới hiểu được đôi chút.

Gần đó, Kara và Omaha ngồi trên mạn thuyền, đầu rũ xuống ngủ gục.

Barak đứng cạnh bánh lái, cố giữ cho con thuyền luồn lách qua những đoạn ngoằn ngoèo. Có lẽ chỗ này đã từng có thời là hệ thống sông ngầm.

Cách đó vài bước, Coral ngồi khoanh chân, trước một đống thiết bị nối với cục pin. Nét mặt cô ta bừng lên trong ánh sáng lờ mờ. Danny đang giúp đỡ cô, quỳ ngay bên cạnh, hai khuôn mặt gần như áp sát vào nhau.

Phía kia, Safia nhìn thấy người cuối cùng trong nhóm
của họ.

Clay tựa người vào mạn thuyền, nhìn trân trân về phía trước. Cậu ta và Barak chia nhau một điếu thuốc cách đó ít lâu, điếu cuối cùng trong gói thuốc của anh ta. Trông Clay có vẻ như còn muốn hút thêm một điếu nữa.

Cậu ta thấy Safia nhìn mình nên tiến lại phía nàng.

- Cậu ổn chứ? - Nàng hỏi.

- Tất cả những gì có thể nói là tôi thấy cần phải nâng cấp bản thân mình lên nữa. - Nụ cười của cậu ta thật chân tình, nếu không nói là run rẩy.

- Tôi cũng chả biết nữa, nhưng nếu muốn tiến bộ thì lúc nào cũng vẫn còn chỗ. - Nàng trêu chọc cậu ta.

 

- Được rồi. - Mắt cậu ta nhìn xuống mặt nước đen ngòm, ở đây sao mà có nhiều nước vậy.

Nàng nhớ lại nỗi sợ hãi của cậu ta với biển, trở lại câu chuyện tương tự trên chiếc thuyền buồm Shabab Oman. Thế mà giờ đây điều đó xem ra đã có vẻ xa xôi lắm rồi.

Một bước cách đó, Danny đứng dậy duỗi chân tay.

- Coral và tôi đang trao đổi với nhau về điều đó. Về khối lượng nước ở đây. Nhiều hơn nếu ta cho rằng nhờ vào nước mưa tại chỗ hoặc túi nước.

Omaha cựa quậy, nói trong khi đầu vẫn gục xuống. Anh ta không ngủ mà chỉ nghỉ ngơi.

- Vậy câu chuyện là thế nào hả các vị?

Coral trả lời.

- Đó là do trái đất sản sinh ra.

Omaha ngẩng phắt đầu dậy.

- Thử nói lại xem nào.

- Từ năm 1950, người ta đã biết rằng có một lượng nước bên trong trái đất do nhiều chu trình tuần hoàn mưa, tích tụ và bốc hơi trên bề mặt trái đất. Có nhiều trường hợp tìm thấy những khối lượng nước ngọt rất lớn nằm sâu dưới lòng đất.

Danny ngắt lời.

- Coral, không, tiến sỹ Novak nói với em về việc tìm thấy một cái giếng trong khi đào móng xây dựng bệnh viện Harlemở New York. Nó phụt ra một lưu lượng nước tới 2.000 ga-lông(1)/phút. Người ta phải dùng tới hàng tấn xi măng để bịt nguồn nước đó lại.

- Thế nước ở đâu ra mà lắm thế nhỉ.

Danny chỉ vào Coral.

- Cô ấy hiểu rõ hơn.

Cô thở dài, rõ ràng thấy phiền toái vì phải bỏ dở công việc.

 

- Nhà kỹ sư và địa chất học Stephen Reiss đã đề xuất rằng những nguồn nước mới như vậy thường xuyên được tạo thành trong lòng đất bởi sự kết hợp cơ bản giữa chất hydro và oxy tạo ra mác-ma. Cứ một kilomet chất granit bị đặt dưới một áp lực và nhiệt độ thích hợp sẽ tạo ra một khối lượng 8 tỷ ga-lông nước. Và với khối lượng dự trữ nước do trái đất sản sinh như vậy thì thật là vô vàn, tạo ra một hệ thống rộng khắp bao bọc trái đất.

- Ngay cả dưới sa mạc A-rập nữa chứ? - Omaha hỏi, nửa
chế nhạo.

- Chắc chắn như vậy. Ngay tới lúc Reiss chết vào năm 1985, ông ta đã có tới 50 năm thành công trong việc tìm ra nước tại các điểm mà những nhà địa chất khác khăng khăng dự đoán là không có. Trong đó có giếng Eilat ở Israel vẫn tiếp tục cung cấp nước cho một thành phố với 100.000 dân. Ông ta cũng làm như vậy với A-rập và Ai-cập.

- Vậy cô nghĩ tất cả lượng nước này có thể là một phần trong hệ thống đó ư?

- Có thể. - Coral mở một ô cửa sổ nhỏ trên chiếc máy của mình. Safia đoán chắc là một loại máy làm lạnh hoặc tương tự.

Coral nhìn thấy mấy thứ bên trong bỗng chau mày.

- Có chuyện gì vậy? - Danny hỏi khi để ý thấy thái độ
của cô.

- Có điều gì đó rất lạ trong chỗ nước này.

- Cô nói gì vậy?

Cô ta nhấc cái ống lên.

- Tôi cố thử làm đông lạnh nó.

- Vậy sao?

Cô ta nhấc cái ống nhựa lên.

- Trong máy lạnh, tôi đã hạ nhiệt độ nước xuống dưới 30 độ âm nhưng nó vẫn không đóng băng.

- Cái gì cơ? - Omaha ngó gần hơn.

 

- Thật vô lý. Trong một máy làm lạnh, nước thoát hết nhiệt rồi đông kết lại. Nay với cái máy này, thế mà nó lại không chịu đông kết. Có vẻ như có một khối lượng năng lượng vô hạn dự trữ trong đó.

Safia nhìn sang phía mạn tàu. Nàng vẫn có thể ngửi thấy mùi ô- zôn. Nàng nhớ tới hơi nước tỏa ra quanh thanh sắt.

- Liệu cô còn giữ máy scan trong số các thiết bị thu được không?

Coral gật đầu, đôi mắt mở to.

- Tất nhiên là có.

Nhà vật lý lắp đặt thiết bị từ cái cần đến phần thân rồi ống thử. Đôi mắt cô như muốn nói những gì cô đã phát hiện trước khi cất thành lời.

- Xóa đi chất phản vật chất.

Cô đứng dậy rồi dịch chuyển cái máy dọc theo mạn thuyền, đi từ chính giữa tới mũi thuyền nơi Safia đang đứng.

- Cường độ mạnh lên theo mỗi bước chân.

- Điều này có nghĩa quái quỷ gì đây? - Omaha hỏi.

- Từ trường trong sắt đang phát ra sự hủy diệt nhất định đối với chất phản vật chất.

- Chất phản vật chất ư? Ở đâu?

Coral trợn mắt nhìn quanh.

- Chúng ta đang bơi qua nó.

- Thật là vô lý. Chất phản vật chất tự hủy diệt khi tiếp xúc với vật chất. Nó không thể có mặt trong nước. Nó đã bị phân hủy bởi các phân tử nước từ rất lâu rồi.

- Anh nói đúng đấy. - Coral nói. - Nhưng tôi không thể bác bỏ những gì tôi đang đọc thấy được. Dù thế nào đi nữa thì nước cũng đầy rẫy chất phản vật chất.

- Và chính điều đó đã làm cho con thuyền chạy được? - Safia hỏi.

 

- Có lẽ vậy. Tuy nhiên, chỗ sắt bị từ trường hóa đã kích hoạt sự phân hủy chất phản vật chất trong nước, biến nó thành năng lượng rồi chuyển thành lực đẩy con thuyền của chúng ta đi.

- Thế điều gì liên quan đến việc làm mất ổn định tất cả? - Omaha hỏi.

 Safia thấy căng thẳng. Nàng nhớ lại điều Painter giải thích về nguyên nhân vì sao sự phát xạ từ chất uranium có thể đã gây ra vụ nổ ở Bảo tàng. Trong óc nàng bỗng hiện lên cảnh bộ xương người gác cổng bốc cháy.

Coral nhìn chăm chú vào màn hình máy scan.

- Tôi không đọc được tia an-pha hay bê-ta nào cả nhưng cũng không dám chắc. - Nhà vật lý nói xong lại quay về chỗ cũ. - Chắc phải nghiên cứu thêm.

Bà cụ nói chen vào lần đầu tiên. Bà phớt lờ tâm trạng kích động chung mà chỉ nói một cách đơn giản.

- Đường hầm đã chấm dứt r i.

Tất cả mọi cặp mắt đổ dồn. Ngay cả Coral cũng kiễng
chân lên.

Ở phía trước, một tia sáng nhỏ nhoi lấp lánh rồi tắt dần. Điều đó cũng đủ để nói lên rằng đường hầm kết thúc ở chỗ cách đây chưa tới 10 fít. Họ bơi thuyền lên phía trước. Trong khoảng cách cuối cùng, vòm phía trên bỗng doãng rộng ra như mồm con cá mập.

Không ai nói lời nào.

Con thuyền đã đi qua đường hầm để vào một hang ngầm rộng lớn.

Ôi lạy Chúa!

Omaha thốt lên.

 

 

 


2 giờ 4 phút chiều

 

Cassandra áp chặt ống nghe vệ tinh vào tai trái rồi lấy tay bịt chặt tai bên phải để tránh tiếng gào rít của cơn bão. Ả đang ở tầng thứ hai một tòa nhà bỏ hoang được sử dụng làm chỉ huy sở của bọn lính. Cơn bão cuốn theo cả rác rưởi và những mảnh vụn từ thị trấn.

Ả vừa lắng nghe, vừa đi đi lại lại trên sàn. Giọng nói đã được số hóa để thay đổi nhận dạng, nghe thật khó. Kẻ đứng đầu Hiệp hội vẫn không chịu xưng danh.

- Chỉ huy màu xám, - Bộ trưởng tiếp tục. - việc đòi có sự đối xử đặc biệt trong cơn bão sẽ dẫn đến nguy cơ làm lộ cuộc hành quân sa mạc của chúng ta. Nếu không nói là toàn bộ tổ chức Hiệp hội.

- Thưa ngài Bộ trưởng, nghe vậy có vẻ hơi quá nhưng chúng tôi đã tìm thấy mục tiêu. Chúng tôi có thể ra khỏi Shisur thậm chí trước khi cơn bão tan.

- Liệu cô có thể lấy gì bảo đảm rằng sẽ thành công.

- Tôi xin lấy tính mạng của mình ra bảo đảm.

- Chỉ huy màu xám. Tính mạng của cô luôn luôn bị đe dọa rồi. Những chỉ huy ở Hiệp hội đã nghiên cứu những thất bại vừa qua của cô. Nếu còn tiếp tục thất bại nữa, có thể chúng tôi sẽ phải cân nhắc lại việc còn sử dụng cô nữa hay không.

Mẹ kiếp, Cassandra rủa thầm. Hắn giấu mình dưới cái mã số, ngồi chễm chệ trên ghế bành để rồi đánh dấu hỏi về năng lực của ta. Nhưng Cassandra biết có một cách để giải quyết khó khăn mới nhất của mình. Ả đành phải đưa cái tên của Painter để làm chứng cho điều đó.

- Thưa Bộ trưởng, tôi có thể chắc chắn về thắng lợi ở đây, nhưng tôi cũng đề nghị sau đó tôi có thể làm rõ tên tuổi của mình. Tôi được cử làm người cầm đầu tốp này nhưng việc chọn người phó không phải là do tôi. John Kane đã xử sự sai lầm và phá hoại công việc chỉ huy của tôi. Chính là do sự bất cẩn của anh ta đã gây ra sự chậm trễ này cùng với cái chết của chính anh ta. Còn v ề phần tôi, đã có thể ngăn chặn và bắt được kẻ phá hoại. Một thành viên quan trọng của lực lượng Sigma thuộc tổ chức DARPA.

- Cô đã bắt được Painter Crowe à?

Cassandra chau mày khi nghe giọng nói kia nhắc đến tên anh ta một cách quen thuộc.

- Vâng, thưa Bộ trưởng.

- Rất tốt, Chỉ huy màu xám. Tôi có thể không đánh giá sai về cô. Cô sẽ nhận được mọi sự cung cấp thiết bị. Bốn chiếc xe ủi bọc sắt do các nhân viên của Hiệp hội điều khiển đã lên đường khi chúng ta đang nói ở đây.

Ả bặm môi. Rõ ràng việc làm đó xem ra có tác dụng.

- Cảm ơn ngài. - Ả cố gắng thốt lên, nhưng vô ích. Kẻ ở đầu dây kia đã gác máy từ lâu rồi. Ả đặt máy điện thoại xuống rồi vẫn tiếp tục đi lại trong căn phòng, hơi thở nặng nề.

Ả cảm thấy thắng lợi đã đến rất gần khi cho nổ tung chiếc xe ủi ra khỏi chỗ lấp đường hầm. Ả cảm thấy thú vị khi chơi trò mèo vờn chuột với Painter buộc anh phải nói ra. Ả biết những kẻ kia không thể tạo ra mối đe dọa nào. Ngoài một nhúm chiến binh có kinh nghiệm còn lại toàn là dân sự, cụ già và trẻ em.

Sau khi chiếc xe được dọn dẹp sạch sẽ, chính Cassandra đã đi vào đường hầm, để nhìn thấy một dòng sông ngầm. Ở đó có một cầu tàu, chắc là những kẻ kia đã tìm thấy một chiếc thuyền nào đó để trèo đi.

Như vậy là lại phải điều chỉnh kế hoạch.

Ả vẫn phải dựa vào gã chỉ huy tối cao dù bực bội, cuộc nói chuyện bằng điện thoại vừa qua cũng chả làm mọi việc tốt đẹp hơn lên. Ả thấy mình đã trở thành cái bung xung cho chính những thất bại của mình và sẽ có mọi thứ ả cần để bảo đảm chiến thắng dưới lòng cát. Sau khi đã lấy lại được bình tĩnh, ả bèn đi về phía cầu thang. Ả sẽ giám sát những khâu chuẩn bị cuối cùng. Bước xuống cầu thang gỗ rồi đi vào gian phòng được dùng tạm làm trạm xá. Ả đi ngang qua viên bác sỹ trực rồi
gật đầu.

- Anh sẽ nhận được những thiết bị anh đề nghị. Những chiếc xe tải sẽ tới đây trong vòng hai tiếng đồng hồ nữa.

Anh ta tỏ ra vui mừng ra mặt. Những kẻ khác cũng nghe thấy câu nói của ả bèn hò reo mừng vui.

Ả liếc sang chỗ Painter, vẫn còn ngây ngất vì bị đánh thuốc mê nằm xoài trên giường. Ả vẫn để chiếc laptop ở đó. Ánh sáng xanh chỉ tín hiệu nhận được từ con chíp trên người Safia vẫn hiện lên trên màn hình.

Một điều nhắc nhở.

Cassandra vẫn mang theo máy phát bên người trong chiếc túi như một sự thận trọng bổ sung đối với biểu hiện và sự hợp tác tốt đẹp của anh ta.

Ả nhìn đồng đồ. Chả bao lâu chuyện này sẽ chấm dứt.

 

 

2 giờ 6 phút chiều

 

Kara đứng trên mũi thuyền cùng với Safia, tay nắm lấy bàn tay của Safia trong khi bàn tay kia của nàng vẫn dùng lực tiếp xúc của mình để đẩy con thuyền đi. Họ đã làm được điều mà cha họ đã ra sức tìm kiếm trong bao nhiêu năm.

Ubar.

Chiếc thuyền lướt từ dòng kênh sang một cái hang vòm cuốn phía trước mặt cao đến 30 tầng, trải dài tới một dặm. Một cái hồ vĩ đại lấp đầy cái hang mà độ sâu vẫn chưa biết tới đâu.

 

Khi họ chèo thuyền trên mặt hồ ngầm dưới lòng đất, những ánh đèn pin lấp loáng mọi phía. Thực ra việc rọi đèn để sáng thêm cũng chả cần thiết. Ở phía trên trần, những tia lửa màu xanh cô ban chiếu nhoằng nhoằng trong khi những đám mây lớn xoay quanh một ngọn lửa bên trong như bóng ma chập chờn.

Phóng tia tĩnh điện. Có thể từ cơn bão ở trên mặt đất.

Nhưng đó chưa phải là điều đáng ngạc nhiên nhất. Bóng của nó được phản chiếu khắp nơi trên mặt nước, mái vòm và các bức tường.

- Tất cả đều bằng thủy tinh.

Safia nói, mắt ngước nhìn lên trên và xung quanh.

Cả cái hang bỗng trở thành một cái bong bóng bằng thủy tinh lớn chôn vùi dưới cát. Thậm chí nàng còn phát hiện ra những tảng nhũ thạch bằng thủy tinh nhô xuống từ dưới mái vòm. Những tia màu xanh sáng rực khắp chiều dài khiến chúng trông giống như những con nhện bằng điện.

- Một loại thủy tinh, giống như đường đi lúc nãy. - Omaha nhận xét.

- Thế cái gì đã tạo ra chúng? - Clay hỏi.

Chả ai dám liều lĩnh dự đoán khi con thuyền tiếp tục cuộc hành trình.

Coral nhìn quanh rồi nói.

- Tất cả xung quanh là nước.

- Chắc phải do trái đất tạo ra. - Danny nói từ phía bên cạnh, - Hoặc có thời từng là...

Coral có vẻ như không để ý đến lời nói của cậu ta.

- Nếu tất cả chỗ này được làm giàu bằng chất phản vật chất...

Khả năng đó làm mọi người lo sợ đến im lặng. Họ ngắm nhìn màn trình diễn năng lượng trên mái vòm được phản chiếu lại trên mặt nước bằng phẳng.

 

Cuối cùng thì Safia cũng thốt lên kinh ngạc. Bàn tay nàng tuột khỏi bức tượng bằng sắt để che mồm.

- Safia, cái gì vậy... - Và rồi Kara cũng nhìn thấy nốt...

Bên kia bờ hồ đã hiện ra, nhô cao lên trên mặt nước trải dài tới tận bức tường phía xa. Những cây cột bằng thủy tinh màu đen thẳng đứng từ nền tới vòm, phải tới hàng trăm cái với đủ kích cỡ. Những cây cột lớn nhỏ đủ kiểu.

- Hàng nghìn cây cột của Ubar. - Safia thốt lên.

Họ đã gần hơn để nhìn thêm nhiều chi tiết nữa được chiếu sáng bởi màn trình diễn của năng lượng tĩnh điện. Từ bóng tối, một thành phố đã hiện ra, lấp lánh, chiếu sáng rực và sôi sục.

- Tất cả bằng thủy tinh. - Clay lẩm bẩm.

Thành phố kỳ diệu hiện ra trước mắt trên bờ hồ, cao vọt lên ở phía bức tường sau lẩn khuất trong đám cột. Nó gợi cho Kara nhớ tới những thành phố dọc theo bờ biển Amalfi trông giống những món đồ chơi trẻ con nằm trải dài trên sườn đồi.

- Ubar! - Bà cụ nói từ phía bên.

Kara liếc nhìn về phía sau khi những người Rahim đều quỳ xuống. Họ đã trở về nhà sau hai nghìn năm. Một Quận chúa đã rời đây ra đi, giờ thì ba mươi người đã trở lại.

Con thuyền dừng lại sau khi Safia đã bỏ bàn tay ra, đầu óc nàng bâng khuâng.

Omaha bước tới bên nàng, ôm nàng bằng một cánh tay.

- Hãy đến gần hơn nữa.

Nàng lại chạm vào cái vai pho tượng sắt. Con thuyền lại nhích gần hơn nữa về phía thành phố cổ đại mất tích.

Barak nói vọng lên từ phía bánh lái.

- Lại có một cái cầu tàu nữa! Tôi sẽ xem có neo được không?

Con thuyền lướt về phía đó.

 

Kara nhìn chăm chú vào thành phố khi họ tới gần. Những tia sáng rọi vào làm ánh sáng phản chiếu lung linh, nhìn thấy rõ nét hơn. Những ngôi nhà với các bức tường đều bằng thủy tinh, trang trí bằng bạc, vàng, ngà voi và ngói. Một cái lâu đài ven hồ như một bức tranh lớn được làm bằng các loại đá quý. Một loài chim thờ, mang đầy ý nghĩa trong các câu chuyện về Quận chúa Sheba.

Thật là tuyệt vời.

- Hãy đi từ từ thôi! - Barak nói với lên khi họ tới gần cái
cầu tàu.

Safia bỏ tay ra khỏi pho tượng bằng sắt. Con thuyền lập tức dừng lại. Barak dễ dàng áp thuyền vào mạn cầu tàu.

- Buộc nó vào! - Anh ta nói.

Những người phụ nữ Rahim lập tức đứng dậy, rồi họ nhảy lên bờ nhanh chóng, cột chiếc thuyền vào.

- Chúng ta đã về đến nhà rồi. - Lu’lu nói, nước mắt
tuôn trào.

Kara đỡ bà cụ dậy để cụ bước lên bờ. Khi đã đặt chân lên bờ, cụ liền quay lại nói với Safia.

- Con phải dẫn chúng ta đi. Con đã đưa chúng ta trở lại được Ubar.

Safia định từ chối nhưng Kara đã ngăn lại.

- Hãy làm ơn cho bà cụ đi.

Hít một hơi thật dài, Safia trèo từ chiếc thuyền lên bờ rồi dẫn mọi người bước lên bờ hồ bằng thủy tinh của Ubar. Kara đi sau Safia và Lu’lu. Đó là thời khắc của họ. Omaha thậm chí cũng lui lại không lao lên trước mặc dù anh ta cứ ngoái đầu hết sang phải rồi lại sang trái, cố nhìn qua vai hai người phụ nữ kia.

Họ đã tới bờ hồ, tất cả ánh sáng bừng lên.

Kara nhìn lên trên rồi lại nhìn xuống, mải mê đến nỗi đâm sầm vào lưng Safia. Nàng và bà cụ bỗng dừng lại.

 

- Ồ, lạy Chúa. - Safia rên rỉ. Còn bà cụ chỉ quỳ xuống.

Kara và Omaha đi vòng qua họ. Cả hai nhìn thấy nỗi khiếp sợ cùng một lúc. Omaha sững người lại còn Kara thì giật lùi.

Cách đó vài bước ở phía trước, một bộ xương người nhô ra trên đường phố. Nửa phần dưới vẫn còn bị bao bọc trong thủy tinh. Omaha lia đèn pin lên mặt đường. Những cái xác khác cũng nằm ngổn ngang như thế, nửa bị vùi bên đường. Kara phát hiện một cánh tay khô quắt thò ra ngoài thủy tinh như thể nó bị chìm ngập trong một cái biển đen. Trông như cánh tay của một đứa trẻ.

Tất cả bọn họ đều bị chết ngập trong thủy tinh cát.

Omaha tiến gần lại vài bước rồi nhảy sang một bên. Anh rọi đèn pin vào chỗ vừa bước tới. Ánh đèn xuyên qua thủy tinh để lộ ra một hình người bị vùi dưới đó, cháy đến tận xương, co quắp trong đám thủy tinh dưới chân anh ta.

Kara không thể chớp mắt được. Trông giống như cảnh xảy ra với bố cô.

Cuối cùng cô lấy tay che mặt rồi quay đi.

Omaha nói từ phía sau cô.

- Tôi nghĩ chúng ta đã phát hiện ra bi kịch thực sự buộc Quận chúa Sheba phải rời khỏi đây, đóng chặt nó và nguyền rủa nơi này. Nơi đây không còn là một thành phố nữa mà là một ngôi mộ.

 



(1) Đơn vị đo dung tích của Anh, 1 ga-lông = 4,546 lít.

Nguồn: truyen8.mobi/t86988-bao-cat-chuong-19.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận