Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa Chương 11


Chương 11
Đêm trắng

Cái tàu thủy chở khách cũ kỹ nhổ neo rời bến Vôznhêxênhiê và chạy ra hồ Ônhêga.

Chung quanh là đêm trắng mênh mông. Lần đầu tiên tôi được thấy một đêm như thế không phải trên dòng sông Nêva và những cung điện thành Lêningrat mà ở giữa những miền rừng vô tận và những hồ của phương Bắc.

Mặt trăng thấp và tái mét treo lơ lửng đằng đông. Trăng không tỏa sáng.

Những đợt sóng từ mạn tàu lặng lẽ chạy ra xa, làm đung đưa những khúc rễ thông. Trên bờ, chắc là trong một nghĩa trang cổ xưa nào đó, người gác đêm điểm canh trên gác chuông mười hai tiếng. Và mặc dầu từ đây đến bờ còn xa, tiếng chuông nọ vẫn bay tới chúng tôi, bay qua tàu và lướt trên mặt nước phẳng lặng đi mãi vào nơi tranh tối tranh sáng trong suốt nơi trăng treo lơ lửng.



Tôi không biết nên gọi cái ánh sáng mệt mỏi của đêm trắng như thế nào? Bí ẩn? Hay huyền ảo?

Bao giờ cũng vậy, tôi có cảm giác rằng sở dĩ có được những đêm như thế là nhờ ở lòng hào hiệp vô cùng rộng rãi của thiên nhiên - trong những đêm ấy có biết bao nhiêu là không khí nhợt nhạt và ánh lấp lánh trong suốt của bạc và của giấy trang kim.

Con người không thể nào đành lòng khi biết rằng cái đẹp đó, những đêm kiều diễm đó nhất định sẽ mất đi. Chắc chính vì thế mà những đêm trắng với kiếp sống mỏng manh của chúng bao giờ cũng gợi một nỗi buồn nhè nhẹ, giống như tất cả những gì đẹp khi chúng không được sống lâu ngày.

Lần đầu tiên tôi lên phương Bắc, nhưng mọi vật đối với tôi dường như quen thuộc, nhất là những vồng anh đào trắng úa tàn vào cái mùa xuân đến chậm năm ấy trong những khu vườn đã trở thành hoang vu.

Có rất nhiều hoa anh đào lặng lẽ và nức hương ở Vôznhêxênhiê. Ở đây không có ai hái hoa để đặt trên bàn, trong những bình thủy tinh. Có lẽ vì anh đào đã bắt đầu lụi.

Tôi đến Pêtơrôzavôtxkơ. Hồi đó Alếchxây Mácximôvich Gorki định xuất bản một loại sách dưới nhan đề “lịch sử của các xưởng chế tạo và các nhà máy”. Ông kéo nhiều nhà văn vào làm việc này và hơn nữa ông còn quyết định để họ làm theo từng đội. Lúc đó danh từ “đội” mới xuất hiện trong văn học.

Gorki đưa ra một vài nhà máy cho tôi chọn. Tôi chọn nhà máy cổ Pêtơrốpxki trong tỉnh Pêtơrôzavôtxkơ. Nó được hoàng đế Piốt Đệ Nhất sáng lập, lúc đầu là một nhà máy đúc súng thần công và neo tàu, sau đó đúc đồng và sau cách mạng chuyển thành nhà máy làm xe cộ.

Tôi từ chối cách viết văn theo đội. Lúc đó tôi tin chắc (và bây giờ cũng vậy) rằng có những lĩnh vực hoạt động của con người, trong đó lối làm việc tập thể không thể nào chấp nhận được nhất là trong việc viết văn. Khá lắm thì cũng chỉ có thể làm được một tập kí các loại, nhưng không thể nào có được một tác phẩm hẳn hoi. Theo tôi, trong một tác phẩm, bất kể đặc tính của tài liệu là thế nào, vẫn cứ phải có cá tính của nhà văn với tất cả những phẩm chất của sự cảm thụ hiện thực, cái bút pháp và ngôn ngữ của anh ta.

Tôi cho rằng cũng như không thể nào có hai hay ba người cùng chơi đồng thời một cây vĩ cầm, thì cũng không thể nào viết tập thể một tác phẩm.

Tôi nói chuyện đó với Gorki. Ông cau mày, theo thói quen lấy ngón tay gõ gõ trên mặt bàn, nghĩ ngợi một lát rồi trả lời:

- Anh bạn trẻ ạ, người ta có thể buộc tội anh là ngạo mạn đấy. Nhưng nói chung, anh cứ làm đi. Có điều anh đừng ngượng. Thể nào cũng phải mang tác phẩm về nhé! Nhất định đấy!

Tôi nhớ đến cuộc nói chuyện ấy trên tàu thủy và tin chắc rằng, thế nào tôi cũng viết xong cuốn sách. Tôi rất thích phương Bắc. Điều đó, theo tôi tưởng lúc đó thế nào cũng giúp tôi làm việc dễ dàng. Tất nhiên, tôi hy vọng sẽ lôi vào cuốn sách nói về nhà máy Pêtơrốtxki những đặc điểm của phương Bắc đã làm tôi say mê: những đêm trắng, những dòng nước lặng lẽ, hoa anh đào, ngữ điệu du dương của nhân dân thành Nôvôgôrốt, những con thuyền độc mộc màu đen mũi cong, trông giống như cổ những con thiên nga, những chiếc đòn gánh vẽ bằng sơn đủ thứ hình cây cỏ mọi màu sắc.

Thành phố Pêtơrôzavôtxkơ lúc đó thật hoang vắng. Những tảng đá lớn đầy rêu ngổn ngang trên đường phố. Cả thành phố như làm bằng mica. Chắc đó là do cái ánh lấp lánh màu trắng từ hồ chiếu vào và do màu da trời trắng như sữa, hơi đục, nhưng đáng yêu, tỏa xuống.

Tôi ngồi lì trong những kho lưu trữ và trong thư viện Pêtơrôzavôtxkơ, bắt đầu đọc tất cả những gì có liên quan đến nhà máy Pêtơrốpxki. Lịch sử của nhà máy thật phức tạp và thú vị. Hoàng đế Piôt Đệ Nhất, những kĩ sư Xcôtlen, những người nông nô thợ cả tài năng của nước Nga, phương pháp nấu đồng Carông, những cỗ máy chạy bằng sức nước, phong tục - tất cả những cái đó cho tôi tài liệu tốt để viết truyện.

Đọc xong, tôi bỏ mấy ngày đi thác Kivátsơ và đến làng Kigi, ở đó có ngôi nhà thờ gỗ duy nhất trên thế giới, xét về vẻ đẹp của kiến trúc.

Thác Kivátsơ gầm thét và lôi theo những khúc gỗ thông dựng ngược trong dòng nước trong suốt như thủy tinh và dồn dập của nó.

Tôi nhìn thấy nhà thờ Kigi lúc hoàng hôn. Tưởng chừng như muốn dựng nên công trình này cần phải có những bàn tay thợ bạc và mất hàng thế kỉ. Thế mà chính là những bác thợ mộc bình thường của chúng ta đã dựng nên nó trong một thời hạn hết sức bình thường.

Trong chuyến đi đó tôi gặp nhiều hồ, nhiều rừng, nhiều mặt trời nhưng không nóng bỏng và nhiều chân trời không rõ nét, nhưng lại gặp ít người.

Ở Pêtơrôzavôtxkơ việc đầu tiên của tôi là viết cái sườn cho cuốn truyện tương lai. Trong cái sườn đó có nhiều chuyện, nhiều đoạn tả, nhưng ít người.

Tôi quyết định viết ngay cuốn sách ở đấy, ở Karêlia, và vì thế tôi thuê một căn phòng trong nhà bà Xêraphima lônốpna, trước kia làm nghề dạy học. Đó là một bà lão đã bình dân hóa hoàn toàn không còn một chút gì giống một nhà giáo, trừ cặp kính và sự biết tiếng Pháp.

Tôi bắt đầu viết theo cái sườn trên, nhưng dù đã cố gắng hết sức, cuốn sách vẫn cứ vụn ra dưới tay tôi. Tôi không sao gắn kết được tài liệu, làm cho chúng hòa nhịp với nhau, thành một dòng trôi chảy tự nhiên.

Tài liệu cứ rã ra. Những đoạn thú vị cứ treo lơ lửng, không được những đoạn thú vị khác ở bên cạnh nâng đỡ. Chúng lủng lẳng một cách cô độc, không sao gắn được với một cái duy nhất có thể hà sức sống cho những sự kiện nằm trong tài liệu lưu trữ: cái duy nhất đó là chi tiết đầy hình ảnh đẹp, không khí của thời đại, số phận của con người gần gũi với tôi.

Tôi viết về những cái máy chạy bằng sức nước, về sản xuất, về những người thợ lành nghề, viết với một nỗi buồn sâu sắc, hiểu rằng trong khi tôi chưa có được mối quan hệ với tất cả những cái đó, trong khi hơi thở trữ tình dù hết sức yếu ớt chưa làm cho tài liệu đó sống dậy, thì không thể đạt được gì trong cuốn sách. Và nói chung sẽ chẳng có cuốn sách nào hết.

Nhân thể tôi cũng muốn nói rằng hồi đó tôi đã hiểu rằng muốn viết về những cái máy cũng cần phải viết như viết về những con người - phải cảm được chúng, yêu chúng, chia buồn sẻ ngọt với chúng. Không biết người khác thế nào chứ tôi bao giờ cũng thấy đau thật sự cho cái ô tô, chẳng hạn như chiếc xe “Pobieđa” khi nó lấy hết gân sức vượt một cái dốc dựng đứng. Thật vậy, cái đó làm cho tôi mệt chẳng kém gì chiếc xe. Có thể thí dụ ấy không đạt, nhưng tôi tin chắc rằng đối với những cái máy, nếu như ta muốn viết về chúng, thì phải coi chúng như những vật sống. Tôi nhận thấy những người thợ cả và những người thợ lành nghề đối với máy móc đều có thái độ như thế cả.

Không có gì đáng ghét hơn là sự bất lực trước tài liệu.

Tôi cảm thấy như mình đang đi làm việc của người khác, như thể tôi phải múa balê hoặc sửa triết học của Kăng(1) .

Trong trí nhớ thỉnh thoảng nhoi nhói lời của Gorki: “Có điều anh đừng ngượng. Thể nào cũng phải mang tác phẩm về!”

Tôi còn bực dọc vì một trong những điều cơ bản của nghệ thuật viết văn mà tôi coi trọng đã sụp đổ. Tôi cho rằng chỉ có

______________________________

1. Kant, nhà triết học duy tâm Đức (1721-1804)

người nào có thể dễ dàng và không để mất cá tính của mình, làm chủ được hết thảy mọi tài liệu, người đó mới là nhà văn.

Cái trạng thái tâm hồn ấy của tôi chấm dứt bằng việc tôi quyết định hàng phục, không viết gì nữa và rời bỏ Pêtơrôzavôtxkơ.

Tôi chẳng có ai để chia sẻ nỗi khốn khổ của tôi, ngoài bà Xêraphima lônốpna. Tôi đã sắp sửa kể cho bà nghe cái thất bại của tôi, nhưng té ra bà lão đã nhận thấy trước điều đó, chắc là theo thói quen của nhà giáo ngày trước.

- Ông chẳng khác gì những cô nữ sinh ngốc nghếch của tôi trước kì thi - bà bảo tôi. - Họ nhồi nhét đủ thứ vào đầu đến nỗi chẳng nhìn thấy gì nữa và chẳng hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì không đáng kể. Ông chẳng qua chỉ quá mệt đấy thôi. Tôi không biết việc làm văn của ông nó ra làm sao, nhưng tôi nghĩ rằng trong chuyện này có bức bách lắm cũng vô ích. Chỉ tổ làm cho thần kinh thêm căng thẳng. Mà cái đó vừa có hại lại vừa nguy hiểm. Ông đừng nóng đầu mà bỏ đi. Hãy nghỉ ngơi. Đi xem các hồ, dạo trong thành phố. Thành phố của chúng tôi rất đẹp, rất giản dị. Có khi rồi ông lại làm được việc cũng nên.

Nhưng rồi tôi cứ quyết ý ra đi. Trước ngày lên đường, tôi lang thang trong thành phố Pêtơrôzavôtxkơ. Hầu như tôi chưa đi thăm thành phố, cho mãi đến khi ấy.

Tôi đi dọc một con hồ lên phía Bắc và ra ngoại ô. Những ngôi nhà nhỏ đến đấy là hết. Những khu vườn chạy dài nối tiếp nhau. Giữa những khu vườn ấy đây đó có những cây thập ác và những tấm bia mộ.

Một ông lão đang làm cỏ cho những luống cà rốt. Tôi hỏi ông lão về những cây thập ác nọ.

- Đây trước kia là nghĩa địa - ông lão trả lời.- Đâu như người ta chôn những người ngoại quốc ở đây thì phải. Bây giờ khu đất này vỡ làm vườn, bia mộ mang đi cả. Cái nào còn lại thì cũng chẳng còn lâu đâu. Đến mùa xuân tới là cùng.

Đúng như vậy, bia còn lại rất ít, tất cả chừng năm sáu cái. Một trong những tấm bia đó được bao bọc bởi một hàng rào bằng gang đúc rất khéo và nặng nề.

Tôi lại gần tấm bia đó. Trên cột đá hoa cương đã vỡ còn trông rõ hàng mộ chí viết bằng tiếng Pháp. Một cây ngưu bàng cao che lấp gần hết chữ.

Tôi bẻ cây ngưu bàng đi và đọc:

“Sáclơ Ơgiêni Lôngxêvin, kỹ sư pháo binh của Đại quân Hoàng đế Napôlêông. Sinh năm 1778 tại Pécpinhăng, tạ thế nơi đất khách quê người mùa hạ năm 1816 tại Pêtơrôzavôtxkơ. Cầu Chúa cho trái tim đau khổ của ông được bình an”.

Tôi chợt hiểu rằng trước mặt tôi là nấm mộ của một con người khác thường, con người có một số phận bạc bẽo, rằng chính người đó sẽ gỡ bí cho tôi.

Tôi quay về nhà, nói để bà Xêraphima Iônốpna biết tôi ở lại và đi ngay ra kho lưu trữ.

Người làm việc ở đó là một ông già đeo kính, gầy rạc, đến nỗi tưởng chừng cái gầy làm cho hình hài ông ta trở thành trong suốt. Trước kia ông là một ông giáo dạy toán. Kho lưu trữ chưa được sắp xếp xong, nhưng ông lão bé nhỏ nọ nắm nó rất vững.

Tôi kể chuyện qua cho ông nghe. Ông lão hết sức bối rối. Ông đã quen cung cấp những tài liệu tra cứu đáng ngán, phần lớn là những trích yếu rút ra từ trong những sổ sinh, tử, giá thú của nhà thờ mà việc đó cũng chỉ họa hoằn mới có, ấy thế mà bây giờ lại phải làm một việc khó khăn và thú vị là tìm trong kho lưu trữ tất cả những gì có liên quan đến viên sĩ quan bí ẩn thời Napôlêông, người không hiểu vì sao đã chết ở Pêtơrôzavôtxkơ hơn một trăm năm về trước.

Cả ông già, cả tôi - hai người đều lo lắng. Không hiểu rồi có tìm ra trong kho lưu trữ này dù chỉ là một số dấu vết nào đó của Lôngxêvin, để có thể căn cứ vào đó mà đại khái ít nhiều khôi phục lại cuộc sống của ông ta hay không? Hay là chúng tôi chẳng tìm thấy gì hết?

Thế rồi bất thình lình ông lão tuyên bố rằng ông sẽ không về ngủ nhà và sẽ lục suốt đêm trong kho. Tôi muốn ở lại với ông nhưng hóa ra người ngoài không được phép ở lại trong đó. Tôi bèn đi ra phố mua bánh mì, xúc xích, chè và đường, mang tất cả những thứ đó lại cho ông để ông có thể uống trà đêm, và ra về.

Việc tìm kiếm kéo dài chín ngày trời. Cứ mỗi buổi sáng ông lão lại đưa cho tôi một bản kê các hồ sơ mà ông dự đoán là trong đó có thể có những chuyện nhắc tới Lôngxêvin. Bên cạnh những hồ sơ đáng chú ý ông ghi dấu “V” nhưng lại gọi chúng theo lối toán học là “dấu căn”.

Mãi đến ngày thứ bảy mới tìm được đoạn ghi trong một cuốn sổ nghĩa trang về việc mai táng viên đại uý quân đội Pháp bị bắt làm tù binh Sáclơ Ơgiêni Lôngxêvin trong một hoàn cảnh khá đặc biệt.

Đến ngày thứ chín thì tìm ra một số chỉ dẫn về Lôngxêvin trong hai bức thư riêng, còn đến ngày thứ mười thì tìm được thêm một bản báo cáo đã rách, không còn chữ kí, của tỉnh trưởng Ôlônhiegiơ về việc trú ngụ ngắn hạn tại thành phố Pêtơrôzavôtxkơ của vợ “Lôngxêvin nói trên là Mari Xêvin Tơrinitê từ Pháp đến để dựng bia Lôngxêvin”

Tài liệu chỉ có được đến thế. Nhưng những gì ông lão coi kho lưu trữ hớn hở vì thắng lợi đã tìm ra cũng đã đủ cho Lôngxêvin sống dậy trong trí tưởng tượng của tôi.

Lôngxêvin vừa mới hiện ra là tôi đã ngồi ngay xuống trước bàn viết và tất cả những tài liệu lịch sử nhà máy mới đây còn vụn tan ra, bỗng chốc đã nhập vào trong cuốn sách. Chúng nhập vào một cách chặt chẽ và quy củ, đâu ra đó, chung quanh cái anh chàng pháo binh nọ, người đã tham gia cuộc cách mạng Pháp, bị lính côdắc bắt làm tù binh ở mặt trận Giơgiát, bị lưu đày tới nhà máy Pêtơrôzavôtxkơ và đã chết vì sốt nóng ở đó.

Việc viết cuốn truyện dài “Số phận của Sáclơ Lôngxêvin” là như vậy.

Khi con người chưa xuất hiện thì tài liệu vẫn là tài liệu chết.

Hơn nữa, tất cả cái sườn đã dựng sẵn cho cuốn sách cũng tan thành tro bụi. Giờ đây cả câu chuyện đã được Lôngxêvin dẫn dắt một cách vững vàng. Ông như một tảng nam châm hút vào mình không riêng những sự kiện lịch sử, mà còn nhiều cái khác nữa trong tất cả những gì tôi gặp ở phương Bắc.

Trong cuốn truyện dài đó có đoạn khóc người chết. Lời khóc Lôngxêvin của những người đàn bà tôi lấy ra từ những câu than khóc có thật. Chuyện này cũng đáng nhắc đến.

Tôi đi tàu thủy ngược dòng Xvirixa, từ hồ Lađôga đến Ônhêga. Ở một khúc sông nào đó, hình như ở Xvirixa, người ta mang từ bến lên boong dưới của con tàu một chiếc quan tài đơn sơ bằng gỗ thông.

Về sau tôi mới biết là ở Xvirixa có một hoa tiêu cao tuổi nhất và giàu kinh nghiệm nhất vừa mới qua đời. Những hoa tiêu, bạn ông ta, quyết định chở quan tài mang di hài ông đi suốt dòng sông Xvirixa đến Vôznhêxênhiê như muốn cho người chết có thể từ biệt dòng sông thân yêu của mình. Và ngoài ra họ còn có ý để cho dân hai bên bờ sông được chia tay cùng người mà họ rất kính trọng, người nổi tiếng khắp vùng này.

Vấn đề là ở chỗ Xvirixa là một con sông chảy xiết và có ghềnh thác. Tàu bè không có hoa tiêu giàu kinh nghiệm không thể nào vượt qua những ghềnh sông Xvirixa. Vì thế trên dòng sông này từ xưa đã có một thế hệ hoa tiêu, liên kết chặt chẽ với nhau.

Khi qua những ghềnh lớn, tàu của chúng tôi phải để hai tàu kéo dắt, mặc dầu nó đã mở hết tốc lực.

Lúc xuôi dòng, tàu bè lại đi ngược. Cả tàu thủy lẫn tàu dắt cùng mở máy chạy giật lùi ngược dòng nước để giảm tốc độ trôi và khỏi lao vào những ghềnh đá.

Người ta đã gửi điện báo đi khắp thượng lưu sông Xvirixa cho mọi người biết rằng tàu chúng tôi có chở thi hài viên hoa tiêu. Vì thế ở bến nào cũng có hàng đoàn người ra đón. Những bà lão khóc mướn quấn khăn đen đứng đằng trước. Khi tàu vừa đến bến thì họ cũng vừa cất giọng cao và mệt mỏi khóc người quá cố.

Những lời than khóc nên thơ ấy không bao giờ lặp lại. Theo tôi, mỗi lần khóc là mỗi lần họ xuất khẩu thành chương.

Đây là một trong những bài khóc:

“Bởi sao mà người nỡ bỏ chúng tôi về nơi cõi chết? Bởi sao mà người nỡ bỏ chúng tôi, lũ trẻ mồ côi? Phải chăng chúng tôi đã không đón người bằng giọng vui mừng, bằng lời âu yếm? Hãy nhìn sông Xvirixa người đi, hãy nhìn dòng Xvirixa lần chót. Bờ lở như máu đông, dòng sông toàn nước mắt chúng tôi lũ đàn bà con gái. Hỡi ôi! Vì sao cái chết kia lại đến với người không đúng lúc? Hỡi ôi, vì sao suốt dòng Xvirixa này lại bùng bùng những ngọn nến tang?”

Cứ như thế chúng tôi đi đến Vôznhêxênhiê trong tiếng khóc than suốt đêm không dứt.

Đến Vôznhêxênhiê những người hoa tiêu khắc khổ bước xuống tàu và mở tấm ván thiên. Một ông lão lực lưỡng, đầu bạc phơ với bộ mặt xạm nắng gió nằm trong quan tài.

Người ta khiêng quan tài bằng những tấm khăn gai đưa lên bờ trong tiếng khóc lanh lảnh. Một thiếu phụ trẻ lấy khăn san che gương mặt tái nhợt theo sau quan tài. Thiếu phụ dắt một đứa bé tóc vàng. Theo sau thiếu phụ vài bước là một người đàn ông đứng tuổi trong trang phục thuyền trưởng đường sông. Đó là con gái, cháu ngoại và rể của người đã khuất.

Trên tàu, cờ hạ xuống lưng chừng và còi kéo mấy hồi dài, khi người ta đưa quan tài ra nghĩa trang.

Còn có một ấn tượng không thể không dùng trong cuốn truyện dài. Không có chút gì đặc biệt trong ấn tượng đó nhưng không hiểu sao nó gắn bó chặt chẽ mãi mãi với phương Bắc trong trí nhớ của tôi. Đó là ánh lấp lánh khác thường của sao Mai.

Tôi chưa từng được trông thấy một thứ ánh lấp lánh mạnh mẽ và trong sạch như thế bao giờ. Sao Mai lóng lánh như một hạt kim cương giữa bầu trời đang xanh dần trước rạng đông.

Đó thực là sứ giả của vũ trụ, người báo tin bình minh rực rỡ. Không hiểu vì sao mà ở những vĩ độ trung bình và ở cả phương Nam nữa, tôi đã không để ý đến nó. Còn ở đây, sao Mai lấp lánh trong cái đẹp trinh tiết bên trên những vùng hoang vắng, trên những khu rừng, trong những giờ trước lúc rạng đông, nó ngự trị trên khắp đất đai phương Bắc, trên hồ Ônhiêga và Zavôlôtsiê, trên hồ Lađôga và vùng Zaônhiegiơ.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86786


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận