Tàu thủy đến Navôlôki vào nửa đêm. Thiếu tá Kuzmin bước ra boong. Trời mưa phùn. Bến vắng tanh chỉ có một cây đèn lồng leo lét.
“Đâu, tỉnh ở đâu? - Kuzmin nghĩ - Trời tối, mưa rơi... thật chẳng ra làm sao hết!”
Chàng co rúm người, cài lại cúc áo choàng da. Từ mặt sông, gió lạnh thổi vào. Kuzmin tìm thuyền phó, hỏi xem tàu có đỗ lâu ở Navôlôki không.
- Khoảng ba tiếng - Thuyền phó trả lời - Còn tùy việc dỡ hàng. Đồng chí hỏi làm gì? Đồng chí còn đi tiếp kia mà.
- Tôi phải chuyển hộ anh bạn cùng nằm quân y viện một bức thư cho vợ anh ấy. Chị ấy ở đây, ở tỉnh này.
*
* *
Chiếc xe đi lên đê. Trời càng tối hơn. Trên những cây bạch liễu cổ thụ mưa ngái ngủ từ những chiếc lá lao xao rơi xuống. Vó ngựa đập trên cầu lát ván.
“Xa thực”! Kuzmin thở dài và nói với ông lão đánh xe:
- Bác đợi tôi ở bên cạnh nhà nhé! Rồi đưa tôi trở lại bến...
- Được thôi - Ông lão bằng lòng ngay tức khắc và nghĩ: “Không, thế thì không phải chồng rồi. Chồng thì thế nào cũng ở lại vài ba ngày chứ. Chắc người ngoài. ”
Bắt đầu đến một con đường đá cuội. Chiếc xe lúc lắc, cái bệ bằng sắt kêu lạch cạch. Ông lão cho xe quặt sang vệ đường. Bánh xe êm ả lăn trên cát ẩm. Kuzmin lại suy nghĩ.
Basilốp bảo ghen với chàng. Tất nhiên, anh ta chẳng ghen gì hết. Chẳng qua anh ta đã dùng không đúng từ mà anh ta muốn nói. Sau cuộc nói chuyện với Basilốp bên cửa sổ bệnh viện, Kuzmin, ngược lại, bắt đầu thấy ghen với Basilốp. “Lại không đúng từ rồi sao?”. Kuzmin bực bội tự nhủ. Chàng không ghen. Chàng chỉ tiếc. Chàng tiếc rằng chàng đã bốn mươi, nhưng lại không có được một tình yêu như Basilốp. Lúc nào chàng cũng chỉ có một mình.
“Đêm, mưa rơi xào xạc trên những khu vườn hoang vắng, tỉnh lạ, sương mù từ những cánh đồng cỏ bay qua và thế là cả cuộc đời cũng qua nốt. ” Không hiểu sao Kuzmin lại nghĩ như thế.
Chàng lại thấy muốn ở lại đây. Chàng yêu những tỉnh lỵ Nga, nơi đứng ở thềm nhà cũng có thể nhìn thấy những cánh đồng cỏ bên kia sông, những con đường rộng bò lên núi, những chiếc xe chở rơm trên những chuyến phà. Tình yêu ấy làm cho chính chàng cũng phải ngạc nhiên. Chàng sinh trưởng ở phương Nam trong một gia đình miền biển. Cha chàng để lại cho chàng tính ham thích tìm tòi, những bản đồ địa lý và cuộc sống lang thang. Vì thế chàng đã trở thành nhân viên họa đồ. Kuzmin đã coi việc chọn nghề là ngẫu nhiên. Chàng nghĩ, nếu sinh ra vào lúc khác, có khi mình đã là thợ săn hoặc người đi tìm đất mới. Chàng thích nghĩ về mình như thế, nhưng chàng đã nhầm. Tính tình chàng không có gì giống những người kia. Kuzmin nhút nhát và hiền lành đối với xung quanh. Những sợi tóc phơn phớt bạc tố cáo tuổi chàng. Nhưng nếu nhìn người sĩ quan tầm thước, gầy gò không ai dám đoán chàng quá ba mươi.
Chiếc xe ngựa cuối cùng rồi cũng đi vào tỉnh lỵ tăm tối. Chỉ có một ngọn đèn xanh cháy sáng sau cửa kính một ngôi nhà, chừng là hiệu thuốc. Đường phố dẫn lên núi. Người đánh xe bỏ chỗ ngồi, bước xuống cho xe nhẹ thêm. Kuzmin cũng xuống theo, chàng đi tụt lại sau xe một quãng và bất thần chàng cảm thấy cả cái kỳ quặc của đời mình. “Ta đang ở đâu đây? - chàng nghĩ - Cái tỉnh lị Navôlôki nào đó, một nơi xa vắng, móng ngựa làm bật ra những tia sáng. Ở đâu đây có một thiếu phụ mà ta chưa biết. Ta phải chuyển cho nàng giữa đêm hôm khuya khoắt thế này một bức thư quan trọng và chắc không phải là một bức thư vui. Hai tháng trước đang còn là ở mặt trận, nước Ba Lan, con sông Vixoa(1) êm đềm và rộng. Thực kỳ quặc! Và cũng thực là thú vị!
Xe đã đi qua đồi. Ông lão rẽ ngang vào một phố. Những đám mây đen có chỗ đã tản ra và trong cái đen tối trên đầu, đây đó lấp lánh một vì sao. Ngôi sao vụt ánh lên trong những vũng nước rồi lại tắt ngấm.
Xe dừng lại bên một ngôi nhà có chòi ở giữa.
- Đến rồi! - Ông lão đánh xe nói - Chuông ở cổng phía bên phải.
______________________________
1. Sông Vixia (Ba Lan) theo phiên âm tiếng Nga, ở đây người dịch phiên âm theo tiếng Ba Lan.
Kuzmin sờ soạng tìm thấy nắm chuông gỗ và kéo xuống nhưng chàng không nghe thấy chuông kêu, chỉ có tiếng rin rít của sợi dây thép rỉ.
- Ông cứ giật mạnh vào!
Ông lão đánh xe khuyên.
Kuzmin lại giật mạnh dây chuông. Ở sân trong sau nhà, quả chuông con lúc lắc. Nhưng trong nhà vẫn yên lặng như trước, chắc chưa ai thức dậy.
- Ô... ô... ô... ! - Ông lão ngáp - Đêm mưa thế này người ta ngủ say bằng chết.
Kuzmin đợi một lát rồi giật mạnh hơn. Ở phòng áo lát gỗ có tiếng chân vẳng ra. Có người nào đến bên cửa sổ, dừng lại nghe ngóng rồi bực dọc hỏi:
- Ai vậy? Muốn gì?
Kuzmin định trả lời, nhưng ông lão đã nói trước.
- Mở cửa ra, Mácfa. - Ông lão nói - Có người ở mặt trận về gặp chị Onga.
- Ai ở mặt trận về? - Giọng nói sau cửa vẫn chẳng dịu dàng hơn trước chút nào - Chúng tôi chẳng đợi ai cả.
- Không đợi, thế mà lại gặp đấy!
Cánh cửa hé mở. Trong bóng tối Kuzmin nói chàng là ai và vì sao chàng tới.
- Trời! - Người đàn bà đứng sau cửa sợ hãi kêu lên - Ông rõ vất vả! Tôi mở cửa ngay bây giờ. Chị Onga đang ngủ. Mời ông vào, tôi sẽ đánh thức chị ấy dậy.
Cửa mở, Kuzmin bước vào phòng áo tối mò.
- Ở đây có bậc. - Người đàn bà dặn, giọng nói đổi hẳn, dịu dàng - Đêm hôm thế này mà ông cất công đến! Ông đợi cho một chút kẻo vấp. Tôi châm đèn ngay bây giờ, ở đây đêm mất điện.
Bà ta đi. Còn Kuzmin ở lại trong phòng áo. Từ các phòng bay ra mùi trà và một mùi gì nữa, êm dịu. Một con mèo bước ra, cọ mình vào chân Kuzmin, nó kêu gừ gừ rồi trở vào trong các phòng tối như muốn mời Kuzmin đi theo mình.
Đằng sau cánh cửa hé mở hắt ra một ánh sáng run rẩy yếu ớt.
- Mời ông.
Người đàn bà nói.
Kuzmin bước vào. Người đàn bà cúi chào chàng. Đó là một bà lão tầm vóc cao mặt hơi đen. Kuzmin cố giữ cho khỏi gây ra tiếng động, chàng cởi áo, mũ và treo lên mắc gần cửa.
- Ông đừng ngại, đàng nào cũng phải đánh thức chị ấy.
Bà lão mỉm cười.
Kuzmin khe khẽ hỏi:
- Ở đây có nghe rõ còi tàu ngoài bến không cụ?
- Nghe rõ, ông ạ! Rõ lắm! Cứ như tàu nọ nghe tàu kia thôi! Ông ngồi xuống đivăng cái đã.
Bà lão ra. Kuzmin ngồi xuống chiếc đivăng tựa gỗ. Chàng do dự khi móc túi lấy thuốc hút. Chàng bối rối và nỗi bối rối khó hiểu ấy làm chàng tức giận. Cái cảm giác bao giờ cũng có khi ta ban đêm vào nhà người, bước vào một cuộc sống không phải là của ta, đầy bí mật và những điều khó hiểu, xâm chiếm tâm hồn chàng. Cuộc sống ấy giống như một cuốn sách bỏ quên trên bàn ở trang sáu mươi lăm nào đó. Kuzmin nhìn vào trang giấy ấy và cố đoán xem cuốn sách nói về chuyện gì, có gì bên trong?
Ở trên bàn có một cuốn sách ngỏ thực. Kuzmin đứng dậy cúi xuống và vừa lắng nghe tiếng thì thào vội vã bên kia cánh cửa và tiếng áo dài phụ nữ sột soạt, vừa đọc thầm những dòng chữ chàng quên bẵng từ lâu:
Cái không thể đã thành có thể
Con đường dài hóa dễ với ta
Nhọc nhằn chi mấy cũng qua
Cuối đường tìm kiếm khi ta thấy nàng.
Kuzmin ngẩng đầu lên, nhìn quanh. Căn phòng thấp và ấm áp một lần nữa lại làm chàng muốn ở lại tỉnh lỵ này.
Căn phòng với ngọn đèn treo trên bàn ăn, chụp đèn trắng đục, đôi sừng thuần lộc trên bức tranh vẽ con chó bên giường bệnh một em bé gái, có một thứ ấm cúng đặc biệt vô tư. Những căn phòng như thế bao giờ cũng làm ta phải mỉm cười bởi mọi vật ở đó đều cổ lỗ, từ lâu ta đã lãng quên.
Mọi vật chung quanh, đến cả cái gạt tàn bằng vỏ ốc màu hồng chứng tỏ một cuộc sống dài và bình thản làm cho Kuzmin lại nghĩ rằng giá chàng được ở lại đây và sống như những người chủ ngôi nhà cũ kỹ này đã sống một cuộc sống không vội vã, làm rồi nghỉ ngơi, xuân rồi lại đông và những ngày nắng ngày mưa xen kẽ.
Nhưng bên cạnh các vật cũ kỹ, trong phòng còn có những cái khác. Trên bàn cắm một bó hoa đồng nội: hoa cúc, hoa phế hình, hoa thanh lương trà dại. Hoa chắc vừa mới hái. Chiếc kéo và những cành hoa bị cắt bỏ nằm trên khăn bàn.
Và bên cạnh là tập thơ “Con đường dài hóa dễ với ta” để ngỏ của Blôck. Chiếc mũ phụ nữ nhỏ nhắn màu đen đặt trên cuốn sách bìa nhung lam đặt trên mặt đàn dương cầm. Cái mũ hoàn toàn không cổ chút nào, rất hợp thời trang. Một chiếc đồng hồ con, dây mạ kền vứt cẩu thả trên bàn. Đồng hồ chạy rất êm, kim đồng hồ chỉ một giờ rưỡi... Mùi nước hoa bao giờ cũng phảng phất buồn, nhất là trong đêm hôm khuya khoắt như đêm nay.
Một cánh cửa kính để mở. Bên ngoài cánh cửa, đằng sau những chậu thu hải đường, một bụi tử đinh hương ướt nước mưa lấp lánh dưới ánh sáng yếu ớt từ trong phòng lọt qua cửa kính. Mưa bụi thì thào trong bóng tối. Những giọt nước nặng hối hả đập vào lòng máng.
Kuzmin lắng nghe tiếng nước rơi. Ý nghĩ về sự qua đi không thể nào lấy lại mỗi khoảnh khắc nhỏ nhất của thời gian, cái ý nghĩ dằn vặt con người thế kỷ này qua thế kỷ khác, đã đến với chàng chính lúc này, ban đêm trong ngôi nhà xa lạ, từ ngôi nhà ấy, mấy phút nữa thôi, chàng sẽ ra đi và không bao giờ trở lại.
“Cũng là tại tuổi già mà mình nghĩ thế hay sao?”
Kuzmin nghĩ và quay lại.
Một thiếu phụ vận đồ đen đứng ở ngưỡng cửa. Thiếu phụ hẳn vì vội ra tiếp chàng nên chưa chải đầu cẩn thận. Một bím tóc rơi trên vai, và thiếu phụ, mắt vẫn không rời Kuzmin bối rối mỉm cười, nâng nó lên, lấy trâm cài vào tóc ở gáy. Kuzmin nghiêng mình chào thiếu phụ. Nàng đưa tay cho chàng và nói:
- Xin lỗi anh. Tôi đã làm anh phải đợi.
- Chị là Onga Anđrêepna?
- Vâng.
Kuzmin nhìn thiếu phụ. Dáng trẻ trung và đôi mắt long lanh, sâu và hơi mờ của thiếu phụ làm chàng sửng sốt.
Kuzmin xin lỗi vì đã làm phiền nàng rồi móc trong túi áo, lấy bức thư của Basilốp ra đưa cho thiếu phụ. Thiếu phụ cầm lấy, cảm ơn chàng và đặt bức thư lên mặt đàn dương cầm, không đọc.
- Kìa, chúng ta cứ đứng mãi! - Nàng nói - Mời anh ngồi! Anh ngồi gần bàn đây này. Ở đây sáng hơn.
Kuzmin ngồi xuống bên bàn và xin phép được hút thuốc.
- Anh cứ tự nhiên - Nàng nói - Tôi cũng xin được hút một điếu.
Kuzmin mời nàng một điếu và đánh diêm. Khi thiếu phụ châm lửa, ánh diêm hắt lên mặt nàng và chàng thấy khuôn mặt trầm tư và vầng trán thanh sạch của nàng có vẻ quen quen đối với chàng.
Onga ngồi xuống, đối diện với Kuzmin. Chàng chờ đợi những câu hỏi, nhưng nàng chỉ im lặng và nhìn ra cửa sổ, nơi mưa vẫn đều đều xào xạc.
- Mácfa! - Onga nói và quay về phía cửa - Bà đặt giúp tôi ấm chè.
- Không, không! - Kuzmin hốt hoảng - Tôi phải đi ngay bây giờ. Người đánh xe còn đợi ngoài phố. Tôi chỉ định chuyển bức thư cho chị và nói với chị ít tin tức về... anh ấy.
- Có gì đáng nói đâu! - Onga trả lời, rút trong bó hoa ra một bông hoa cúc và tàn nhẫn vặt từng cánh - Anh ấy còn sống thế là tôi mừng.
Kuzmin im lặng.
- Anh đừng đi vội. - Onga nói, bình dị như nói với một người bạn cũ. - Ở đây nghe rõ còi tàu. Chắc chắn tàu thủy chỉ chạy được trước khi trời sáng.
- Sao vậy?
Bà Mácfa từ bên buồng chõ sang:
- Tại ở vùng này, phía dưới Navôlôki có một con bơn lớn dưới lòng sông. Đêm hôm đi qua đấy nguy hiểm lắm. Vì thế các thuyền trưởng cứ phải đợi đến trời sáng.
- Đúng như vậy - Onga xác nhận - Từ đây ra bến đi bộ chỉ hết mười lăm phút, nếu đi qua vườn hoa. Tôi sẽ tiễn anh. Còn bác đánh xe thì anh cho về thôi. Ai chờ anh? Có phải bác Vaxili không?
- Cái đó thì tôi lại không biết.
Kuzmin mỉm cười.
- Timôfây chở ông ấy tới đấy! - Bà lão từ cửa phòng bên báo sang. Nghe rõ cả tiếng bà lão lắp ống khói cho ấm xamôva kêu loảng xoảng - ít nhất ông cũng phải uống trà đã. Chưa chi vừa mới ở ngoài mưa vào đã lại định đi ra mưa...
Kuzmin nhận lời. Chàng ra cửa trả tiền xe. Ông lão chưa đi vội, còn loay hoay bên con ngựa, chữa lại thắt đai.
Khi chàng trở vào thì bàn đã dọn xong. Những chiếc chén cũ màu xanh tô chỉ vàng, một bình sữa hâm nóng mật ong và một chai rượu vang mới mở. Bà Mácfa mang ấm xamôva vào.
Onga xin lỗi vì tiếp khách quá đạm bạc. Nàng nói đã chuẩn bị trở lại Matxcơva, nhưng hiện giờ vẫn còn tạm làm việc ở Navôlôki, tại thư viện tỉnh, Kuzmin đợi mãi xem rồi nàng có hỏi gì đến Basilốp không, nhưng nàng không hỏi. Vì thế chàng mỗi lúc một bối rối thêm. Từ khi còn nằm trong quân y viện chàng đã đoán giữa vợ chồng Basilốp có chuyện lủng củng. Nhưng lúc này, sau khi thấy Onga không đọc mà lại đặt thư lên trên mặt bàn thì chàng hoàn toàn tin mình đã đoán đúng. Và chàng cảm thấy như mình chưa làm tròn trách nhiệm đối với Basilốp và có lỗi nhiều trong chuyện đó. “Chắc Onga sẽ đọc thư sau”, chàng nghĩ. Nhưng chàng biết rõ một điều là bức thư mà Basilốp coi trọng và vì nó chàng phải tới ngôi nhà này vào một giờ bất tiện đã không còn cần thiết và chẳng thú vị gì đối với người nhận. Thành thử Kuzmin đã không giúp gì được cho Basilốp mà còn đặt mình vào một tình thế khó xử Onga như đoán được ý nghĩ của chàng, nàng nói:
- Anh đừng giận. Bưu điện có, điện tín có, không hiểu sao anh ấy lại còn phiền anh làm gì.
- Có gì phiền đâu! - Kuzmin vội nói và sau khi yên lặng một lát, chàng tiếp - Ngược lại, còn rất tốt nữa là khác.
- Anh nói cái gì tốt kia?
Kuzmin đỏ mặt.
- Cái gì tốt kia? - Onga hỏi lại lần này nàng nói to hơn và ngước mắt nhìn Kuzmin. Nàng nhìn chàng như cố đoán xem chàng nghĩ gì một cách nghiêm nghị người đưa hẳn về phía trước, chờ câu trả lời. Nhưng Kuzmin chỉ im lặng.
- Anh nói đi, cái gì tốt?
Nàng hỏi lại một lần nữa.
- Biết nói với chị thế nào - Kuzmin suy nghĩ, trả lời. - Đó là một câu chuyện đặc biệt. Tất cả những gì ta yêu mến thì ta lại ít gặp. Không biết người khác thế nào, nhưng tôi nghiệm bản thân thì đúng như vậy. Mọi điều tốt lành hầu như bao giờ cũng chỉ đi lướt bên ta. Chị hiểu ý tôi chứ?
- Tôi không hiểu lắm.
Onga trả lời và nhíu đôi lông mày.
- Giải thích thế nào để chị hiểu đây? - Kuzmin nói. Chàng tự giận mình - Chắc là chuyện đó cũng xảy ra cả với chị. Từ trong cửa sổ toa tàu, chị bất thần trông thấy một cánh rừng bạch dương thưa thớt và một lưới mạng nhện thu ánh lên trong nắng và thế là chị muốn nhảy ngay ra giữa lúc tàu đang chạy để được trở lại cánh rừng ấy. Nhưng con tàu cứ đi qua. Chị nhoài người ra ngoài cửa sổ và nhìn lại những cánh rừng, những bãi cỏ rộng, những con ngựa, những nẻo đường làng đang vùn vụt chạy về phía sau và chị nghe thấy một tiếng reng reng mơ hồ. Vật gì kêu, chị không biết. Có thể là rừng hay không khí, hay là tiếng rít của những dây điện thoại. Mà cũng có thể đó là tiếng reo của những thanh ray khi tàu chạy. Cái đó chỉ ánh lên trong khoảnh khắc nhưng ta nhớ mãi suốt đời.
Kuzmin im lặng. Onga đẩy cốc vang lại phía chàng.
- Trong đời tôi. - Kuzmin nói và đỏ ửng mặt, chàng bao giờ cũng đỏ mặt khi phải nói về mình - Tôi vẫn hằng chờ đợi những chuyện bất ngờ và đơn giản ấy. Và nếu tôi gặp chúng, ấy là tôi hạnh phúc. Tuy chúng ngắn ngủi nhưng tôi cũng đã từng gặp.
- Và bây giờ cũng vậy ư?
Onga hỏi.
- Vâng!
Onga nhìn xuống.
- Vì sao? - Nàng hỏi.
Tôi không rõ. Nhưng tôi có cảm giác như vậy. Tôi bị thương trên sông Vixoa, rồi nằm quân y viện. Mọi người đều có thư từ gửi đến, chỉ tôi là không. Chẳng qua chỉ vì tôi chẳng có ai viết cho tôi. Tôi nằm và tưởng tượng đến cuộc sống tương lai của mình sau chiến tranh như mọi người thường tưởng tượng. Tương lai ấy nhất định phải hạnh phúc và khác thường. Rồi tôi khỏi và người ta quyết định cho tôi đi nghỉ. Họ chỉ định một thành phố.
- Thành phố nào? - Onga hỏi.
Kuzmin nói tên thành phố. Onga không nói gì.
- Tôi xuống tàu - Kuzmin nói tiếp - Làng mạc ở hai bên bờ, những bến tàu. Và cảm giác cô đơn chán ngấy. Tôi xin chị, chị đừng nghĩ rằng tôi than phiền. Trong cô đơn cũng có nhiều cái tốt. Rồi Navôlôki. Tôi sợ ngủ quên. Đêm khuya tôi ra boong tàu và suy nghĩ: thực là lạ lùng vì trong bóng tối bao la trùm kín cả nước Nga, dưới bầu trời rả rích mưa, có hàng nghìn người khác nhau đang ngủ một cách ngon lành. Rồi tôi đi xe ngựa đến đây và cứ đoán mãi: người tôi sẽ gặp là ai?...
- Nhưng điều gì làm anh hạnh phúc kia chứ?
Onga hỏi.
- Không... - Kuzmin sực tỉnh - Nói chung là tốt.
Anh im lặng.
- Kìa anh? Nói đi chứ!
- Nói gì kia? Tôi nói thế đã nhiều lời lắm, tôi đã nói những điều không đáng nói.
- Anh cứ nói hết. - Onga trả lời. Nàng như không nghe rõ, Những từ cuối cùng trong câu nói của chàng. Nói tất cả những gì anh muốn - Nàng nói thêm. - Dù cho điều đó hơi kỳ quặc đi chăng nữa.
Nàng đứng dậy bên cửa sổ, gạt chiếc rèm sang một bên. Mưa vẫn không ngớt.
- Chị nói cái gì kỳ quặc kia?
Kuzmin hỏi.
- Mưa vẫn rơi! - Onga nói và quay lại. - Đấy, cuộc gặp gỡ như thế này. Và tất cả câu chuyện đêm khuya giữa chúng ta. Cái đó chẳng kỳ quặc hay sao?
Kuzmin bối rối im lặng.
Trong bóng tối ẩm ướt bên ngoài cửa sổ, ở một nơi nào đó dưới chân đồi, con tàu rúc lên.
- Thôi, - Onga nói như vừa trút được gánh nặng - Còi rồi!
Kuzmin đứng dậy. Onga vẫn không nhúc nhích.
- Gượm đã - nàng nói, bình tĩnh - Chúng ta ngồi với nhau một lát trước khi anh lên đường. Như tục cũ ngày xưa.
Kuzmin lại ngồi xuống. Onga cũng ngồi xuống, suy nghĩ và quay mặt đi, không nhìn Kuzmin. Chàng đưa mắt nhìn đôi vai nàng nhô lên, nhìn những bím tóc dầy búi sau gáy, đường cong thanh tao nơi cổ nàng và nghĩ rằng nếu không có Basilốp thì chàng sẽ chẳng 13d6 rời bỏ cái tỉnh lỵ này mà đi đâu hết. Chàng sẽ ở đây cho đến hết hạn nghỉ phép và sẽ sống, bồi hồi biết rằng bên cạnh chàng có người thiếu phụ đáng yêu và rất buồn bã giờ đây.
Onga đứng dậy. Trong phòng áo chật hẹp, Kuzmin giúp nàng mặc áo mưa. Onga lấy khăn, choàng lên đầu.
Hai người ra khỏi nhà, im lặng đi bên nhau trên đường phố tối.
- Trời sắp sáng.
Onga nói.
Bầu trời sũng nước đã rạng xanh bên kia sông, Kuzmin thấy Onga rùng mình.
- Chị lạnh à? - Chàng lo lắng - Chị tiễn tôi thật vô ích. Tự tôi, tôi cũng có thể tìm được đường ra bến.
- Không, không vô ích đâu.
Onga trả lời ngắn ngủi.
Mưa đã qua nhưng những giọt nước vẫn từ trên mái nhà rơi lộp độp xuống hè phố lát gỗ.
Vườn hoa kéo dài tới tận cuối phố. Cổng mở. Liền sau cổng là những con đường rậm rạp, bỏ hoang, không người chăm sóc. Trong vườn có mùi cát ướt, hơi lạnh của đêm khuya. Đó là một khu vườn cũ, đen ngòm những cây bồ đề cao lớn. Chúng đã rụng hết hoa và đưa hương yếu ớt. Chỉ mỗi một lần gió ào ào kéo qua và cả khu vườn xao động tưởng chừng như có một trận mưa rào nặng hạt vừa đổ xuống rồi lại tạnh ngay.
Cuối vườn là bờ sông dựng đứng trên mặt nước và bên kia là những chân trời trước rạng đông ướt sũng nước mưa, ánh phù tiêu mờ mờ phía dưới, sương mù tất cả nỗi buồn những ngày mưa mùa hạ.
- Ta xuống thế nào đây?
Kuzmin hỏi
- Anh lại đây.
Onga rẽ theo con đường thẳng tuột tới bờ sông dựng đứng, đến bên cầu thang gỗ bắc xuống dưới và mất hút trong bóng tối.
- Anh đưa tay đây - Onga nói - Chỗ này có nhiều bậc thang mục.
Kuzmin đưa tay cho nàng và hai người thận trọng lần xuống. Giữa những bậc thang là cỏ ướt nước mưa.
Ở bục gỗ cuối cùng họ đứng lại. Đã trông rõ bến, những ngọn đèn xanh đỏ của con tàu. Hơi nước xả rít lên. Tim Kuzmin xe lại, chàng nghĩ rằng ngay bây giờ thôi chàng sẽ phải chia tay với một thiếu phụ không quen biết nhưng lại gần gũi biết bao, chia tay với nàng mà không nói được gi, không nói gì hết. Cũng chẳng được cảm ơn nàng đã gặp chàng trên đường đời, đã đưa cho chàng bàn tay nhỏ bé, vững chãi sau lần bao tay ẩm, thận trọng dẫn chàng đi trên chiếc cầu thang ọp ẹp và cứ mỗi lần có một cành cây ướt sũng rủ xuống phía trên tay vịn có thể vướng vào mặt chàng thì nàng lại nói khẽ: “Anh cúi đầu xuống”. Và chàng ngoan ngoãn vâng theo.
- Chúng ta chia tay nhau ở đây thôi. - Onga nói - Tôi không đi xa nữa đâu.
Kuzmin đưa mắt nhìn nàng. Qua nếp khăn choàng, đôi mắt Onga nghiêm nghị, lo lắng nhìn chàng. Có lẽ nào giờ đây, trong phút này thôi, tất cả sẽ đi vào dĩ vãng và sẽ trở thành một trong những kỷ niệm xót xa trong cả đời nàng và trong cả đời chàng?
Onga đưa tay cho Kuzmin. Kuzmin hôn tay nàng và lại thấy vẫn cái mùi nước hoa thoang thoảng mà chàng đã thấy trong căn phòng tối, giữa tiếng mưa rơi xào xạc.
Khi chàng ngẩng đầu lên, Onga nói một câu gì, nhưng nàng nói khẽ đến nỗi chàng không nghe rõ. Chàng ngờ nàng chỉ nói độc một tiếng: “Vô ích... ” Có lẽ nàng còn nói điều gì nữa, nhưng con tàu dưới sông đã gầm lên, than thở vì buổi bình minh ẩm ướt, vì cuộc sống lang thang của nó trong những ngày mưa và trong những buổi sương mù.
Kuzmin chạy lên bờ sông, không ngoái lại. Chàng đi qua bến sông thoang thoảng mùi vỏ cây và mùi hắc ín trèo lên tàu và bước ngay trên boong vắng tanh vắng ngắt. Con tàu bắt đầu rời bến, chân vịt quay chậm chạp. Kuzmin đi lại đằng lái, nhìn về bờ sông dựng đứng, nhìn cái cầu thang: Onga vẫn đứng đấy. Trời hửng sáng và khó mà nhìn rõ nàng. Kuzmin giơ tay lên nhưng nàng không vẫy lại.
Con tàu mỗi lúc một đi xa, dồn vào đôi bờ cát những đợt sóng dài, làm những phù tiêu trên sóng lúc lắc và tiếng dội của những bụi miên liễu bên bờ đáp lại tiếng chân vịt vội vã của con tàu.