Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa Chương 12


Chương 12
Cội nguồn sáng tạo

Một lần, giữa đám bạn bè, Zôla(1) nói rằng nhà văn hoàn toàn không cần đến trí tưởng tượng. Công việc nhà văn nhất thiết chỉ được dựa trên sự quan sát chính xác. Như ở ông, ở Zôla.

Môpatxăng có mặt lúc đó vặn lại:

- Thế cái việc ông viết những cuốn tiểu thuyết lớn chỉ dựa trên những tin đăng báo và hàng tháng trời không bước ra khỏi nhà thì giải thích ra sao đây?

Zôla nín lặng.

Môpatxăng cầm lấy mũ và đi ra. Việc bỏ về của ông có thể coi như một cử chỉ nhục mạ. Nhưng ông không sợ điều đó. Ông không cho phép ai, kể cả Zôla, phủ nhận trí tưởng tượng.



Môpatxăng, cũng như mọi nhà văn khác, rất coi trọng trí tưởng tượng, cái hoàn cảnh đẹp đẽ nhất cho sự phồn vinh của ý sáng tác, đất đai mang vàng bạc đến cho thơ văn.

Trí tưởng tượng là cội nguồn sáng tạo của nghệ thuật, là vầng thái dương vĩnh cửu và là Chúa Trời của nó, như các nhà thơ cao hứng trong khu Latinh đã nói.

______________________________

1. Emile Zola (1818-1892), nhà văn lớn, tiến bộ của Pháp, tác giả cuốn tiểu thuyết Germinan nói về cuộc đấu tranh của công nhân mỏ.

Nhưng cái mặt trời chói lọi kia của trí tưởng tượng chỉ có thể cháy sáng khi được cọ xát với mặt đất. Nó không thể cháy trong khoảng không trống rỗng. Trong khoảng trống nó tắt.

Trí tưởng tượng là gì? Dễ nhất là trả lời theo cách Gaiđa đã trả lời những câu hỏi hóc búa như thế. Anh ngờ vực nhìn người nói chuyện với mình và hỏi:

- Cậu lại định cho tớ vào bẫy chứ gì? Đừng hòng! Tớ không bao giờ nói ra đâu.

Muốn cho chính mình cũng hiểu được rõ ràng hơn, dù ít dù nhiều, một số khái niệm thì tốt nhất là nên phân tích chúng như kiểu ta nói chuyện với trẻ.

Trẻ em thường hỏi: “Cái này là cái gì?”, “Cái này để làm gì?”, “Tại sao lại như thế?”. Chúng sẽ không chịu yên nếu chưa làm cho chúng ta phải toát mồ hôi mà tìm cho bằng được câu trả lời, dù là tàm tạm được thôi, cho những câu hỏi của chúng.

Nếu người nói chuyện với ta là một đứa trẻ đã nói được chữ “tưởng tượng” thì thế nào câu chuyện ắt cũng sẽ diễn ra như thế này:

- Thế tưởng tượng là cái gì?

Nếu ta trả lời đại khái rằng nó là “Mặt trời của nghệ thuật” hoặc “thâm cung linh thánh” của nghệ thuật thì câu chuyện sẽ làm cho ta trở thành chim chích lạc vào rừng và chỉ còn một cách thoát ra là chuồn cho nhanh khỏi người tiếp chuyện.

Trẻ em đòi hỏi cái gì cũng phải rõ ràng. Vì thế chúng ta buộc lòng phải trả lời người tiếp chuyện chúng ta rằng “trí tưởng tượng là một đặc tính nằm trong bản chất người”

- Đặc tính gì kia chứ?

- Đó là thuộc tính của con người sử dụng vốn quan sát đời sống, ý nghĩ và tình cảm, tạo ra được bên cạnh thực tại một cuộc sống do mình bịa ra với những con người và những sự kiện cũng tại do mình bịa nốt. (Tất nhiên, điều đó phải nói cách sao để cho đơn giản hơn).

- Tại sao vậy? - người tiếp chuyện ta sẽ hỏi - Đã có cuộc đời thật rồi cơ mà. Cần gì phải bịa ra một cuộc đời khác?

Bởi vì cuộc đời thực lớn lao và phức tạp, con người không bao giờ có thể biết hết cuộc đời trong mọi mặt của nó. Mà có nhiều cái con người còn không thể trông thấy được và trải qua được nữa kia. Chẳng hạn con người không thể đi ngược dòng thời gian ba trăm năm về trước để làm học trò của Galilê, tham dự cuộc công phá Pari năm 1814, hoặc ngồi ở Matxcơva mà được sờ tay vào những cột đá hoa ở Akrôpôn(1). Hoặc vừa đi lang thang trong phố xá Rôm, vừa nói chuyện với Gôgôn. Hoặc ngồi họp trong nhà quốc hội Công văng để nghe những lời nói của Marát(2). Hoặc đứng trên boong tàu để nhìn xuống Thái bình dương đầy sao. Có thể chỉ vì người đó trong đời mình chưa bao giờ trông thấy biển. Mà con người lại muốn biết, muốn nhìn thấy, muốn nghe thấy tất cả, muốn được trải qua tất cả. Và đấy, trí tưởng tượng cho con người những gì mà thực tại chưa kịp cho hoặc không thể cho con người. Trí tưởng tượng lấp đầy chỗ trống trong đời sống con người.

Tất nhiên ở chỗ này bạn sẽ quên khuấy mất người nói chuyện với mình và bắt đầu nói những chuyện mà người đó không thể nào hiểu nổi.

Ai có thể vạch một ranh giới rõ ràng giữa trí tưởng tượng và tư duy? Nó không có đâu, cái ranh giới ấy.

______________________________

1. Phần xây trên cao của những thành phố cổ Hy Lạp dùng làm nơi phòng thủ, chống giặc. Khi viết hoa là để chỉ riêng cho thành phố Athènnes.

2. Jean Paul Marat (1743-1793), nhà hoạt động xã hội, học giả, chiến sĩ cách mạng trong Cuộc cách mạng Tư sản Pháp 1789

Trí tưởng tượng tạo ra định luật hấp dẫn, nhị thức Niutơn, câu chuyện buồn thảm về chàng Trixtăng và nàng Ydơ, sự phá vỡ nguyên tử, tòa nhà của Bộ Hải quân ở Lêningrát, bức Mùa thu vàng của Lêvitan, bài Mácxâye, vô tuyến điện, hoàng tử Hămlét, tương đối luận và bộ phim Bembi.

Tư duy của con người không có tưởng tượng thì không thể khai hoa, kết quả, cũng như tưởng tượng mà không có thực tế thì cũng tuyệt đường sinh nở.

Có một câu thành ngữ Pháp: “Những ý nghĩ vĩ đại đều từ trái tim mà ra”. Có lẽ nên nói cho đúng hơn là những ý nghĩ vĩ đại từ toàn bộ con người mà ra. Trái tim, trí tưởng tượng, lí trí, đó chính là môi trường sản sinh ra cái mà ta gọi là văn hóa.

Nhưng có một điều mà trí tưởng tượng mạnh mẽ của chúng ta cũng không hình dung nổi. Đó là sự mất đi của trí tưởng tượng, nghĩa là của tất cả những gì trí tưởng tượng đẻ ra. Nếu trí tưởng tượng mất đi, con người sẽ không còn là con người.

Trí tưởng tượng là món quà vĩ đại của thiên nhiên, nó vốn có sẵn trong thiên tính của con người.

Như tôi vừa nói, không có thực tế thì trí tưởng tượng cũng không thể tồn tại. Nó được nuôi dưỡng bằng thực tế. Mặt khác, tưởng tượng ở một mức nào đó ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta, đến công việc và ý nghĩ của chúng ta, đến quan hệ của chúng ta đối với mọi người.

Pixarep đã nói rất đạt về cái đó. Ông nói rằng: nếu như con người không thể mường tượng thấy tương lai trong những hình ảnh sáng sủa và toàn vẹn, nếu như con người không biết mơ ước thì không gì có thể buộc con người vì cái tương lai ấy mà xây dựng nên những công trình gian khổ, tiến hành một cuộc đấu tranh bền bỉ, có khi phải hi sinh cả đến tính mạng mình.

Hạt bụi viễn xứ nào tôi bắt gặp

Trên lưỡi dao. Và thế giới quanh tôi

Bỗng bừng lên rực rỡ tinh khôi

Trong tấm áo choàng sương lung linh màu sắc.

Đó là thơ của Blốc. Một nhà thơ khác viết:

Vũng nước nhỏ đọng hương biển lớn

Sa mạc gió về trong viên đá con con.

Ôi hạt bụi của những xứ sở xa xôi và hòn đá trên đường. “Hoạt động bất kham của trí tưởng tượng thường khởi đầu từ những hạt bụi ấy, những hòn đá ấy. Nhân việc này, tôi bỗng nhớ đến câu chuyện về một hi-đan-gô(1) già người Tây Ban Nha.

Có thể là nhà quí tộc ấy đã được hưởng những ngày sung sướng nhưng đến thời gian câu chuyện này xảy ra thì ông đang sống một cuộc đời đạm bạc trong trang trại của mình ở vùng Kaxti. Cơ ngơi của ông là một mảnh đất với ngôi nhà đá ảm đạm của tổ tiên để lại, giống như một nhà ngục thời nông nô.

Nhà quí tộc sống một mình. Trong nhà chỉ có một bà vú già lão. Bà vất vả lắm mới nấu được bữa cơm xoàng cho ông chủ và không còn nhớ gì hết. Đến nỗi có nói chuyện với bà ta cũng chỉ là vô ích.

Ngày này qua ngày khác nhà quí tộc ngồi lì trong chiếc ghế bành tơi tả bên cạnh cái cửa sổ gô-tich. Chỉ có tiếng hồ dán rạn vỡ trong các gáy sách phá tan cái im lặng tĩnh mịch.

Thỉnh thoảng nhà quí tộc mới ngó ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài, sừng sững một thân cây khô đen như sắt và một bình sơn tẻ ngắt kéo dài phía chân trời. Địa phương này ở Tây Ban Nha thật hoang vắng và lạnh lùng, nhưng nhà quí tộc đã quen với nó.

______________________________

1. Một tước của các nhà quý tộc Tây Ban Nha trước thế kỉ thứ 19.

Ông không còn trẻ trung gì để bỏ nhà ra đi vì những cuộc du hành mệt nhọc, đầy gió bụi với những chuyện bực mình có thể xảy ra. Mà du hành làm gì trong khi ông không còn bạn bè, thân thuộc trên khắp đất nước của hoàng gia.

Cuộc đời ông trước kia ra sao cũng ít người biết đến. Người ta nói rằng ông đã có vợ và một mụn con gái xinh đẹp nhưng cả hai đều đã qua đời vì bệnh dịch hạch trong cùng một tháng. Từ ngày ấy ông đóng cửa nằm khàn trong nhà và cả đến những người lữ hành vì đêm khuya hoặc mưa gió tình cờ ghé lại, ông cũng bất đắc dĩ lắm mới cho vào.

Một hôm, có một người đàn ông da xạm nắng gió vận áo choàng thô đến gõ cửa nhà ông và buộc con lừa già vào thân cây đen. Trong bữa ăn tối, bên lò sưởi rực hồng, y kể cho nhà quí tộc nghe rằng - lạy Đức mẹ! - Y vừa mới trở về toàn vẹn sau một câu chuyện vượt biển nguy hiểm sang phía Tây: chẳng là nhà vua, bị một gã người Ý tên là Kôlông(1), dỗ ngon dỗ ngọt đã cử sang đó mấy đoàn thuyền.

Họ đi suốt mấy tuần lễ qua đại dương và được nghe thấy giọng nói của những người con gái của biển - những nàng tiên cá. Những người con gái với làn tóc dài quấn lấy thân như tấm chăn đơn, ngọt ngào xin họ cho lên sưởi trên thuyền.

Thuyền trưởng hạ lệnh cho mọi người không được trả lời những câu năn nỉ của những cô gái mình cá nọ. Thủy thủ phẫn nộ. Họ đã mòn mỏi vì thèm khát tình yêu và những cặp đùi mềm mại của đàn bà.

Chuyện đó chấm dứt bằng một cuộc nổi loạn thất bại. Ba kẻ cầm đầu bị treo lên gióng buồm.

Cứ như thế họ đi và gặp một vùng biển chưa từng thấy, phủ

______________________________

1. Crixtôp Côlông (1451-1506), nhà thám hiểm, người đã tìm ra châu Mĩ

đầy rong. Trong rong có những bông hoa lớn màu xanh. Họ liền làm lễ cầu Chúa và bắt đầu đi vòng qua vùng biển rong kia cho đến khi bất thần nhìn thấy ở phía chân trời trước mặt một dải đất mới tuyệt đẹp, chưa ai biết tới bao giờ. Gió từ đất liền mang theo tiếng ì ầm dịu dàng của rừng và hương say ngây ngất của cây cỏ.

Thuyền trưởng bước lên đài quan sát, rút gươm khỏi vỏ và giơ lên trời. Ở mũi kiếm bùng lên một ngọn lửa vàng - dấu hiệu rằng cuối cùng họ đã tìm ra đất nước Enđôrađô, nơi ngọn núi nào cũng đầy bạc, vàng và châu báu.

Nhà quí tộc im lặng nghe câu chuyện của khách.

Ra đi, người đàn ông lấy trong túi da ra một cái vỏ ốc màu hồng ở xứ Enđôrađô tặng nhà quí tộc già để cám ơn ông đã cho ăn và ngủ lại. Đó là một thứ đồ chơi, vì thế mà nhà quí tộc vui lòng nhận.

Người đàn ông đi rồi thì đến đêm trời nổi giông. Những tia chớp chậm chạp sáng lên và tắt đi trên bình nguyên sơn thạch.

Cái vỏ ốc nằm trên bàn, bên giường nhà quí tộc.

Nhà quí tộc chợt tỉnh giấc và nhìn thấy cái vỏ ốc sáng rực lên trong ánh chớp của lửa trời. Trong lòng ông lóe lên và tắt đi hình ảnh của một xứ sở thần tiên đầy ánh sáng hồng, bọt biển và mây trắng.

Tia chớp tắt. Nhà quí tộc đợi đến khi tia chớp sau và nhìn thấy trong vỏ ốc cái xứ sở kia rõ nét hơn lần trước. Từ những bờ biển dựng đứng, những dòng thác rộng chảy ra biển, sùi bọt lấp lánh. Cái gì đây? Có lẽ là những dòng sông. Nhà quí tộc như cảm thấy cả cái tươi mát của những dòng sông ấy. Bụi nước phả lên mặt ông.

Ông tưởng cảm giác đó là của giấc mơ chưa dứt, đứng dậy, kéo ghế lại bên bàn, ngồi đối diện chiếc vỏ ốc, cúi xuống và không hiểu sao mà tim đập mạnh, ông cố quan sát kĩ những chi tiết khác của cái xứ sở nằm trong vỏ ốc kia. Nhưng những tia chớp thưa dần và sau cùng tắt hẳn.

Nhà quí tộc không dám châm nến, sợ ánh sáng thô lỗ của nó sẽ làm ông tin rằng những gì ông đã thấy chỉ là ảo giác và không có xứ sở nào trong lòng vỏ ốc hết.

Ông ngồi cho đến sáng. Trong những tia nắng của bình minh cái vỏ ốc chỉ còn là một cái vỏ ốc bình thường. Trong lòng nó chẳng có gì khác ngoài cái ánh sáng mờ tỏa như sương phải khó khăn lắm mới nhận thấy. Hệt như cái xứ sở bí ẩn kia trong một đêm đã lùi ra xa hàng nghìn dặm.

Ngay ngày hôm đó nhà quí tộc đi Mađrít và quỳ xuống trước mặt vua, cầu xin đức kim thượng ban cho ông một đặc ân: cho phép ông tự bỏ tiền ra sắm một chiếc thuyền để đi về phương Tây tìm cái xứ sở không ai biết tới kia.

Nhà vua vốn nhân đức liền chấp nhận lời cầu khẩn của ông. Sau khi ông lùi ra, nhà vua nói với tả hữu:

- Nhà quí tộc kia rõ là một anh khùng! Hắn có thể tìm được cái gì với độc một chiếc thuyền thảm hại? Nhưng Trời soi đường chỉ lối cho cả những kẻ mất trí. Chưa biết chừng lão già ấy lại kiếm về cho ngai vàng của ta những miền đất mới cũng nên.

Suốt mấy tháng trời nhà quí tộc đi về hướng Tây. Ông ăn rất ít và chỉ uống nước. Sự hồi hộp khiến cho thân hình ông héo quắt đi. Ông cố không nghĩ đến cái xứ sở thần tiên kia, sợ rằng không bao giờ ông có thể đặt chân tới. Và sợ rằng nếu ông có được nhìn thấy nó thì nó lại là một bình nguyên đáng ngán toàn cỏ và những cột bụi xám ngóet bị gió xua đuổi.

Nhà quí tộc cầu xin Đức Mẹ, đừng để ông phải thất vọng.

Tượng Đức Mẹ khắc một cách mộc mạc bằng gỗ gắn ở mũi thuyền. Đức Mẹ bay nhanh, nghiêng ngả đằng trước con thuyền lướt sóng. Đôi mắt xanh của Đức Mẹ mở to đăm đăm nhìn về phía biển xa. Trên làn tóc mạ vàng đã rạn nứt và chiếc áo choàng đỏ thẫm bạc màu, những giọt nước bắn lên lấp lánh.

- Xin chỉ đường dẫn lối cho chúng con! - Nhà quí tộc cầu khẩn - Không lẽ nào lại không có xứ đó. Con nhìn thấy nó rõ ràng lắm, trong giấc mơ cũng như lúc tỉnh.

Một hôm, vào lúc chiều tối, thủy thủ vớt được một cành cây gẫy. Đó là dấu hiệu gần tới đất liền.

Cành cây phủ dày những lá lớn giống như những chiếc lông đà điểu. Từ lá cây bốc lên một hương vị ngọt ngào và tươi mát.

Đêm ấy trên thuyền không ai ngủ.

Và cuối cùng, trong ánh sáng rực rỡ của bình minh, một xứ sở tráng lệ với những bức tường đá muôn màu của những rặng núi kéo dài từ đầu này đến đầu kia biển cả hiện ra. Những dòng sông trong suốt từ những rặng núi ấy đổ xuống đại dương. Trên màu xanh của rừng hàng đoàn chim vui vẻ bay lượn. Lá rừng rậm đến nỗi chim chóc không thể luồn vào trong được và vì thế chúng cứ phải lượn mãi trên những ngọn cây.

Một hương vị tràn trề hạnh phúc của hoa quả từ trong bờ bay ra. Tưởng như mỗi ngụm hương vị đó đưa cái bất tử vào trong lồng ngực.

Mặt trời lên và cái xứ sở ngập trong bụi nước bay ra từ những dòng thác bỗng bừng lên đủ mọi màu sắc, những màu sắc chỉ có được khi ánh mặt trời khúc xạ trong những bình pha lê nhiều cạnh.

Đất nước đó long lanh như một dải thắt lưng bằng kim cương mà nữ thần trinh bạch của trời và ánh sáng đã bỏ quên trên bờ biển.

Nhà quí tộc quỳ xuống, giơ hai tay run rẩy về phía mảnh đất chưa người biết tới và nói:

- Cảm ơn người, tiên kiến của ta. Lúc ta đã gần đất xa trời ngươi cho ta thèm nhớ những điều mới lạ và bắt tâm hồn ta phải mệt mỏi vì mơ ước được nhìn thấy một xứ sở hạnh phúc. Nếu không thì không khi nào ta được trông thấy nó và mắt ta sẽ khô đi, sẽ mù đi trước cảnh bình nguyên đơn điệu. Ta muốn lấy tên con gái ta là Florenxia đặt cho mảnh đất hạnh phúc này.

Từ đất liền hàng chục cầu vồng nhỏ chạy ra đón con thuyền. Trước cảnh đó nhà quí tộc hoa mắt. Mặt trời đã thắp những chiếc cầu vồng đó trong bọt thác, nhưng không phải chúng đang lại gần thuyền mà chính là thuyền đang đi lại gần chúng.

Những cánh vải rít lên trên cột buồm và những lá cờ lễ vừa được kéo lên hân hoan bay phần phật.

Nhà quí tộc ngã sấp xuống boong tàu ẩm ướt và ấm áp. Ông đã cấm khẩu. Trái tim mệt mỏi của ông không chịu đựng nổi niềm vui độc nhất và vĩ đại mà Chúa đã ban cho ông ngày hôm ấy.

Nhà quí tộc qua đời.

Người ta nói rằng đất nước về sau này mang tên Flor đã được tìm ra như thế đấy.

Có lẽ cũng chẳng cần giải thích câu chuyện đó. Nhưng cũng nên đánh dấu lại những khâu chính của nó để cho một ý nghĩ này thêm sáng tỏ. Đó là trí tưởng tượng được cuộc đời sinh ra, đến lượt nó đôi khi lại có uy quyền đối với cuộc đời.

Người khoác áo choàng thô đã đánh thức trí tưởng tượng trong nhà quí tộc. Từ phút đó, trí tưởng tượng đã choán hết tâm trí nhà quí tộc già và chỉ vì thế mà ông đã nhìn thấy trong lòng chiếc vỏ ốc một xứ sở kì lạ.

Một trong những đặc tính của trí tưởng tượng là con người tin ở nó. Nếu không có lòng tin đó, trí tưởng tượng sẽ chỉ là một trò chơi vô vị của trí óc, là chiếc kính vạn hoa vô nghĩa của con trẻ.

Niềm tin vào hình ảnh tưởng tượng chính là cái động lực buộc con người đi tìm trong cuộc đời cái mình tưởng tượng thấy, chiến đấu để cho nó thành sự thực, đi theo tiếng gọi của tưởng tượng, như nhà quý tộc kia đã đi theo và sau hết, sáng tạo ra trong thực tế cái mình đã tưởng tượng thấy.

Nhưng trước hết và mạnh hơn hết, tưởng tượng gắn bó với nghệ thuật, văn học và thi ca.

*

* *

Tưởng tượng dựa trên trí nhớ, còn trí nhớ thì dựa trên những hiện tượng của thực tại. Những nguồn dự trữ của trí nhớ không phải là một cái gì hết sức hỗn độn. Có một qui luật, đó là qui luật liên tưởng, hay như Lômônôxốp gọi, “qui luật liên hình dung”. Qui luật đó sắp xếp tất cả mớ hỗn độn của ký ức dựa trên sự tương đồng về hình thức hoặc theo sự gần gũi về thời gian và không gian - nói một cách khác là khái quát hóa chúng - rồi kéo chúng vào một chuỗi mắt xích liên tục. Chuỗi mắt xích liên tưởng là sợi chỉ dẫn đường cho trí tưởng tượng.

Sự giàu có liên tưởng chứng tỏ sự phong phú của thế giới nội tâm của nhà văn. Có cái phong phú đó thì ý nghĩ nào, đề tài nào cũng có thể lớn phồng lên với những nét sinh động.

Có những nguồn nước khoáng đậm đặc. Chỉ cần đặt vào đấy một cành lá hay một cái đinh, cái gì cũng được, là trong một thời gian ngắn chúng đã được rất nhiều tinh thể trắng bao bọc và biến thành những tác phẩm nghệ thuật thực tế. Đối với ý nghĩ của con người được đặt trong nguồn trí nhớ của chúng ta, trong cái môi trường đậm đặc của liên tưởng, hiện tượng cũng tương tự như vậy. Ý nghĩ biến thành tác phẩm nghệ thuật.

Có thể lấy bất cứ thí dụ nào về sự liên tưởng. Nhưng cần phải nhớ rằng những liên tưởng ở mỗi người đều liên quan chặt chẽ với cuộc đời, tiểu sử, ký ức của họ. Vì thế những liên tưởng ở người này có thể hoàn toàn xa lạ người khác. Cùng một chữ gợi những liên tưởng khác nhau trong những con người khác nhau. Nhiệm vụ của nhà văn là truyền đạt, hoặc như người ta thường nói, làm cho những liên tưởng của mình đến được với người đọc và gợi lên ở người đọc những liên tưởng tương tự.

Lômônôxốp đã đưa ra một thí dụ đơn giản về liên tưởng trong cuốn Mỹ từ học của ông. Theo lời Lômônôxốp thì liên tưởng “là năng khiếu tinh thần từ một vật đã được thấy nghĩ ngay đến những vật khác liên quan chặt chẽ với nó, thí dụ: khi trong óc nghĩ đến cái tàu thủy thì ta tưởng tượng ra cùng một lúc với nó biển, trên đó tàu thủy đi, với biển - bão, với bão - sóng, với sóng - tiếng động ở bờ biển, với bờ biển - những tảng đá v.v...

Đó là kiểu liên tưởng “giáo khoa”. Thông thường, liên tưởng phức tạp hơn rất nhiều.

Tiện đây tôi xin đưa một ví dụ về liên tưởng.

“Lúc này tôi đang viết trong một ngôi nhà nhỏ trên những cồn cát ở vịnh Riga. Trong phòng bên, một con người vui tính đang đọc to những vần thơ của mình. Đó là nhà thơ Immecmanixơ, người Latvia. Anh vận chiếc áo len đan màu đỏ. Tôi đã nhìn thấy một chiếc áo len như thế đã lâu lắm, từ trước chiến tranh, trên mình nhà đạo diễn Âyzenstanh(1). Tôi gặp Âyzenstanh trong một phố Anma Ata. Ông đang cầm một gói sách vừa mới mua. Sách ông chọn hơi lạ: Chỉ dẫn về chơi bóng chuyền, hợp tuyển giáo khoa lịch sử trung cổ, sách học đại số và cuốn Xuxima

______________________________

1. Một đạo diễn bậc thầy của nền điện ảnh Xô Viết và thế giới

của Nôvikốp Gribôi(1).

- Đạo diễn phải biết đủ thứ. Và tìm cách biểu hiện bằng hình ảnh cho đủ mọi thứ - Âyzenstanh nói.

Tôi hỏi:

- Cho cả những công thức đại số sao?

- Dĩ nhiên! - Âyzenstanh trả lời

Nhà thơ Vlađimia Lugốpxkôi lúc đó đang viết một bài thơ trường thiên. Trong đó có một chương nói về Âyzenstanh dưới đầu đề: “Anma Ata, thành phố của những giấc mơ”. Trong bài thơ có tả những chiếc mặt nạ Mêhicô treo trong phòng Âyzenstanh. Ông mang chúng về sau chuyến đi Trung Mỹ.

Nói chung, toàn bộ lịch sử xâm chiếm châu Mĩ là lịch sử đểu cáng của loài người. Cần phải đặt tên cho nó như vậy. Cái tên “Sự đểu cáng” thực là hay cho một cuốn tiểu thuyết lịch sử. Nó sẽ kêu lên như một cái tát.

Ôi, những cuộc tìm kiếm đầu đề, cực nhọc, thường xuyên.

Nghĩ ra đầu đề là một cái tài riêng. Có những người viết hay nhưng lại không biết đặt tên cho tác phẩm của mình. Và ngược lại. Cũng như có những người kể chuyện hay nhưng lại viết tồi. Họ chỉ biết tán. Cần phải có một tài năng khỏe như Gorki để có thể kể nhiều lần chỉ một câu chuyện thôi và rồi lại viết nó ra một cách mới và khác hẳn câu chuyện miệng. Mà kể chuyện thì Gorki kể rất tuyệt. Một câu chuyện thật ở ông lập tức được phong phú thêm bằng rất nhiều chi tiết. Cứ mỗi lần kể, cũng một câu chuyện thôi, những tình tiết lại mỗi lúc một nhiều thêm, đổi khác đi thành ra lí thú hơn. Những câu chuyện miệng của ông thực ra là những sáng tác chính cống. Vì thế mà Gorki chán hết sức khi phải tiếp xúc với đám người nhạt nhẽo và chính

______________________________

1. Nhà văn Nga chuyên viết về cuộc sống của thủy thủ.

xác dám nghi ngờ tính chất xác thực của những chuyện ông kể. Ông cau mày, thôi không kể nữa và hình như ông đã nói: “Sống với các đồng chí trên thế giới này ngán lắm, các đồng chí ạ!”. Nhiều nhà văn cũng có tài dựa trên cơ sở những sự kiện thật tạo ra những chuyện kể miệng như thế. Đặc biệt là Mác Tuên(1). Một nhà phê bình chiến đấu cho sự thật vặt vãnh đã buộc Mác Tuên vào tội nói dối. Mác Tuên nổi đóa: “Sao ông có quyền xét tôi nói dối hay không trong khi chính ông cũng chẳng biết cả đến cách nói dối tồi nhất và chẳng hiểu người ta nói dối thế nào? - Mác Tuên nói với nhà phê bình - Muốn cả quyết một cách mạnh dạn như thế cần phải có nhiều kinh nghiệm trong chuyện đó. Mà ông thì không có kinh nghiệm và không thể nào có được. Trong lĩnh vực này, ông là kẻ dốt nát và ngu ngốc”.

Infơ kể lại rằng trong một thành phố nhỏ ở quê hương Mác Tuên ông thấy có bức tượng Tôm Xoayơ và Hâckơnbêri Fin. Trong bức tượng, Fin nắm đuôi một con mèo chết. Ờ nhỉ, tại sao ta lại không dựng tượng các nhân vật văn học? Thí dụ tượng Đôn Kisốt hay Guylive Paven Coóctsaghin, Tachiana Larina, Taraxơ Bunba, Pie Bêzukhốp, ba chị em của Tsêkhốp, Mácxim Mácximút hay Bela của Lérmôntốp?

Tất cả những điều viết trên là cái dây xích liên tưởng. Số lượng những liên tưởng có thể là vô tận. Nếu như đặt mắt xích đầu và mắt xích cuối của các liên tưởng lại bên nhau - cái áo len đó và tượng Bela - thì, lẽ dĩ nhiên, tất cả đường đi của liên tưởng sẽ giống như lời nói mê.

Tôi nói nhiều về liên tưởng chỉ vì nó tham gia một cách rất

______________________________

1. Mark Twain (1835-1901), nhà văn trào phúng, tiến bộ Mỹ, tác giả cuốn “Chuyện phiêu lưu của Tôm Xoayơ”, “Chuyện phiêu lưu của Hâckơnbêri Fin”.

chặt chẽ trong sáng tác.

Trong câu chuyện dài dòng về trí tưởng tượng ở trên kia chỉ có một điểm là rõ ràng: nếu không có tưởng tượng thì không có văn xuôi thật sự và cũng chẳng có thơ.

Có lẽ Bextugiép - Máclinxki đã nói về tưởng tượng hay hơn hết thảy.

“Cái hỗn mang là tiền thân của sự sáng tạo ra một cái gì chân thực, cao cả và nên thơ. Chỉ cần có tia sáng của thiên tài chọc thủng bóng tối đó. Những hạt nhỏ đấu tranh với nhau, ngang sức nhau còn lại tới nay sẽ được tình yêu và sự hòa hợp làm cho tái sinh, chúng sẽ cùng chảy vào một hạt mạnh mẽ nhất, sẽ gắn chặt với nhau, sắp xếp thành những tinh thể lóng lánh, sẽ hiện lên như những ngọn núi, sẽ tràn trề như biển, và một sức sống sinh động sẽ viết những chữ tượng hình khổng lồ lên trên thế giới mới”.

Đêm đến và sức mạnh của tâm hồn từ từ trỗi dậy. Tạm thời nó chưa có tên. Ta gọ 2846 i nó bằng gì đây? Tưởng tượng, hoang tưởng, sự thâm nhập vào những lỗ hổng nhỏ nhất của ý thức con người chăng, cảm hứng chăng? Niềm phấn khởi trong tâm hồn hay là sự bình yên? Niềm vui hay nỗi buồn? Ai mà biết được!

Tôi tắt đèn và đêm bắt đầu từ từ sáng. Ánh tuyết phản chiếu ngấm vào đêm tối. Vịnh biển trong băng. Như một chiếc gương mờ khổng lồ, nó ánh lên đêm và biến đêm thành bóng tối trong suốt.

Trông rõ những ngọn thông Ban tích. Ngoài xa, những chuyến xe lửa chạy điện đi ngang qua, dội lên tiếng ầm ầm mỗi lúc một lớn lên đều đặn. Và lại yên lặng, cái yên lặng đặc biệt, tưởng chừng nghe rõ cả tiếng xào xạc nhỏ nhất của những cây tùng bách bên ngoài cửa sổ và tiếng lách tách khe khẽ khó hiểu. Tiếng ấy trùng hợp với những tia sáng lóe ra từ những vì sao. Có lẽ băng giá từ những vì sao rơi xuống và khe khẽ kêu lên những tiếng lách tách và leng keng.

Trong nhà vắng lặng. Một mình tôi. Ngay cạnh tôi là biển cả ngoài trăm dặm. Bên kia những cồn cát là những đầm lầy rộng lớn và những khu rừng thấp...Không có ai bên mình. Nhưng chỉ cần đốt đèn lên, ngồi xuống trước bàn và bắt đầu viết bất kì về một chuyện nào đó, thế là cảm giác cô độc đã mất đi rồi. Tôi không phải chỉ có một mình. Từ căn phòng nhỏ hẹp này tôi có thể nói chuyện với hàng vạn người, với cả thế giới. Tôi có thể kể cho họ nghe bất cứ câu chuyện nào, làm cho họ vui hoặc buồn, gợi lên trong họ sự suy nghĩ hoặc niềm căm giận, tình yêu và lòng trắc ẩn, làm cho người dẫn đường cầm tay họ mà dắt họ đi trong cuộc đời. Cuộc đời được xây dựng ở đây, trong bốn bức tường này, nhưng nó vượt thoát ra ngoài đi vào vũ trụ.

Cầm lấy tay họ mà đưa họ đi đón bình minh. Bình minh nhất định sẽ đến. Ở đàng đông nó đã bắt đầu chọc thủng màn đêm và soi sáng chân trời bằng một màu xanh rất nhạt tạm thời còn xa lắc.

Tôi vẫn chưa biết mình sẽ viết gì. Ý nghĩ trong tôi không khác gì nỗi bồi hồi, niềm mong ước muốn truyền đạt cho người khác tất cả những gì đang tràn ngập trong óc tôi, trái tim tôi, cả bản thể con người tôi. Ý nghĩ có trong tôi, nhưng nó sẽ tràn chảy đi đâu, sẽ tìm được cách diễn đạt nào, chính tôi cũng chẳng rõ. Nhưng tôi biết tôi sẽ viết vì ai. Tôi sẽ nói chuyện với toàn thế giới. Thật là khó, gần như không thể nào mường tượng ra bằng hình ảnh khái niệm đó - cả thế giới.

Bao giờ ta cũng nghĩ về một người nào đó, dù chỉ là một em gái bé có đôi mắt sáng long lanh, cái em bé đã chạy trên cánh đồng cỏ đón tôi để khi chạy tới nơi, nắm lấy khuỷu tay tôi mà nói, thở dốc vì chạy nhanh:

- Cháu đợi chú ở đây đã lâu lắm rồi. Cháu đã hái được một bó hoa và đọc thuộc lòng chín lần chương thứ hai trong cuốn Epghênhi Ônhêghin(1). Mọi người đang đợi chú ở nhà vì chỉ quanh quẩn có bằng ấy người, buồn lắm. Chú kể cho mọi người nghe ngay đi, lúc chú ở hồ có chuyện gì xảy ra và nhớ bịa thêm một cái gì cho thú vị. Hay không, chú đừng bịa, mà cứ kể như thực ấy, bởi vì cứ thế thôi trên những cánh đồng cỏ này đã đẹp lắm và hoa tường vi đã bắt đầu nở lần thứ hai. Thú quá, chú ạ!

Mà cũng có thể, tôi sẽ kể cho một người đàn bà mà cuộc sống của người đó gắn bó với cuộc sống của tôi bởi những năm khó khăn, sung sướng và dịu dàng, gắn bó chặt chẽ đến nỗi ngày nay không có gì có thể làm cho chúng tôi sợ hãi.

Mà có thể, tôi viết cho bạn bè tôi. Vào tuổi tôi, họ mỗi năm một ít dần.

Nhưng nói cho cùng, tôi viết cho những ai muốn đọc những dòng này.

Tôi không biết tôi sẽ viết truyện gì. Có lẽ tại tôi muốn nói quá nhiều và còn chưa chọn được trong những ý nghĩ của mình một ý nghĩ có khả năng như cục nam châm hút được tất cả những ý nghĩ khác về nó và bắt chúng nằm vào trong một câu chuyện một cách gọn gàng.

Trạng thái đó quen thuộc đối với tất cả những người cầm bút.

Tuốcghênhiép nói:

- Không phải vô cớ mà những nhà thơ đã nói đến cảm hứng. Tất nhiên nàng thơ không phải từ đỉnh Ôlempơ xuống với họ và mang tới cho họ những bài ca viết sẵn, nhưng trong họ có một tâm trạng đặc biệt, giống như là cảm hứng. Những vần thơ của Fết bị người ta giễu cợt rất nhiều, trong đó ông nói rằng

______________________________

1. Một truyện thơ của Puskin

chính ông cũng không biết mình sẽ hát gì, nhưng “bài ca tự chín”, đã nói lên rất đúng tâm trạng trên. Có những phút ta cảm thấy muốn viết nhưng chưa biết viết gì, nhưng cảm thấy là mình sẽ viết. Tâm trạng ấy được các nhà thơ gọi là “trời đến gần ta”. Những phút như vậy là nguồn khoái cảm duy nhất của người nghệ sĩ. Nếu không có những phút như thế thì chẳng có ai muốn viết. Sau đó, khi phải xếp dọn cho có thứ tự tất cả những gì quay cuồng trong đầu, khi phải diễn đạt tất cả những cái đó trên mặt giấy thì đó mới là lúc cái day dứt bắt đầu”.

Đang đêm bất thần xuất hiện một âm thanh. Đó là tiếng còi của một con tàu thủy ở xa. Nó từ đâu đến đây, trong cái vùng băng giá này?

Ngày hôm qua báo chí Riga loan tin có một chiếc tàu phá băng từ Lêningrat vào vịnh. Chắc đó là tiếng còi của nó.

Tự nhiên tôi nhớ đến câu chuyện của một viên hoa tiêu tàu phá băng kể rằng khi len lỏi qua vịnh Phần lan, ông ta bắt gặp trên mặt băng một ôm hoa đồng giản dị đã héo. Hoa bị tuyết phủ đầy. Ai đã đánh rơi chúng ở đây, trên hoang mạc băng tuyết này? Chắc người ta đã đánh rơi chúng từ một con tàu nào khi nó phá vỡ lớp băng mỏng đầu tiên.

Hình tượng nảy ra. Với một sức mạnh không thể hiểu được vì sao lại có, nó bắt đầu dẫn ta tới với một câu chuyện thần kì còn chưa rõ nét.

Cần phải khám phá ra điều bí ẩn của những bông hoa chết cóng kia. Mọi người đều cùng đoán. Người nào trông thấy những bông hoa kia cũng đều có những phỏng đoán của mình.

Tôi cũng có những phỏng đoán của tôi, mặc dầu tôi không trông thấy những bông hoa ấy. Không biết có phải chính là những bông hoa của em gái bé chạy lại đón tôi đã nhặt trên đồng cỏ không? Hẳn vẫn là những bông hoa ấy. Nhưng tại sao chúng lại rơi trên băng? Cái đó chỉ có thể xảy ra trong một chuyện huyền hoặc, thứ chuyện không thèm đếm xỉa đến giới hạn trong thời gian cũng như trong không gian.

Ngay lúc này đây tự nhiên ta nghĩ đến cái tính đặc biệt, thuần túy đàn bà đối với hoa. Cái tình ấy khác hẳn cái tình của chúng ta, cánh đàn ông. Đối với chúng ta, hoa chỉ là vật trang trí. Đối với đàn bà, hoa là những sinh vật, những vị khách từ cái thế giới mà chúng ta, những người lớn tuổi và là những người bận làm ăn chỉ thoáng thấy có khi đi ngang và nhìn nó với một vẻ khinh khi kẻ cả.

Đáng giận là buổi bình minh hửng sáng quá nhanh. Ánh sáng ban ngày có thể đuổi đi những ý nghĩ trên làm chúng trở thành tức cười dưới tầm mắt những người nghiêm nghị.

Gặp ánh mặt trời, nhiều câu chuyện huyền hoặc co rúm lại và lẩn đi như những con sên thu mình vào trong vỏ.

Đúng thế, câu chuyện huyền hoặc, tuy hãy còn mơ hồ, đã ra đời. Hầu như không thể nào ngăn lại được những câu chuyện huyền hoặc, những truyện ngắn truyện dài khi chúng đã ra đời. Cái đó chẳng khác gì giết chết một sinh mạng. Chúng bắt đầu tự lớn lên trong ý thức của chúng ta.

Và cuối cùng, đã đến lúc câu chuyện huyền hoặc được đưa lên mặt giấy. Phần nhiều khi viết nó ra, ta cũng cảm thấy khó khăn chẳng khác gì muốn truyền đạt bằng lời cái hương thơm phảng phất của nó. Khi viết truyện, hầu như ta phải nín thở để khỏi làm bay mất lượt bụi mỏng manh phủ trên mình nó. Và phải viết cho nhanh vì ánh thấp thoáng của hình bóng và những cảnh riêng biệt diễn ra một cách vùn vụt và dễ dàng. Không được chậm trễ, không được tụt lại đằng sau bước chạy của trí tưởng tượng.

Câu chuyện huyền hoặc đã viết xong. Và ta lại muốn một lần nữa, với lòng biết ơn, được nhìn vào trong đôi mắt sáng long lanh, nơi câu chuyện sẽ sống mãi đời đời.

 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86787


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận