Ngày 7 tháng 7, nửa đêm
Đảo Pusat
Tiếng trống nghe to hơn cả tiếng sấm ầm ì trên đầu. Ánh chớp nhằng nhịt, biến cả khu rừng thành màu xanh sẫm và tối, loang loáng ánh bạc do đám lá cây ướt sũng nước mưa phản chiếu.
Ngực trần trụi, Monk kéo tay Susan lên phía dốc ngoằn nghèo của con đường rừng. Họ đã đi theo con đường mòn được hai tiếng đồng hồ trong bóng đêm, thỉnh thoảng lại chờ có chớp để xem đi tiếp hướng nào. Mưa vẫn rơi như trút nước xuống khu rừng. Con đường mòn đã trở thành một dòng suối chảy. Nhưng phần còn lại của cánh rừng là đám lùng nhùng những cành cây, bụi gai, thân cây bị lật gốc và bùn lõng bõng.
Nhưng họ vẫn đi theo con đường mòn, ngược lên.
Ryder lầm lũi theo sau họ. Ông cầm khẩu súng duy nhất của nhóm, khẩu P228 9 ly. Không may, ông không có băng đạn dự trữ nào ngoài mười ba viên đạn trong nòng súng.
Không tốt.
Monk biết rằng một khi cơn bão chấm dứt, người của Rakao sẽ ùa vào lục soát trong khu rừng. Hòn đảo này là địa điểm hành quân của bọn chúng, cho chúng thuận lợi là gần nhà. Monk không thể tự lừa dối mình khi nghĩ rằng anh có thể trốn thoát việc bị truy xét và bắt giữ.
Anh liếc nhìn trở lại qua khe hở trong rừng. Họ đã ở độ cao khoảng ba trăm feet. Chiếc tàu chở khách khổng lồ nằm ngay giữa hồ, dài tới một phần tư dặm. Ở một nơi nào đó trên con tàu, là đồng nghiệp của anh, bị kéo sống khỏi vũng nước đen ngòm, thoát khỏi tay một con vật quái quỷ nào đó.
Nhưng liệu cô ta vẫn còn sống không?
Cho đến khi anh biết chắc chắn, Monk vẫn không từ bỏ hy vọng.
Không phải cho Lisa, không phải cho chính anh.
Để như vậy, Monk cần có đồng minh.
Tiếng trống vẫn gõ liên tục, dồn dập ngày một lớn và rộn rã hơn, như thể cố đuổi cơn cuồng phong đi. Họ đã trèo lên cao đủ để cho mỗi chiếc trống mặt da có thể rung động cả lồng ngực anh, vào đến tận xương.
Monk leo qua đám cành cây ngập nước rồi cúi thấp xuống. Anh phát hiện một cái bóng phía trước, lấp lóa.
Ánh lửa.
Anh tiến thêm hai bước nữa rồi dừng lại.
Chỉ đến khi đó, anh mới nhận ra rằng họ không phải chỉ có một mình.Ở hai bên đường, những người đứng gác, nửa che giấu bởi lá cây rậm rạp, nhưng rõ ràng là ở chỗ trống, muốn được nhận thấy. Những người đàn ông, ngực trần, đội mũ cỏ trên đầu. Khuôn mặt của họ được vẽ bằng dầu và tro, làm nước da họ đen sẫm. Những cái răng bò rừng trắng và các mẩu xương màu vàng xuyên qua lỗ mũi. Những cái lông sặc sỡ và vỏ ốc ở trên cánh tay của họ.
Hét lên một tiếng, Ryder lao lên phía trước, khẩu súng lục giơ lên.
Những người kia xem ra chẳng ấn tượng gì.
Monk gạt mạnh cánh tay Ryder rồi bước lên phía trước giơ tay lên, lòng bàn tay hướng ra phía trước. "Đừng chọc tức những người dân bản xứ." Anh thì thào với Ryder.
Một người dân bộ lạc bước vào con đường mòn. Anh ta khoác một cái áo choàng bằng da. Thắt lưng là một cái đai tết bằng những sợi lông dài. Chân và đùi trần trụi, bôi đầy dầu và tro. Anh ta cầm một mảnh xương vai sắc nhọn của một loài vật nào đó.
Ít nhất Monk hy vọng đấy là một con vật.
Monk nghe thấy tiếng loạt xoạt từ phía sau, biết rằng con đường mòn sau họ đã bị khép lại. Tiếng trống gõ mạnh ở phía trước. Ánh lửa bừng lên sáng hơn.
Người đàn ông ở trên đường mòn quay lại dẫn đường về phía ánh lửa.
"Giống như chúng ta được mời tới bữa tiệc." Monk nói, vòng tay quanh Susan.
Ryder theo sau, khẩu súng trên tay.
Nếu sự việc tồi tệ, họ có thể cần mười ba phát đạn còn lại của nhà tỷ phú để trốn chạy. Nhưng lúc này, Monk biết rằng tốt nhất là nên hợp tác.
Con đường mòn chạy tới một mỏm đá trên miệng một núi lửa cũ. Một rạp hát ngoài trời được tạo ra từ chỗ đá đỏ sẫm, trên có mái che bằng lá cọ. Nước mưa chảy xuống góc mái nhà tạo thành một dòng nước.
Bên ngoài dòng nước, một ngọn lửa trại lớn bập bùng cháy. Monk phát hiện những hàng trống xếp dọc theo hai bức tường, đang phát ra những âm thanh vang dội. Hai cái trống bề mặt phải đến hơn sải tay treo trên tường đá được gõ bằng những mảnh xương lớn. Mỗi nhịp gõ làm rung cả làn nước mong manh chảy từ mái rạ xuống nền đá.
Họ bị đẩy lên phía trước.
Monk kéo Susan đi qua máng nước vào chỗ mái che. Anh rùng mình khi bị nước mưa hắt vào bộ ngực trần của mình. Độ nóng của đám lửa bên trong thật dễ chịu nhưng tỏa ra khói cay sè mắt và khô cả họng.
Xung quanh đám lửa, một đám đông đã tụ tập, vài người đứng, còn những người khác ngồi xệp xuống đất. Monk ước tính phải tới hơn một trăm người. Đàn ông và đàn bà đều để ngực trần. Nhiều khuôn mặt thò ra từ các lỗ hổng dọc theo tường. Một vài đứa trẻ trần trụi đứng nhìn mắt mở thao láo. Một đứa đang mân mê cái đuôi tóc.
Sau một tín hiệu nào đó, bỗng nhiên tiếng trống im bặt. Im lặng thật đáng sợ.
Bỗng nhiên trong sự yên lặng ấy, một giọng nói cất lên.
"Monk!"
Giật mình, anh quay lại. Một thân hình gầy gò áp người sát vào tấm vách bằng tre của một cái cũi trong góc. Cậu ta mặc một cái áo sơ mi rách bươm cùng cái quần soóc trắng lem luốc bùn.
"Jessie?"
Cậu y tá trẻ vẫn còn sống.
Nhưng trước khi họ tiếp tục cuộc gặp gỡ cảm động và đầy nước mắt, thì một nhân vật cao lớn bước ra phía trước, mặc dù đối với bộ tộc này, cao lớn ở đây phải hiểu là chỉ năm feet. Ông già râu bạc này trông giống như được một ai đó mới bán lại cho bộ quần áo da rộng thùng thình. Ông ta cũng bôi dầu và phết tro như mọi người, cùng với cái khố và dăm cái lông màu đỏ cắm trên đầu.
Monk nhận ra đó là viên tộc trưởng.
Giờ đã đến lúc biểu diễn và múa cho bữa ăn tối của ông ta - hoặc là múa không phải trở thành món ăn tối.
Monk giơ một cánh tay lên phía ông già. "Boogla-boogla reh!" Anh nói với vẻ nghiêm nghị rồi lấy bàn tay khác để kéo vào chốt cổ tay kia.
Bị ngắt điện, bàn tay giả rơi bịch xuống chỗ đất bùn nhão.
Có tiếng kêu ồ lên từ đám đông.
Viên tù trưởng lùi lại một bước suýt nữa giẫm vào
Monk hạ cánh tay, nhìn xuống cánh tay bị chặt của mình.
Bên cạnh việc trông như thịt người thật sự, bàn tay giả của anh là một kỳ quan của công nghệ DAPRA, nối được cả gân và cơ của cánh tay làm cho hoạt động của cánh tay chính xác như bình thường.
Nhưng đó mới chỉ là nửa câu chuyện.
Phần bị cụt của cánh tay anh được bọc bằng chất dẻo tổng hợp, gắn với đoạn cuối của cổ tay, rồi nối dây với các thứ gân và cơ. Thực tế nó cũng là một nửa của bàn tay giả. Nó chính là nơi điều khiển bàn tay giả kia.
Với phần còn lại của cánh tay, Monk có thể điều khiển cả bàn tay giả kia. Hai bộ phận đó liên lạc với nhau không cần dây, một kiểu qua sóng radio.
Khi Monk bắt đầu điều khiển cổ tay thì bàn tay bị đứt rời kia bắt đầu dựng lên trên những ngón tay rồi nhảy múa trên nền đá giống như một con nhện năm chân.
Lần này, thì viên tù trưởng bộ lạc ăn thịt người quả là giẫm vào đống lửa thật, làm cho gót và bụng chân sau của ông ta bén lửa đến mức ông ta hét lên rồi nhảy vọt đi.
Monk ra lệnh cho bàn tay đuổi theo ông ta.
Giờ đây có cả một vòng tròn lớn xung quanh đám đông.
Ryder lôi Susan vào phía bóng đêm của mỏm đá để cho Monk có thể xuất hiện trên sân khấu.
"Bây giờ mọi người nghe tôi nói đây." Monk gào lên.
Anh bước tới chỗ đống lửa.
Dự đoán không có ai nói tiếng Anh ở đây, anh phải ra hiệu bằng cách lấy tay đập vào bộ ngực trần của mình. Tuy nhiên, cũng chưa đủ để dọa những người dân mê tín này. Anh cần phải thắng họ. Giờ đã đến lúc làm một cuộc đảo chính kiểu Mỹ ở hòn đảo ăn thịt người này.
Quay gót lại, Monk chỉ vào Susan.
Theo tín hiệu của anh, cô cởi bỏ chiếc sơ mi mượn của anh để quấn lên đầu. Ryder bước tới rồi lột bộ quần áo bệnh viện khỏi đôi vai của cô để nó rơi xuống. Susan giơ cánh tay lên, ngực để trần giống như những người phụ nữ ở đây.
Chỉ có điều là cô ta phát sáng trong bóng tối.
Sự ngạc nhiên khủng khiếp khiến tất cả người trong bộ lạc câm lặng không nói được câu nào.
Bản thân Monk cũng há hốc mồm trước Susan. Cô còn thậm chí phát sáng mạnh hơn cả lần đầu tiên anh nhìn thấy cô. Sáng hơn một cách có ý thức. Cô được chiếu sáng với ánh trăng từ bên trong làm cho làn da như trong suốt.
Ryder ra hiệu cho Monk, giục anh từ phía bên kia
tiếp tục.
Giật mình, Monk vội trấn tĩnh lại. Anh bước tới Susan quỳ xuống, rồi hét lên một từ mà anh biết có trong thổ ngữ của những kẻ ăn thịt người, đã được anh chàng cướp biển rụng hết răng dạy anh.
Một cái tên.
"RANGDA!" Monk gọi to lên, gọi tên quận chúa của những kẻ ăn thịt người trên hòn đảo, nữ chủ nhân của những con quỷ phát sáng trong vịnh nước.
Phát sáng giống như Susan.
Anh cúi đầu.
"Tất cả mọi người phải cúi đầu kính chúc quận chúa
của đảo!"
*
* *
1 giờ 4 phút sáng
Devesh bước vào căn phòng của Lisa, đập đập tay vào cái gậy.
Vẫn nằm dài trên giường, bị trói vào một cái hốc, Lisa biết mình không thể đứng thẳng được. Trước đó, khi nàng bị lôi xềnh xệch trở về con tàu từ phía cầu cảng, nàng đã nhoài ra cố thoát khỏi cánh tay của tên lính gác làm y hoàn toàn bất ngờ rồi gục mạnh xuống boong.
Nàng bị rách môi, rớm máu và trông thật ấn tượng. Tuy cũng không đau lắm. Với bắp chân bị cây kiếm rạch một đường, thân xác nàng bị những con mực ăn thịt người cấu xé, phổi vẫn gần như ngợp thở, chỉ có chất adrenaline mới có thể giữ cho nàng đứng vững trên đôi chân của mình.
Vì vậy nàng đổ gục ngay, ngưng thở mất vài giây.
Điều đó làm chúng phải vội đưa nàng về khu vực khoa học để viên bác sĩ trên tàu và một nhân viên Tổ chức Y tế Thế giới kiểm tra sức khỏe. Chúng cũng dựng lên một khu vực để truyền dịch, tiêm kháng sinh và thuốc giảm đau cho nàng. Giờ đây nàng ở trong căn phòng cũ của mình, một ca bin không có ban công hay cửa sổ, có lính gác. Dưới một tấm vải mỏng, thân thể nàng toàn là băng bó các loại cùng với một mớ dây dợ.
Sự chăm sóc như vậy được thực hiện không phải vì nhân đạo hoặc sự quan tâm. Nó được tiến hành để phục vụ một mục đích: bảo đảm nàng có thể hoàn thành lời hứa với Devesh ở trên boong.
Chủng vi rút Juda. Tôi biết nó đang làm gì.
Với phát hiện như vậy thì Devesh không thể để mất nàng được, đặc biệt sau khi Susan Tunis đã biến mất ở đâu đó trên hòn đảo đang chịu ảnh hưởng của cơn bão thổi qua. Devesh cần Lisa. Vì vậy nàng cố tìm cách kéo dài. Nàng đã giao cho Devesh một lô công việc bận rộn và giao thêm nhiệm vụ cho người đứng đầu phòng thí nghiệm.
Lý do đưa ra là để thử nghiệm và chứng minh giả định của mình.
Nhưng điều ấy chỉ có thể kéo dài thêm được một
chút thôi.
"Vậy," Devesh nói, "các kết quả đã được tổng hợp lại. Giờ đã đến lúc chúng ta có cuộc trò chuyện nhỏ, bị chậm trễ. Nếu như tôi không thích những gì tôi nghe, chúng tôi sẽ từ từ đảo lại sự chăm sóc y tế cho cô. Tôi hình dung mở lại các vết thương của cô bằng kìm để thuyết phục cô hợp tác."
Devesh quay gót lại rồi vẫy một y tá đang đứng đợi.
Ống thông dẫn vào người nàng lập tức được kéo ra, dán băng keo lại.
Lisa ngồi dậy. Căn phòng chao đảo một chút rồi ổn định.
Tuy vậy vẫn tỏ ra là người lịch thiệp, Devesh chìa ra một cái áo choàng bông có phù hiệu con tàu. Lisa đứng dậy, khoác một cái áo choàng bệnh viện mỏng nhưng trần trụi ở phía sau. Nàng chấp nhận sự lịch lãm của hắn rồi khoác cái áo ngoài để che thân hình nàng. Nàng thắt cái đai quanh người.
"Đi lối này, tiến sĩ Cummings." Devesh trở lại phía cửa.
Bằng đôi chân trần, Lisa được dẫn ra khỏi cabin của mình. Devesh trở lại khu vực bệnh lây nhiễm.
Cánh cửa mở toang. Có thể nghe được nhiều giọng nói.
Theo sau Devesh vào trong, Lisa nhận ra hai khuôn mặt quen thuộc: nhà vi khuẩn học,Benjamin Miller và người được nàng tin cậy từ khi tới đây, nhà nghiên cứu chất độc người Hà Lan, Henri Barnhardt. Cả hai nhà khoa học ngồi một bên trên một chiếc bàn hẹp.
Lisa nhìn quanh. Phía sau căn phòng trống rỗng, chẳng có đồ đạc gì và được lắp đặt với các thiết bị thí nghiệm, hầu hết lấy cắp từ những thiết bị của Monk; từ ống kính quang học, máy đo gamma...
Một vài trường đại học cũng không được trang bị tốt như vậy.
Tiến sĩ Eloise Chénier, nhà nghiên cứu vi rút và trưởng phòng thí nghiệm bệnh truyền nhiễm của Hiệp hội đứng ở phía bên kia bàn, mặc một chiếc áo khoác phòng thí nghiệm dài đến mắt cá chân. Vào khoảng gần sáu mươi tuổi, mái tóc muối tiêu và một cặp kính lão đính vào một cái dây xích nhỏ qua cổ, bà ta trông giống như một bà giáo già kỳ cục.
Bà ta đưa tay chỉ vào những máy vi tính phía sau. Những thông số hiện lên một màn hình, còn cái khác đang hiển thị một số file đan xen nhau. Bà ta vừa kết thúc việc giảng giải với Henri và Miller bằng một thứ tiếng Pháp ngữ âm nặng trịch.
"Chúng tôi thu được một khối lượng vi rút tuyệt vời bằng cách rửa một mẫu dung dịch tủy qua hàng loạt vật đệm phốt phát, rồi cố định chúng với glutaraldehyle và vê nhỏ lại bằng ly tâm."
Chénier thấy họ bước vào, vẫy họ tới bàn.
Devesh đến chỗ người đồng nghiệp trong khi Lisa tìm thấy một cái ghế trống cạnh Henri. Bạn nàng đặt một bàn tay an ủi lên đầu gối nàng. Henri liếc nhìn nàng vẻ như muốn hỏi, cô có khỏe không?
Nàng gật đầu, vui mừng đã được ngồi.
Devesh quay lại phía Lisa. "Chúng tôi đã hoàn tất tất cả cuộc thử phụ trợ theo yêu cầu của cô, tiến sĩ Cummings. Liệu bây giờ cô có giải thích vì sao không?"
Cặp mắt dò xét của hắn đè nặng lên cô.
Lisa thở một hơi dài. Nàng đã trì hoãn càng lâu như khả năng có thể. Hy vọng duy nhất để sống sót thêm là cung cấp sự thật và cầu mong sao cho tài năng của cô chứng tỏ một giá trị lớn lao để có thể vượt qua được sự phản bội của mình trước kia.
Cô nhớ lại bài dạy đầu tiên của Devesh: Cẩn thận.
Lisa bắt đầu chậm rãi, kể lại việc nàng phát hiện ra ánh sáng kỳ lạ trong mắt của Susan. Nhưng khi nói, nàng phát hiện ra vẻ không tin tưởng toát lên rõ rệt trong biểu hiện của Devesh.
Lisa quay lại Henri, tìm kiếm sự hỗ trợ:" Ngài đã có thể thực hiện một vài điều về phát sáng trong mẫu dịch tủy đúng không?"
"Đúng vậy. Mẫu có biểu hiện phát sáng ở mức thấp."
Chénier đồng ý. "Tôi đã quay mẫu đó. Chỗ vi khuẩn cô đặc quả là có phát sáng. Và khẳng định là loại vi khuẩn cyano."
Miller, nhà nghiên cứu vi khuẩn học, gật đầu đồng ý.
Sự nghi ngờ của Devesh chuyển sang thích thú. Cặp mắt của hắn tập trung vào Lisa. "Và từ điều đó, cô định ra rằng vi khuẩn xâm nhập vào não qua đường dây thần kinh thị giác và khu trú ở tinh dịch của mắt. Vì vậy cô đã yêu cầu việc có mẫu tủy thứ hai."
Nàng gật đầu. "Tôi thấy tiến sĩ Pollum không có mặt ở đây. Liệu ông ta đã có thể kết thúc phần xét nghiệm về protein trong vỏ vi rút chưa?"
Nàng cũng đã yêu cầu thí nghiệm này rồi. Thật ra nó không thật cần thiết, nhưng nó giúp kéo dài thêm thời gian dăm ba giờ nữa.
"Chờ chút," Chénier nói. "Tôi có kết quả ở đây." Bà ta quay về một trong các màn hình và ấn vào bàn phím trong khi nói. "Có thể các vị quan tâm khi biết rằng chúng ta có thể phân loại vi rút từ xét nghiệm hữu cơ vào chủng loại Bunyavirus."
Henri nhận thấy một nét phờ phạc trong ánh mắt Lisa và giải thích: "Đó là điều chúng tôi đã trao đổi trước khi cô tới. Bunyaviruses điển hình gây nhiễm đối với loại có vú và loài chim, gây ra sốt xuất huyết, nhưng vật truyền nhiễm thông thường là động vật chân đốt. Ruồi, muỗi đốt..."
Ông ta đưa ra một tờ ghi chép.
Lisa liếc nhìn những trang giấy mở. Henri đã sơ đồ hóa con đường lây nhiễm.
Bị lây nhiễm từ người qua côn trùng truyền bệnh không ốm đến người bị nhiễm.
Henri đập vào chỗ giữa: "Côn trùng thông thường làm bệnh lan rộng. Bunyaviruses hiếm khi có thể truyền bệnh từ người sang người."
Lisa gãi bên thái dương. "Không giống như loại vi rút Juda." Nàng cầm lấy chiếc bút chì rồi chỉ vào sơ đồ. "Thay vì một côn trùng lan truyền bệnh, nó cần có một tế bào vi khuẩn để chuyển vi rút từ người nọ sang người kia."
Người ® Vi khuẩn ® Người
(bị nhiễm) (bị nhiễm)
Henri cau mày. "Đúng vậy, nhưng tại sao?"
Tiếng súng nổ cắt ngang lời nói của ông. Tất cả bọn họ nhảy lên.
Ngay cả Devesh cũng đánh rơi cái gậy. Cùng với tiếng lẩm bẩm chửi, y nhặt lên, rồi đi ra cửa. "Tất cả mọi người ở lại đây."
Có thêm nhiều tiếng súng cùng với những tiếng kêu thét.
Lisa đứng dậy.Chuyện gì đang xảy ra vậy?
*
* *
1 giờ 24 phút sáng
Devesh điều hai lính gác chốt ở chỗ khu vực khoa học rồi vội vã tới khu vực giữa tàu bằng thang máy. Súng tự động liên tục nhả đạn tạo ra hiệu ứng âm thanh lớn trong một khu vực hẹp.
Có những phát súng nổ xen kẽ.
Giữ bọn lính gác ở phía trước, Devesh bước lên thận trọng khi tiến đến khu vực. Sáu người đang vận hành các chi tiết an ninh. Gã cầm đầu, một tên lính châu Phi cao lớn từ Somalia, nhìn thấy Devesh liền lui về vị trí của mình.
Hắn nói bằng tiếng Mã Lai: "Thưa ngài, hàng chục kẻ bị lây nhiễm nổi loạn ở một trong những khoang phía dưới. Chúng chạy ra ngoài. Tấn công."
Hắn chỉ vào phía một tên lính gác, gã kia giơ một cánh tay đẫm máu ra, vén tay áo sơ mi lên để lộ một vết răng cắn rất sâu.
Devesh tiến lên một bước, hờ hững chỉ vào tên bị thương: "Hãy cách ly gã này."
Bên ngoài bốt gác, hành lang trải dài về phía thân tàu. Một vài cánh cửa mở toang, vài cái khác đóng lại. Dọc theo lối đi trên hành lang, mấy xác chết nằm sóng soài, lỗ chỗ đạn, máu thấm đẫm trên thảm. Chỗ gần nhất có hai mẹ con trần trụi ôm chặt nhau. Devesh để ý những vết đen và tím bầm trên những xác chết.
Hắn cố tỏ ra kiềm chế, thở phì phì qua lỗ mũi. Khu vực này của con tàu chứa những bệnh nhân bị nặng nhất, để họ sẵn sàng phục vụ cho các nhóm thí nghiệm. Devesh đã đề ra một chính sách cứng rắn để đối phó với bệnh nhân ở tầng này. Sự bất cẩn như vậy không thể tha thứ. Không thể được khi hắn đã gần tới thành công.
"Tôi đã gọi cứu viện tới," gã cầm đầu nói. "Khi chúng tôi bắt đầu bắn, một vài trong số những kẻ bị bệnh nặng nhất lao vào các căn phòng trống. Chúng tôi phải xua họ ra."
Có tiếng rên rỉ từ phía cuối gian sảnh.
Một người đàn ông dùng tay cố bò dậy. Bên vai kia của anh ta đầy máu. Anh ta mặc bộ đồ y tế. Một trong những bác sĩ. Bị bắn trúng trong cuộc tàn sát.
"Giúp tôi với." Anh ta rên rỉ.
Từ một bên cửa mở, gần vai anh ta, một bàn tay thò ra rồi nắm lấy áo của anh ta. Bàn tay khác túm tóc. Anh ta hét lên khi bị kéo giật qua cửa. Hai chân vẫn thò ra bên ngoài lối đi, gót chân giãy giụa, đạp mạnh.
Gã cầm đầu tốp gác liếc nhìn Devesh như xin ph 8000 ép
tiếp tục.
Devesh lắc đầu.
Tiếng hét của bác sĩ bỗng nhiên dừng hẳn nhưng gót chân của anh vẫn đạp mạnh.
Devesh chẳng tỏ vẻ gì thương hại. Có ai đó đã bất cẩn không chịu khóa cửa. Hắn nghe thấy tiếng chân rầm rập của tốp lính ứng cứu đang bước lên cầu thang.
Devesh quay đi vẫy một cánh tay về phía lối đi. "Giết hết chúng đi."
"Thưa ngài?"
"Cả khoang. Giết sạch. Từ cabin này đến cabin khác."
*
* *
1 giờ 54 phút sáng
Vẫn ở trong phòng thí nghiệm, Lisa lắng nghe tiếng súng trường.
Những tiếng thét vọng đến tai nàng.
Không ai nói câu nào.
Cuối cùng Devesh cũng quay lại. Trông hắn không có vẻ gì lúng túng, mặt chỉ hơi đỏ một chút. Hắn giơ chiếc gậy về phía Lisa. "Cô hãy đi với tôi. Có cái tôi muốn cô xem." Hắn quay gót rồi bước nhanh.
Lisa đứng dậy vội vã bước theo kịp.
Devesh dẫn cô đi qua bốt gác xuống lối đi phía dưới.
Đó là một nơi thảm sát. Máu tung tóe bắn lên tường. Những cái xác nằm úp trên tường vặn vẹo vì trúng đạn súng trường tự động.
Lisa nghẹn lời, ngạt thở vì mùi vị chết chóc ở hành lang.
Khi họ đi ngang qua, cửa ca bin hai bên vẫn mở. Nàng liếc nhìn vào bên trong và phát hiện thêm nhiều xác, chết từ bao giờ rồi, vặn vẹo, rúm ró. Vài người bị giết trong khi tay vẫn bị còng vào giường.
Có thêm nhiều tiếng súng nhưng không rải rác mà hoàn toàn có chủ ý.
Ở phía dưới, hai tên lính thò ra từ một ca bin, súng vẫn còn bốc khói, rồi di chuyển sang một căn phòng khác.
"Các người... đang tàn sát bệnh nhân." Lisa nói.
"Chúng tôi đang làm nhẹ đi gánh nặng về bệnh nhân, thế thôi." Devesh giơ một cánh tay lên về phía trước. "Đây là cuộc bạo loạn thứ hai. Một tiếng đồng hồ trước đây, hai bệnh nhân trốn thoát, cắn đứt móng tay mình để tự giải thoát. Chúng tấn công bác sĩ, giết ông ta trước khi chúng bị ngăn lại. Trong tình thế hỗn loạn như vậy, những bệnh nhân này đều khỏe mạnh sau khi tiêm thuốc an thần, quên hết vết thương."
Lisa nhớ lại cuốn băng video chồng Susan Tunis, điên cuồng, tấn công. Ở đây cũng bắt đầu như thế.
Devesh liếc nhìn nàng. "Từ nghiên cứu, hình như cô nói đúng. Trong bệnh lý hình như xuất hiện vài hình thức bị kích động tâm lý đi cùng với bạo lực sâu sắc về tâm thần."
Nhiều tiếng súng nổ làm nàng nhảy lên.
Đáp ứng lại phản ứng của nàng, hắn thở dài."Cái đó là vì an toàn của mọi người. Chúng tôi đã thấy tình trạng đi xuống nhanh chóng trong điều kiện của bệnh nhân, trên cả con tàu. Cùng với việc thuốc men cũng cạn dần, chúng ta cần phải tính đến hiệu quả. Một khi người bệnh đã tới mức độ này, họ tạo ra mối đe dọa nghiêm trọng xung quanh họ và không còn phục vụ được gì nữa."
Lisa hiểu được ý đồ phía sau những lời nói của hắn. Devesh và Hiệp hội đang sử dụng những bệnh nhân trên con tàu tương tự như môi trường nuôi cấy loại vi rút Juda, thu hái được những mầm bệnh chết người và cấy giữ chúng như những thứ vũ khí sinh học tiềm tàng. Và giống như với bất cứ cánh đồng nào sau khi đã thu hoạch triệt để xong, Devesh đang cày xới tung lên.
"Tại sao ngài lại đưa tôi tới đây?" Nàng hỏi, mặt tái nhợt.
"Để chỉ cho cô điều này."
Devesh bước tới một cabin duy nhất cửa vẫn đóng chặt, Ánh đèn hành lang để lộ một ca bin bên trong, giống như cabin của nàng, có phòng tắm nhỏ, một máy vô tuyến và một cái giường nhỏ.
Phía sau nàng, Devesh thò tay ra sau bật công tắc đèn. Ánh sáng òa lên rồi ổn định màu sáng nhạt.
Lisa lui lại, để bàn tay ngang họng.
Một thân hình nằm vắt ngang trên giường, đôi chân trần trụi của ông ta bị buộc vào thành giường, đôi tay vào phía đầu giường. Nhưng hình như đã có một quả bom làm bay cả bụng ông ta.Máu đông đặc bám vào trần và tường.
Đặt một bàn tay lên mồm, Lisa thấy ớn lạnh, lui lại
phía sau.
Thế những bộ phận nội tạng của ông ta đâu rồi?
"Họ bị phát hiện đang ăn thịt ông ta." Devesh giải thích. "Những bệnh nhân mà đầu óc của họ đã bị thối ruỗng không kiểm soát được."
Lisa rùng mình. Nàng bỗng nhiên nhận thức được đôi chân trần và thân thể gần như trần truồng của mình sau cái áo choàng.
"Chúng tôi đã thấy hiện tượng này trước đây," Devesh tiếp tục. "Trong tình trạng kích động tâm lý, vi rút hình như kích thích một thói tham ăn. Thực ra, không bao giờ no. Chúng tôi đã nhìn thấy một trong những nạn nhân nhồi nhét cho đến khi dạ dày của mình phòi cả ra. Và anh ta tiếp
tục ăn."
Ôi, lạy Chúa...
Qua cơn sốc, Lisa thấy cần có thêm chút thời gian để mình có thể hiểu hết những lời của hắn. "Ngài đã nhìn thấy... ở đâu...?"
"Tiến sĩ Cummings, cô không nghĩ là chúng ta vừa nghiên cứu Susan Tunis. Để thấu triệt mọi thứ, chúng ta cũng phải hiểu mọi góc cạnh của căn bệnh. Ngay cả hiện tượng ăn thịt người này nữa. Tình trạng đói không biết bao giờ đủ có sự giống nhau một cách lạ lùng với hiện tượng Prader-Willi. Cô có quen thuộc với hiện tượng đó không?"
Không, Lisa lắc đầu.
"Đấy là tình trạng hoạt động bất thường của vùng não điều khiển các hoạt động ăn uống, tạo ra một cảm giác muốn ăn mà không bao giờ thỏa mãn. Một cảm giác đói bất tận. Một khuyết tật hoạt động gen hiếm thấy. Nhiều người trong số những kẻ mắc chứng bệnh này chết ở tuổi rất trẻ do dạ dày bị bục."
Sự nhận xét vô cảm, lạnh lùng của Devesh đã giúp làm cho tâm trạng nàng bình ổn trở lại nhưng hơi thở của nàng vẫn nặng nề.
"Phẫu thuật bộ não của một kẻ bị rối loạn tâm thần cho thấy sự tàn phá của chất độc đối với vùng não điều khiển hoạt động ăn uống, giống như tình trạng rối loạn tâm lý ở bệnh nhân Prader- Willi. Và đi cùng với sự phấn kích do rối loạn tâm lý và kích thích thượng thận. Vậy..." Devesh chỉ về phía giường.
Bụng nàng như thắt lại. Khi quay mặt đi, cuối cùng nàng cũng thấy khuôn mặt của nạn nhân: đôi môi đau đớn, cặp mắt nhìn trống rỗng và mảng tóc muối tiêu.
Tay nàng bịt chặt mồm khi nàng nhận ra người đàn ông. Đó là bệnh nhân John Doe, kẻ chịu đựng căn bệnh bị ăn thịt. Từ tiểu sử bệnh lý của Susan, nàng còn biết cả tên người bệnh này nữa.
Applegate.
Đặt một cái tên cho nạn ăn thịt người ở đây, nhân cách hóa nó...
Lisa vội đi ra khỏi phòng.
Đôi mắt của Devesh ánh lên với vẻ thích thú đen tối. Lisa nhận ra gã khốn kiếp đưa nàng ở tình trạng gần như trần trụi tới đây hoàn toàn có chủ đích, biết rằng nàng sẽ nhận ra nạn nhân. Quả đó là một thú chơi man rợ.
"Giờ thì cô biết những gì chúng ta thực sự đối mặt ở đây rồi." Hắn nói. "Hãy tưởng tượng những sự kiện này được truyền bá rộng rãi khắp nơi trên thế giới. Đó chính là mối đe dọa và tôi cố gắng ngăn chặn."
Lisa cố kiềm chề một lời phản bác thật gay gắt. Cố kiềm chế, đồ con khỉ.
"Chúng ta đã đối mặt với một đại dịch." Devesh tiếp tục khi hắn quay đi về phía khu vực khoa học." Trước khi Tổ chức Y tế Thế giới phản ứng với sự kiện đảo Giáng sinh, những bệnh nhân đầu tiên đã được đưa bằng trực thăng tới Perth ở Australia. Trước khi đấy, những khách đi du lịch qua đảo Giáng sinh đã tỏa đi khắp các khu vực trên trái đất. Luân Đôn, San Francisco, Béclin, Kuala Lumpur. Chúng tôi không biết có bao nhiêu, nếu như có, bị ảnh hưởng vì đã bị phơi nhiễm, giống như tiến sĩ Susan Tunis. Không xử lý việc loại bỏ tình trạng phơi nhiễm thích hợp giống như chúng ta áp dụng ở đây, vi rút có thể sẽ lan ra."
Devesh dẫn nàng quay trở lại căn phòng dẫn tới phòng thí nghiệm vi rút. "Vậy có lẽ giờ thì cô sẽ sẵn sàng cởi mở hơn chứ."
Khi họ quay trở lại phòng thí nghiệm, những cái liếc nhìn dò hỏi đều hướng về phía họ.
Lisa chỉ đơn giản lắc đầu rồi ngồi xuống chiếc ghế
của mình.
Sau khi đã ngồi xuống cả, tiến sĩ Eloise Chénier chuyển chỗ sang trước máy tính." Trong khi mọi người ra ngoài," bà ta nói, "tôi đã lấy ra những hồ sơ của tiến sĩ Pollum. Đây là hệ thống về protein mà cô yêu cầu. Từ chỗ vi rút trong bát xúp chất độc."
Bà ta tránh khỏi màn hình để mọi người có thể nhìn thấy hình ảnh quay tròn giống như một thứ đồ chơi trên màn hình.
Nó mô tả vỏ ngoài hai mươi mặt của con vi rút: hai mươi mảnh ba góc tạo thành một khối cầu giống như quả bóng. Trừ vài mảnh ba góc thò ra với chất protein alpha xâm nhập, trong khi những cái khác bị xâm nhập bởi protein beta. Lisa đã muốn tất cả được biểu thị để có thể thử tốt hơn giả thuyết của nàng.
Lisa chỉ ra. "Liệu bà có thể dừng việc quay lại không?"
Chénier ấn nút chuột khiến vòng quay ngưng lại, hình ảnh đứng lại trên màn hình.
Lisa đứng lui lại." Giờ đây, trên một màn hình khác, bà có thể đưa ra biểu đồ protein của loại vi rút lấy ra ở dịch tủy sống của Susan Tunis?"
Mấy giây sau, một quả bóng thứ hai hiện ra, xoay tròn. Lisa tiến đến gần hơn, nghiên cứu nó. Lần này nàng điều khiển chuột, đông cứng hình ảnh nàng muốn.
Nàng đối mặt với những người khác.
Devesh nhún vai, dùng toàn bộ cơ thể hắn. "Sao, nó trông giống hệt nhau?"
Nàng quay lại: "Hãy hình dung hai cái đứng cạnh nhau."
Henri đứng dậy, mắt mở to: "Chúng không hề giống nhau!"
Nàng gật đầu. "Chúng là tấm gương phản chiếu của nhau. Chúng có thể thoạt nhìn thì giống nhau nhưng thực sự là ngược nhau. Hiện tượng đồng phân hình học. Hai hình thức của một khối hình học, tương phản với nhau."
"Cis và trans" Chénier nói, dùng từ kỹ thuật để chỉ hai mặt của một đồng xu.
Lisa gõ màn hình đầu: "Đây là hình trans hoặc hình thức tồi tệ của vi rút. Nó lây nhiễm vi khuẩn và biến chúng thành con quỷ." Nàng chỉ về phía màn hình khác, mô tả loại vi rút tìm thấy bên trong đầu của Susan " Đây là loại cis, hoặc loại vi rút lành chữa bệnh."
"Cis và trans." Miller lẩm bẩm. "Tốt và xấu."
Lisa nói chi tiết thêm lập luận của mình. "Như chúng ta đã biết, vi rút trans độc hóa vi khuẩn để làm yếu đi vách ngăn máu lên não, cho phép nó xâm nhập lãnh thổ nguyên sơ ở bên trong não. Nó thậm chí còn có cả vài ba đồng hành."
"Loại cyanobacteria." Miller nói. "Vi khuẩn sáng lấp lánh."
"Và thông thường những chất độc sản sinh ra vi khuẩn hủy hoại bộ não theo phương thức nó gây ra sự kích động, rối loạn tâm lý với chứng loạn tinh thần. Nhưng trong trường hợp Susan, có một điều gì nữa đã xảy ra. Loại vi rút sau khi đã xâm nhập vào tủy não, đã biến đổi. Chuyển từ loại hình xấu trans thành loại hình có lợi là cis. Và một khi biến đổi, loại vi rút mới càn quét và bắt đầu làm đảo lộn những phá hủy do người anh em sinh đôi xấu xa của nó gây ra, chữa lành người bệnh và đưa cô ta về tình trạng hôn mê sâu, trái ngược với giai đoạn kích động điên cuồng của những bệnh nhân khác."
"Ngay cả nếu như cô đúng." Henri nói, "điều tôi tin cô, thì điều gì là đặc biệt về hóa sinh học của Susan đã dẫn đến thay đổi này?"
Lisa nhún vai." Tôi đánh cược vài ngày hoặc vài tuần tới, chúng ta sẽ thấy một loạt bệnh nhân sẽ có sự biến cải như vậy. Susan bị nhiễm bệnh năm tuần trước đây. Như vậy có thể quá sớm để phán xét. Nhưng tôi nghĩ đó vẫn là một sự kiện rất hiếm hoi. Một sự thoái lui tình cờ trong di truyền học của cô ta. Ví dụ như không biết các vị có thông thuộc với hiện tượng Eyam trong trận dịch Đen không?"
Chénier giơ tay lên giống như trong lớp học. "Tôi biết."
Lisa gật đầu. Tất nhiên một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm sẽ biết câu chuyện.
Chénier giải thích: "Eyam là một ngôi làng nhỏ ở nước Anh. Trở lại thế kỷ thứ XVI, bệnh dịch Đen lan đến ngôi làng. Nhưng sau đó một năm, hầu hết người dân ở làng vẫn sống. Những cuộc nghiên cứu hiện đại về di truyền học cho thấy tại sao. Một sự biến đổi hiếm hoi đã xuất hiện trong dân làng. Trong một loại gen có tên là Delta 32. Nó là một sự đào ngũ lành tính truyền từ một thành viên gia đình sang người khác, và trong một thị trấn tách biệt như vậy thì tỷ lệ lớn trong thị trấn là cải biến. Rồi trận dịch xảy ra. Và chính sự biến cải lạ lùng này đã cứu được họ. Làm cho họ an toàn."
Devesh nói: "Có phải cô gợi ý rằng bệnh nhân của chúng ta mang thứ tương tự như Delta 32 chống lại chủng loại Juda? Vài loại protein tình cờ nào đó đã chuyển thứ vi rút trong người cô ta từ trans sang thành cis?"
"Hoặc có thể đấy không phải là tình cờ." Lisa lẩm bẩm. Nàng đã đánh vật với câu hỏi này từ khi phát hiện ra loại vi rút thay đổi. "Chỉ có một phần rất nhỏ của DNA thực sự hoạt động. Thực ra chỉ có ba phần trăm. Chín mươi bảy phần trăm còn lại được coi như thứ bỏ đi. Nó không mang mã gì cả. Nhưng một vài DNA bỏ đi đó lại có sự giống nhau đến lạ lùng với mã vi rút. Hiện giờ người ta tin rằng sự mã hóa như vậy có thể phục vụ cho vai trò bảo vệ, giúp chúng ta thoát khỏi những bệnh tật trong tương lai."
Khi Lisa tiếp tục, nàng hình dung thân thể của Susan,
bị tấn công và ăn thịt. "Giống như hiện tượng ăn thịt người,
ví dụ."
Tuyên bố lạ lùng của nàng đã kéo mọi người ra khỏi màn hình.
Lisa nói rõ hơn: "Hiện tượng di truyền tìm được khắp nơi trên thế giới cho thấy hầu hết con người mang một loại gen nhất định chống lại bệnh tật mà chỉ có thể có được bằng cách ăn thịt người. Những tìm kiếm này cho thấy tổ tiên của chúng ta có thể là những kẻ ăn thịt người. Có thể Susan mang dấu vết gen tương tự để bảo vệ cho bộ não của cô ta chống lại các cuộc tấn công của chủng vi rút Juda. Một dấu vết sót lại từ lịch sử di truyền đã bị mất từ lâu của chúng ta. Một cái đã bị chôn vùi trong quá khứ của chúng ta."
"Hấp dẫn như mọi khi, tiến sĩ Cummings." Devesh đi đi lại lại, rõ ràng rất phấn kích. "Nhưng dù sự biến cải là cơ hội tình cờ hoặc do sự đánh dấu đổi biến gen nào đó như trong quá khứ của chúng ta...nó không thực sự là vấn đề. Giờ đây đã biết về loại vi rút mới này, chúng ta có thể sử dụng kiến thức để sản xuất thuốc chữa!"
Chénier nhìn không có vẻ chắc chắn lắm. "Có thể," bà ta nhấn mạnh. "Nó cần có thêm nghiên cứu nữa. May mắn là chúng ta có cả một tàu đầy những bệnh nhân để có thể thực hiện các chế độ chữa bệnh cần thiết. Nhưng đầu tiên chúng ta cần có thêm loại vi rút cis." Bà ta nhìn một cách có ý nghĩa về phía Devesh.
"Đừng lo." Hắn nói. "Với Rakao và người của gã đang lùng sục hòn đảo này, chúng sẽ sớm tóm lại được Susan và những kẻ khác về. Song vấn đề đó đã giải quyết..."
Y quay lại Lisa. "Giờ đến lúc thảo luận về sự trừng phạt đối với cô."
Như thể xếp hàng, một bóng người bước ra, cầm trong tay con dao mổ.
Mái tóc dài đen nhánh của ả đã được buộc lại thành đuôi sam.
Surina.
*
* *
3 giờ 14 phút sáng
Monk trèo lên bậc thang ngoằn ngoèo, theo sau một gã ở bộ lạc ăn thịt người. Khoảng một tá kẻ khác đứng quanh con đường mòn trong bãi đá phía trước anh. Đằng sau Monk có nhiều kẻ khác ,khoảng bốn chục người.
Đội quân ăn thịt người của anh.
Những hạt mưa vẫn rơi từ bầu trời đen sẫm. Nhưng ít nhất gió cũng đã ngừng, thỉnh thoảng mới có vài cơn gió thổi qua mỏm đá. Monk đã tính toán kỹ lưỡng chuyện hạ sơn này, chờ cho mắt cơn bão hạ xuống trên hòn đảo. Đó là một sự chậm trễ khó khăn, nhưng sự kiên trì của anh đã mở ra một cửa sổ nhỏ cơ hội.
Anh tiếp tục đi. Con đường họ đang trèo lên được giấu kỹ trong khe đá, cơn mưa rào làm cho đá trơn tuột, nhiều lúc phải bò bằng cả tay, chân và đầu gối.
Monk liếc nhìn lại phía sau.
Ryder và Jessie ở phía sau lưng anh. Tiếp sau đó là hàng người dân bộ lạc, trang phục bằng những thứ như lông chim, vỏ sò, vỏ cây, móng chim và xương.
Rất nhiều xương.
Tốp tấn công được tăng cường mang theo nhiều lao ngắn, cung tên và trùy nhọn. Nhưng một nửa số họ cũng có súng trường và các loại vũ khí cổ lỗ từ loại súng trường AK 47 của Nga, M16 của Mỹ cùng với các băng đạn. Hình như những kẻ ăn thịt người này đã mua bán với bọn cướp nhiều thứ hơn là loại thịt động vật hai chân trong khi cùng nhau cai quản cái động này.
Từ trên cao, Monk có thể thấy được toàn bộ khung cảnh của cái vịnh đen ngòm. Con tàu khách lấp lánh như một cái bánh cưới nằm ở chính giữa. Đó chính là mục tiêu của nhóm tấn công.
Hình như bất cứ điều gì Rangda, quận chúa muốn, những kẻ ăn thịt người phải bảo đảm chắc chắn có.
Và Rangda muốn con tàu.
Mong muốn và mệnh lệnh của bà chúa được anh chàng trai trẻ Jessie dịch. Anh ta nói tiếng Mã Lai vì đó là ngôn ngữ buôn bán của bọn cướp biển, hầu hết những dân ăn thịt người cũng hiểu cả. Bọn họ rất sợ anh chàng y tá trẻ này vì anh ta hiểu được ngôn ngữ của quận chúa của họ và có thể truyền đạt được mong muốn của Rangda. Bà ta thậm chí còn ban một nụ hôn lên má người phiên dịch, cầu chúc cho anh ta.
Không ai dám không vâng lời anh ta.
Nhưng khi Jessie đang bận rộn vào việc tổ chức cuộc tấn công thì mọi việc lên kế hoạch đều ở chỗ Monk. Anh quay lưng lại phía con tàu. Với mặt nước chắc chắn được canh phòng, họ không thể nào tổ chức tấn công bằng thuyền. Và bơi ra cũng không phải là một phương án hay. Ngay cả từ độ cao này, Monk để ý là những tia chớp vẫn thỉnh thoảng xuyên xuống được cái vịnh nằm thấp ở phía dưới. Cơn bão đã làm cho những dân nhập cư bật dậy để đi săn những kẻ ở chỗ cạn.
Vậy là chỉ còn lại một sự lựa chọn.
Monk trèo lên cao hơn nữa, tít tận nóc của trái đất. Cuối cùng họ đã tới cây cột thép khổng lồ làm trụ cho các dây cáp lớn, tạo nên bộ xương đỡ cho tấm lưới che trên hòn đảo.
Monk nhìn xuống qua tấm lưới phía dưới.
Mưa vẫn rơi xuống, thấm ướt qua tất cả những thứ cây cỏ ngụy trang đan thành một mở hổ lốn nhằng nhịt ở phía trên. Một ai đó phải tìm cách giữ gìn ảo giác này. Và Monk đoán chắc đấy không phải là ý tưởng của những tên cướp.
Chứng tỏ điều ấy, một anh chàng ăn thịt người, hai bàn chân trần của anh ta thò qua tấm lưới rồi cả người biến mất. Một cái thang dây được thả xuống.
Những kẻ khác bắt đầu trèo lên.
Monk quay trở lại phía Jessie." Cậu có thể quay lại, đến chỗ Susan ở bãi biển. Chúng ta có thể đón hai người ở đó."
Jessie lấy tay gạt mái tóc ướt sũng nước mưa khỏi mắt."Tôi sẽ đi, nếu không thì ai sẽ dịch cho anh?" Trước khi Monk có thể tranh luận, người y tá đã nắm lấy cái thang rồi trèo lên.
Ryder theo sau, vỗ vai Monk khi ông đi ngang qua. Sau khi nhà tỉ phú chui qua cái lưới trên đầu, Monk nắm lấy nấc thang cuối nhìn lại một lần nữa việc triển khai của đội quân da đen của mình. Đầu cắm lông sặc sỡ, trang bị đến tận răng, sẵn sàng làm theo mệnh lệnh của bà quận chúa.
Lúc này anh cảm thấy đôi chút ân hận về việc lợi dụng sự mê tín của họ trong vấn đề đó. Nhiều người trong bọn họ sẽ chết. Nhưng nếu như Lisa nói đúng thì cả thế giới bị đe dọa. Anh không còn sự lựa chọn nào ngoài việc phát huy nguồn lực trong tay.
Họ phải tới chiếc tàu của Ryder. Đưa Susan ra khỏi đây và hy vọng giải thoát được Lisa. Monk không muốn tin rằng đồng nghiệp của anh không còn sống.
Anh trèo lên thang.
Monk trèo qua đám hổ lốn ngụy trang. Ngay cả trong mắt bão, những cơn gió mạnh vẫn cố tìm cách giật tung anh ra khỏi chỗ này. Phía trước kia, đội quân của anh, đã hướng về phía những sợi dây chão khổng lồ chạy dọc ngang đỡ cái lưới. Mưa vẫn rơi nặng hạt, Monk thận trọng trèo sau họ. Những đợt gió thoảng qua cái lưới, làm nó phồng lên rồi lại hạ xuống. Giống như cái thảm bay của Aladdin.
Monk ngoái đầu nhìn quanh. Phía trên đầu, đám mây đã mỏng bớt đi để lộ vài ngôi sao, nhưng rồi những đám mây khác lại ào tới. Mắt bão nhỏ hơn, anh hy vọng. Bốn phía, những ánh chớp vẫn liên tục trong tiếng sấm ì ào.
Anh vội vã đi về phía trước. Anh và đội quân của mình phải rời khỏi cái lưới khi mắt bão tràn qua khỏi hòn đảo. Anh nhớ lại những cơn sét đánh trước kia, đưa dòng điện đánh thẳng vào bộ xương bằng kim loại.
Có nghĩa là sẽ chết nếu vẫn còn ở trên này.
Chậm chạp họ hướng tới đích của mình.
Trong khi anh theo sau, Monk nhìn xuống dưới. Ít nhất Susan đã thoát được cơn hiểm nguy.
*
* *
4 giờ 2 phút sáng
Mặt nàng bôi đầy tro để che việc phát sáng. Susan ngồi trên bụi, nằm sâu trong rừng, không xa cái vũng. Cô đã dành hơn cả giờ qua đi trở lại bãi biển để chờ Monk ở đó.
Nhưng cô không đơn độc.
Một tá người bộ lạc, những kẻ tháp tùng hoàng gia của cô, đứng gác trong rừng, nấp trong rừng. Chỉ có một người đàn bà tên là Tikal, ở gần chỗ cô, quỳ bên cạnh tảng đá, đầu chạm vào bùn. Cô ta không di chuyển từ khi họ dừng lại.
Susan định tiếp xúc với cô ta nhưng người đàn bà
chỉ rên.
Vì vậy Susan chờ đợi ngồi trên mỏm đá. Cô mặc một cái áo khoác làm bằng da lợn, có đính những cái lông, vỏ sò và đá mài nhẵn. Đầu cô đội vương miện làm bằng xương xườn, gắn vào trán bằng bột vỏ cây. Tất cả những mẩu xương thò ra bên ngoài trông như một loại hoa. Cô được đưa cho một vật mài bóng, có đính trên là một cái sọ người.
Tất cả đều phù hợp với danh hiệu quận chúa của Pusat.
Và mặc dù được trang điểm kỳ cục như vậy nhưng cái áo khoác cũng ấm và tỏ ra công dụng khi trèo xuống từ trên núi đi ra biển. Người tùy tùng của cô cũng đan tạm một cái ô bằng lá cọ giơ lên đầu giữ cho quận chúa của họ khỏi bị ướt.
Susan nhìn lên phía cái lưới khổng lồ. Cô biết mình quá yếu không thể cố trèo với những người khác. Vì vậy, cô đã không tranh luận khi Monk ra lệnh cho cô ở lại bờ biển giấu kín chờ kết quả cuộc tấn công của những kẻ ăn thịt người vào con tàu khách.
Nhưng cô biết sẽ là một đêm không ngủ dài.
Quá dài.
Bị bỏ lại, cô bắt đầu thấm thía tác động của tất cả những gì đã xảy ra từ khi tỉnh dậy trên boong chiếc tàu. Mặc dù còn sống, song những người gần gũi nhất đối với trái tim cô không còn sống sót.
Gregg...
Hình ảnh chồng cô ùa trở lại trong cô, nụ cười mỉm, cái cười thoải mái, đôi mắt đen, mùi xạ hương của làn da, vị trên môi...
Anh tràn ngập trong cô.
Làm sao mà những cái đó có thể mất đi?
Susan biết mình còn lâu mới lĩnh hội được đầy đủ sự mất mát của mình. Nhưng cô đủ biết. Cơ thể cô cảm thấy bị xây xát, đau đớn đến tận xương. Họng thít lại và cô bắt đầu run lên. Những giọt nước mắt trào ra chảy xuống khuôn mặt đen sẫm vì tro.
Gregg...
Cô nằm dài trên đá, để cho nỗi đau đớn xuyên suốt qua mình. Không thể nào ngưng lại. Nỗi buồn như triều dâng, không thể lẩn tránh, như lực đẩy của mặt trăng.
Nhưng sau một khoảng thời gian, ngay cả thủy triều cũng giảm đi. Trong nỗi đau bừng tỉnh, cảm giác nguyên sơ vẫn còn, một điều cô đã cố tránh thừa nhận cho đến tận bây giờ. Nhưng nó ở đây, không thể lẩn tránh được, giống như nỗi buồn của cô.
Susan thò tay ra ngoài áo khoác, nhìn vào chiều sâu của da nàng, sáng vì cyanobacteria trong hơi thở. Cô xoay bàn tay rồi ngửa nó lên. Ánh sáng không làm nóng làn da, nhưng có sự ấm áp lạ kỳ-nó đọng lại thành cơn sốt hơn là ánh mặt trời.
Điều gì đang xảy ra với cô?
Là một nhà sinh vật biển, Susan biết tất cả về chất hữu cơ. Cyanobacteria, thường được đề cập đến, như là loại tảo xanh lục - xanh lá cây, xuất hiện khắp nơi, giống như chính biển cả. Chúng tụ tập thành vô vàn hình dạng. Chúng là công cụ cho sự tiến hóa, trở thành tiền nhiệm của các loài thực vật hiện đại. Trước đó trong lịch sử trái đất, cyanobacteria được phân loại như khí quyển oxygen đầu tiên làm trái đất sống được. Và từ đấy, chúng đã thích hợp với hàng triệu những tầng địa chất.
Vậy việc xảy ra đối với cơ thể cô có nghĩa gì? Và nó liên quan thế nào đến việc cô bị phơi nhiễm với chủng vi rút Juda? Không có nghĩa gì cả.
Mặc dù tất cả các câu hỏi, Susan vẫn biết một sự thật.
Có cái gì đó đang tới.
Cô cảm thấy nó sâu thẳm bên trong, một cảm giác trào dâng bất chấp sự mô tả nào.
Không thể dừng lại giống như triều dâng.
Cô nhìn ngang qua khu rừng, cái vũng phía bên kia hòn đảo. Chắc chắn có thể cảm nhận được mặt trời đang lên từ phía đường cong của trái đất, Susan biết mình chưa phải hết thay đổi.
*
* *
4 giờ 18 phút sáng
Từ cách đó bốn trăm, yard, Rakao đang rình con mồi. Nằm giấu trong một chiếc áo mưa, hắn áp chặt đôi kính nhìn đêm vào mắt. Hắn đếm những vệt sáng đỏ, dấu hiệu thân nhiệt con người, đang tỏa rộng theo ven biển. Đội quân đi săn của hắn đông gấp đôi số người bộ lạc.
Giơ nắm tay lên, Rakao ra hiệu cho tốp của hắn tỏa ra hai bên, giữ khoảng cách. Người của hắn biết chỉ tiến với mỗi tiếng sấm. Những người dân bộ lạc có cảm nhận rất thính. Hắn không muốn đùa cợt với con mồi của mình.
Rakao nghiên cứu Susan Tunis, ngồi trên một tảng đá. Hắn đã theo dõi đám đông những kẻ ăn thịt người từ vùng núi xuống cái vịnh. Vậy những người đồng hành với cô ta đâu rồi? Họ chắc cách đó không xa.
Vậy trong khi có thể chộp ngay cô ta bất cứ lúc nào, hắn tỏ ra mình là một thợ săn kiên trì. Khi người của hắn tỏa ra, xiết chặt cái bẫy, Rakao biết cách tốt nhất là dùng người đàn bà để nhử mồi.