Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa Chương 3


Chương 3
Truyện ngắn đầu tiên

Từ thị trấn Tsecnôbưn tôi đáp tàu thủy trở về Kiep theo dòng sông Pripiat. Mùa hè tôi ở trong trang viên xơ xác của một viên tướng về hưu tên là Lepkôvich gần Tsecnôbưn. Thầy học tôi xếp cho tôi một chân dạy tư trong nhà Lepkôvich. Tôi phải kèm cho cậu ấm gà tồ con ông tướng chuẩn bị thi lại hai môn học kỳ đầu trong niên khóa.

Ngôi nhà cũ kỹ của viên điền chủ nằm trên một vùng đất thấp. Tối đến sương mù lạnh lẽo bốc lên cuồn cuộn quanh nhà. Ếch nhái nheo nhéo trong các đầm lầy lân cận và mùi đỗ quyên xông lên phát nhức đầu.

Lũ con trai dở hơi dở hám của Lepkôvich dùng súng trường đứng ngay ở hàng hiên bắn vịt trời trong buổi trà tối.



Lepkôvich - con người phì nộn, dữ tợn với bộ ria điểm bạc và đôi mắt đen trợn trừng - suốt ngày ngồi trong chiếc ghế bành mềm đặt ngoài hàng hiên và thở khò khè vì suyễn. Thỉnh thoảng lão lại khàn khàn hét lên:

- Không phải là gia đình nữa, mà là bầy vô công rồi nghề! Một quán rượu! Tao sẽ tống cổ hết chúng mày đi cho mà xem! Tao không cho chúng mày hưởng gia tài nữa đâu!

Nhưng chẳng có ma nào chú ý đến tiếng la hét khàn khàn của lão. Cai quản nhà cửa và trang trại là vợ lão - “madam Lepkôvich” - một người đàn bà chưa già, lẳng lơ nhưng lại rất bủn xỉn. Suốt mùa hè lúc nào mụ cũng đeo một chiếc coóc-xê kêu sột soạt.

Ngoài lũ con trai vô công rồi nghề, Lepkôvich còn một mụn con gái trạc hai mươi. Tên ả là “Gian Đar”(1). Suốt từ sáng đến tối ả phóng con ngựa đen tuyền và hung tợn, ngồi trên yên theo cách của đàn ông, ra vẻ ta đây ngang tàng.

Ả thích nhắc đi nhắc lại một tiếng mà trong hầu hết mọi trường hợp là hoàn toàn vô nghĩa: “Coi khinh”.

Khi người ta giới thiệu tôi với ả, ả cứ ngồi nguyên trên ngựa rồi nhìn thẳng vào mắt tôi, ả chìa tay ra, nói:

- Coi khinh!

Tôi chẳng biết đến bao giờ mới thoát khỏi cái gia đình điên khùng ấy và cảm thấy nhẹ hẳn người khi cuối cùng rồi tôi cũng được ngồi lên chiếc đệm cỏ khô phủ vải gai của chiếc xe tải đồ và người đánh xe ngựa, bác Ignachi Lôiôla(2) (trong nhà Lepkôvich mọi người đều mang tên hiệu có tính chất lịch sử), thường gọi đơn giản là bác Ignat, cầm lấy dây cương làm bằng thừng và chúng tôi thủng thẳng đi về phía Tsecnôbưn.

Xe vừa ra khỏi cổng nhà viên điền chủ, chúng tôi đã lọt ngay vào cái yên tĩnh của vùng rừng đồng thấp.

Mãi đến chiều tối chúng tôi mới lê lết được tới Tsecnôbưn và phải ngủ lại trong một quán trọ. Tàu thủy đến chậm.

Chủ quán là một người Do thái đứng tuổi họ Kuse.

Kuse để cho tôi ngủ trong một gian phòng hẹp có những bức

______________________________

1. Jeanne dAre, nữ anh hùng dân tộc Pháp, lãnh đạo nhân dân chống lại xâm lược Anh (1412-1432)

2. Ở đây: bác đánh xe được gọi theo tên thánh. (Igơnachi Lôiôla là người sáng lập ra giòng Giêduýt (Jésuites). Năm 1622 được Giáo hoàng La Mã phong Thánh.)

chân dung của tổ tiên ông ta - những ông già râu bạc đội mũ chỏm bằng lụa, những bà lão mang tóc giả và quấn khăn thêu. Bà lão nào trong tranh cũng có cặp mắt đẫm lệ.

Mùi dầu hỏa từ chiếc đèn trong bếp xông lên sặc sụa. Tôi vừa mới đặt mình nằm xuống chiếc đệm dày nhồi lông chim thì rệp đã kéo đàn kéo lũ từ một ngách xông ra thịt tôi.

Tôi chồm dậy, hấp tấp mặc quần áo và bước ra ngoài hiên. Ngôi nhà ở ngay cạnh bãi cát bờ sông. Sông Pripiat lấp loáng mờ mờ. Trên bờ sông, gỗ ván xếp thành chồng.

Tôi ngồi xuống chiếc ghế dài ngoài thềm và xốc cổ áo choàng học sinh lên. Đêm lạnh, tôi thấy rét.

Có người lạ mặt ngồi ở trên bậc thềm. Trong bóng tối tôi không nhìn rõ họ. Một người hút makhorka(1), người kia ngồi gập mình lại và hình như đang ngủ. Từ trong sân vọng ra tiếng ngáy như sấm của bác Ignachi Lôiôla. Bác ngủ ngay trên đệm cỏ khô ở trong xe và giờ đây tôi ghen với bác.

- Rệp à?

Người hút makhorka cất giọng the thé hỏi tôi.

Nghe tiếng, tôi nhận ra anh ta. Đó là một anh chàng Do thái thấp bé, mặt khó đăm đăm, chân đi ủng dạ không tất. Khi tôi và bác Ignachi Lôiôla vừa đến, anh ta mở cửa cho chúng tôi vào sân và đòi trả công mười kôpếch. Tôi cho anh ta đồng một hào. Kuse trông thấy, đứng bên cửa sổ hét ra:

- Bước ngay ra khỏi nhà tao, đồ khố rách! Tao nói mày có nghìn lần rồi!

Nhưng người đi ủng dạ thậm chí cũng chẳng thèm quay lại nhìn Kuse. Anh ta nháy tôi và nói:

- Ông nghe thấy chưa? Mỗi đồng hào làm bỏng tay hắn. Rồi

______________________________

1. Một thứ thuốc lá rất nặng.

hắn sẽ chết vì tham cho mà xem, ông cứ nhớ lấy lời tôi!

Khi tôi hỏi Kuse xem anh ta là ai thì ông trả lời miễn cưỡng:

- À, Iôxka! Một thằng dở người! Nhưng này... nếu anh không thiết sống thì ít nhất cứ phải tôn trọng mọi người cái đã. Đừng có nhìn người bằng nửa con mắt(1).

- Ông còn phải trả thêm tiền rệp cho Kuse nữa đấy - Iôxka rít một hơi thuốc, nói với tôi và tôi trông thấy những đám râu tua tủa trên má anh - Khi con người cố tâm làm giàu, hắn không từ một cái gì hết.

- Iôxka! - Bất thình lình người từ nãy ngồi gập mình nói bằng một giọng khàn khàn và dữ tợn - Vì sao mày lại làm thiệt đời Khơrixchia? Hai năm nay chẳng có đêm nào tao ngủ được...

- Nikifo! Thật chỉ có người điên mới đi nói những lời bẩn thỉu như vậy! - Iôxkia giận dữ kêu lên - Tôi làm thiệt đời cô ấy ư? Ông hãy đến tận đức cha Mikhain của ông mà hỏi xem ai là kẻ đã giết cô ấy? Hay là đến ông quận trưởng cảnh sát Xukharenkô mà hỏi xem.

- Con tôi! - Nikifo nói bằng một giọng tuyệt vọng - Mặt trời của tôi đã bỏ nơi đầm lầy mà đi về cõi vô cùng rồi.

- Thôi đi! – Iôxka quát ông Nikifo.

- Đến làm lễ cầu hồn cho con tôi họ cũng không cho phép! - Nikifo nói, không chú ý tới lời của Iôxka - Tao phải đi đến Kiep, đến tận đức giáo chủ. Ngài chưa thương là tao chưa chịu.

- Thôi đi! - Iôxka nhắc lại - Chỉ cần đổi lấy một sợi tóc của cô ấy thôi, tôi cũng sẵn lòng bán ngay cái cuộc đời ghẻ lở của tôi. Thế mà ông lại nỡ hỏi như vậy!

Bất thình lình anh ta bật khóc, tuy cố nén lại nhưng vẫn nức nở. Vì cố nén từ trong cổ họng anh ta bật ra tiếng rít khe khẽ.

______________________________

1. Nguyên văn - Đừng như vua Đavít ngồi trên ngai vàng mà nhiễu họ.

- Khóc đi, thằng ngốc! - Nikifo nói một cách bình thản và còn có vẻ khuyến khích nữa là khác. - Nếu không vì Khơrixchia yêu mày thì tao đã giết phắt mày rồi, thằng tội đồ giẻ cùi ạ, tội vạ đâu tao chịu.

- Xin ông thôi đi cho! - Iôxka hét lên - Mời ông! Có lẽ tôi cũng đang mong được như thế! Thà chết mục trong mồ còn hơn.

- Mày ngốc vẫn hoàn ngốc! - Nikifo trả lời bằng một giọng buồn thảm - Được, về đến Kiep tao sẽ giết mày đi cho mày khỏi làm khổ tao. Tao cực lắm rồi.

- Thế vì ai mà ông phải bỏ nhà bỏ cửa ra đi? - Iôxka thôi khóc, hỏi.

- Chẳng vì ai sất. Tao đóng chặt cửa lại, thế là xong. Bây giờ tao cần cóc gì cái nhà ấy nữa, cũng như người chết thì cần thuốc lá ngửi làm quái gì.

Tôi chú ý nghe câu chuyện khó hiểu ấy. Trên sông Pripiat sương mù dâng lên như một bức tường. Từ những tấm ván ẩm mốc bốc lên mùi găn gắt như mùi thuốc. Trong thị trấn, những con chó uể oải cắn suông.

- Giá mà biết được cái tàu phải gió ấy bao giờ nó đến! - Nikifo bực dọc nói - kể ra có nửa chai ngang mà nhậu thì hay, Iôxka nhỉ? Cũng đỡ buồn. Ờ nhưng kiếm đâu ra rượu bây giờ?

Tôi dựa lưng vào tường, sưởi ấm trong chiếc áo choàng.

Sáng ngày ra tàu thủy vẫn chưa tới. Kuse nói rằng tại sương mù nên nó đậu lại qua đêm ở một nơi nào đó thôi và có nóng ruột cũng vô ích, bởi vì thế nào nó cũng đỗ lại Tsecnơbưn vài giờ.

Tôi uống no nước chè. Ignachi Lôiôla ra về.

Buồn, tôi đi lang thang, trong thị trấn. Trên đường phố chính, các quán hàng đã mở cửa. Mùi cá ướp và mùi xà phòng giặt từ trong những quán hàng ấy bay ra. Ở cửa hiệu cắt tóc có tấm biển dựng trên một cái chạng gỗ, người chủ mặt đầy tàn nhang, mặc áo khoác, đang đứng cắn hạt dưa.

Chả biết làm gì, tôi rẽ vào cạo mặt. Ông thợ cạo thở dài, quệt bọt xà phòng mát lạnh lên mặt tôi và bắt đầu cuộc hỏi cung nhã nhặn thường gặp ở các hiệu cắt tóc tỉnh lẻ rằng tôi làm gì và tại sao lại đến thị trấn này.

Bỗng trẻ con chạy sầm sầm trên những tấm ván lát hè, vừa chạy vừa huýt sáo, nhăn nhó giễu cợt và giọng nói quen thuộc của Iôxka lại vang lên:

Ta không dùng bài ca hùng tráng

Phá giấc mộng vàng người đẹp ta yêu

- Laza! - Bên kia bức vách bằng ván ghép một giọng phụ nữ quát - Cài then cửa lại! Lại thằng Iôxka say rượu đấy. Sao lại như vậy kia chứ? Trời, không hiểu được.

Ông thợ cạo cài then cửa và kéo rèm che.

- Hễ nhìn thấy ai trong hiệu là y như rằng nó rẽ ngay vào rồi hát hỏng, nhảy múa và khóc lóc - ông thợ cạo thở dài giải thích.

- Anh ta làm sao vậy? - Tôi hỏi.

Ông thợ cạo không kịp trả lời. Một thiếu phụ trẻ đầu tóc bơ phờ, đôi mắt ngạc nhiên, long lanh vì xúc động từ bên kia bức vách bước ra.

- Ông nghe đây, ông khách! - Thiếu phụ nói - Trước tiên, xin chào ông! Hai là, Laza không biết gì mà kể cho ông nghe đâu, bởi vì đàn ông không thể nào hiểu nổi trái tim đàn bà. Sao? Đừng lắc đầu quầy quậy thế, Laza! Còn ông, thì xin ông hãy nghe đây và hãy nghĩ kỹ về những điều tôi nói với ông. Tôi sẽ nói để ông biết vì tình yêu, người con gái kia đã phải khổ sở như thế nào.

- Manhia - người thợ cạo nói - Đừng có phởn.

Iôxka kêu gào ở đâu đó, xa xa:

Khi tôi chết, các người hãy đến

Thăm nấm mồ bé nhỏ của tôi

Tặng nhau, mang mấy miếng dồi

Và rượu đắng một chai lừa lọc.

- Khiếp chưa! - Manhia nói. - Mà đó là Iôxka đấy! Chính cái anh Iôxka đáng lẽ thì học y sĩ ở Kiep, con bà Pêxia, một bà mẹ tốt bụng nhất cái thị trấn Tsecnơbưn đấy. Ơn Chúa, may mà bà không phải sống đến cái ngày nhục nhã này. Ông khách ạ, ông cũng thừa hiểu là người đàn bà phải yêu tới mức nào thì mới có thể vì người yêu mà sẵn lòng chịu mọi nỗi khốn khổ!

- Sao, nhà nói cái gì vậy,... Manhia? - người thợ cạo kêu lên. - Ông khách nghe mà ông ấy chẳng hiểu gì đâu.

- Hồi đó ở đây có hội chợ - Manhia nói. - Ông gác rừng góa vợ Nikifo ở mạn Kacpilôpka cùng với cô con gái độc nhất của ông ta là Khơrixchia cũng đi xem. Trời, giá mà ông được thấy cô ấy! Ông sẽ mất hồn đấy, ông khách ạ! Nói để ông biết, mắt cô ấy xanh như da trời kia kìa, còn đuôi tóc tết của cô ấy thì vàng ươm như thể chúng được gội trong nước vàng vậy. Mà cô ấy mới dịu dàng làm sao! Mới thanh tú làm sao, tôi chưa từng thấy ai như vậy! Thế rồi Iôxka trông thấy cô, và anh chàng chết lặng đi. Hắn phải lòng cô ta. Chuyện đó thì chẳng có gì là lạ. Đến hoàng đế mà gặp cô ấy thì rồi cũng phải say đắm đến héo ruột héo gan. Chỉ lạ một nỗi là Khơrixchia lại yêu Iôxka! Ông thấy hắn rồi chứ gì? Người thì nhỏ tẹo chỉ bằng cái thằng bé này, tóc thì đỏ cạch, tiếng thì the thé, tính tình thì gàn dở. Nói tóm lại, cô ấy bỏ bố đến ở với Iôxka. Ông hãy đến mà xem cái nhà ấy! Cứ nhìn kỹ mà xem! Đến một con dê ở còn chật, huống hồ họ những ba người. Chỉ được cái sạch sẽ. Thế rồi ông thử đoán xem nào. Bà Pêxia đón tiếp cô ấy như đón tiếp một nàng công chúa vậy. Khơrixchia ở lại với Iôxka thành vợ thành chồng và hắn, cái anh chàng Iôxka ấy, vui vẻ hẳn lên, mặt mũi cứ sáng sủa như đèn ban đêm. Ông chắc cũng thừa biết người Do thái ăn ở với người theo đạo chính thống thì như thế nghĩa là thế nào? Không ai làm phép cưới cho họ. Iôxka mới quyết định xin theo đạo và vào nhà thờ gặp cha Mikhain. Nhưng cha bảo: “Đáng nhẽ nhà anh phải xin theo đạo trước rồi mới được ngủ với con gái theo đạo Chúa. Anh làm ngược lại tất cả và bây giờ nếu không được phép của giáo chủ thì ta sẽ không làm lễ cưới cho anh đâu, anh quý tộc Giêruxalem ạ”. Iôxka gọi cha bằng một cái tên tục tĩu rồi bỏ đi. Lúc đó ông ravin(1) của chúng tôi tức thì thọc tay vào. Ông biết tin Iôxka muốn xin theo đạo chính thống và nguyền rủa hắn vì chuyện đó cho tới mười đời trong nhà thờ Do thái. Đúng lúc ấy Nikifo cũng vừa đến, gục xuống chân con gái, van nài cô trở về. Khơrixchia chỉ khóc chứ nhất định không chịu về. Bọn trẻ, tất nhiên là có người xui chúng, hễ cứ nhìn thấy Khơrixchia ở đâu là la hét: “Ê,Khơrixchia, đồ ngoại giáo! Có thèm một miếng thịt cấm không?” Và nắm tay dứ cô. Ở ngoài phố người ta nghiêng ngó nhìn theo Khơrixchia, cười giễu. Có lần một người đã lượm cục phân từ bên trong hàng rào ném vào lưng cô. Khắp nhà bà Pêxia, chỗ nào cũng bị quét hắc ín, ông có thể tưởng tượng được không?

- Trời, bác Pêxia! - Người thợ cạo thở dài. - Đấy mới thật là một người đàn bà!

- Im, người ta kể nào! - Manhia gắt ông. - Ravin mới gọi bà Pêxia lại và bảo rằng “Bà Pêxia Izailepna kính mến ơi, bà đã để cho chuyện loạn hôn xảy ra trong nhà bà. Bà chống lại luật đạo. Tôi nguyền rủa nhà bà và đức Giêhôva sẽ trừng phạt

______________________________

1. Một chức trong cộng đồng những người Do thái, chuyên trách về đời sống tinh thần, phong tục, tập quán của những người này.

bà như trừng phạt một con điếm. Bà hãy thương lấy cái đầu bạc của bà”. Ông có biết bà Pêxia trả lời thế nào không? Bà Pêxia mới trả lời thế này ”Ông không phải là ravin! Ông là một tên đội xếp! Người ta yêu nhau thi mặc người ta, can gì ông phải thò đôi tay béo mập vì mỡ sấy của ông vào chuyện người khác”. Bà nhổ bọt rồi đi ra. Ông ravin bèn nguyền rủa cả bà nữa trong nhà thờ. Ở đây người ta biết cách hành hạ con người như thế đấy. Nhưng ông chớ nói lại với ai nhé! Cả thị trấn này xôn xao hẳn lên, không ai còn biết đến gì khác ngoài chuyện ấy. Cuối cùng, lão quận trưởng cảnh sát Xukharenkô mới gọi Iôxka và Khơrixchia lại mà bảo: “Iôxka, tôi đưa anh ra tòa vì tội đã lăng mạ đức cha Mikhain dòng chính thống. Rồi anh sẽ được nếm mùi khổ sai của ta. Còn Khơrixchia, ta sẽ cưỡng bức cô về với bố. Ta cho ba ngày suy nghĩ. Các người làm rối loạn cả huyện này rồi. Vì các người, ta sẽ bị ngài tỉnh trưởng quở trách”.

Ngay sau đó Xukharenkô bèn tống Iôxka vào nhà đá. Về sau này ông ta nói rằng ông ta chỉ định dọa Iôxka thôi. Thế rồi sự thể ra sao, ông có đoán được không? Tôi nói ông không tin đâu, nhưng Khơrixchia đã đau đớn quá mà chết. Trông cô mà thương. Người nào tốt cũng mủi lòng. Cô ấy khóc ròng mấy ngày, rồi nước mắt cũng chả còn, mắt khô lại, cô ấy chẳng ăn uống gì hết. Chỉ một mực van lơn người ta cho cô đến với Iôxka. Đúng vào ngày lễ Iôm Kipua, ngày lễ Phán xét, lúc chiều tối cô ngủ thiếp đi rồi cứ thế không bao giờ dậy nữa. Cô ấy nằm, nom mới trắng trẻo và hạnh phúc làm sao - chắc cô ấy cảm ơn Chúa đã rước cô đi khỏi cuộc đời khốn nạn này. Vì sao Khơrixchia phải chịu hình phạt ấy, nếu chỉ vì cô ta yêu anh Iôxka nọ? Ông hãy nói cho tôi biết, vì sao?! Chả lẽ trên trái đất này không còn có ai nữa sao? Lão Xukharenkô vội thả ngay Iôxka, nhưng hắn đã hoàn toàn trở thành người mất trí. Iôxka bắt đầu uống rượu từ đó và đi ăn xin.

- Tôi mà như anh ta thì thà chết quách còn hơn - người thợ cạo nói. Tôi sẽ cho một viên đạn vào trán.

- Chao ôi, các người mới dũng cảm làm sao! - Manhia kêu lên. Ấy thế mà khi việc đến tay thì lại vội tránh xa cái chết hàng trăm dặm. Các người làm sao hiểu được chuyện tình yêu có thể đốt thành tro trái tim người đàn bà.

- Trái tim đàn bà với chả lại trái tim đàn ông - người thợ cạo trả lời và nhún vai. - Có gì khác nhau kia chứ?

Từ hiệu thợ cạo tôi trở về quán trọ. Cả Iôxka lẫn Nikifo đều không thấy ở đó. Kuse mặc chiếc áo ghilê sờn đang ngồi bên cửa sổ, uống trà. Trong phòng những con ruồi béo mập bay vù vù.

Chiếc tàu thủy nhỏ bé mãi tối mới đến. Nó đỗ lại Tsecnơ bưn cho tới đêm. Người ta cho tôi một chỗ nằm trong phòng khách của tàu, trên một cái đi văng bọc vải sờn cũ rích.

Đêm, sương lại xuống. Tàu thủy đâm vào bờ, cứ thế nó đứng mãi cho đến sáng bạch, đợi cho sương tan hết. Tôi không gặp Nikifo trên tàu. Chắc hẳn ông ta đã bắt đầu bét nhè cùng với Iôxka.

Tôi kể lại tỉ mỉ câu chuyện như thế bởi vì vừa chân ướt chân ráo về Kiep tôi đã đốt phăng quyển vở với những bài thơ đầu tiên của tôi. Không một chút thương tiếc, tôi nhìn những dòng chữ cầu kỳ đang biến thành tro và những “bọt pha lê”, những “bầu trời bằng ngọc xanh”, những tửu điếm và những điệu nhảy của các cô gái digan Tây Ban Nha, chết đi không bao giờ sống lại.

Tôi tỉnh ngộ ngay lập tức. Thì ra tình yêu không phải đi liền với sự héo hắt của những bông hoa súng đang chết dần, mà với những cục phân. Người ta đã ném phân vào lưng một thiếu phụ tuyệt đẹp đang yêu.

Nghĩ về chuyện đó, tôi chợt nhớ đến những chữ “Thế kỷ kinh khủng, những tâm hồn kinh khủng” và quyết định viết truyện ngắn đầu tiên của mình, tôi tự nhủ, một “Truyện ngắn chính cống” về số phận của Khơrixchia.

Tôi vật lộn mãi với truyện ngắn này và không hiểu được vì sao khi viết nó lại cứ khô héo và nhợt nhạt mặc dầu nội dung câu chuyện thật thê thảm. Sau rồi, tôi cũng đoán ra được. Trước hết, đó là vì nó được viết bằng lời người khác, hai là vì tôi đã quá say mê với tình yêu của Khơrixchia mà bỏ qua cái nếp sống cuồng tín tàn bạo của thị trấn.

Tôi viết lại, chính tôi cũng phải ngạc nhiên vì không sao “đặt được” vào trong truyện những từ cầu kỳ và đẹp. Nó đòi hỏi sự thật và sự giản dị.

Khi tôi mang truyện ngắn đầu tiên này của tôi lại tòa soạn, nơi trước kia đã đăng thơ của tôi thì ông chủ bút bảo:

- Đừng phí công vô ích, anh bạn trẻ ạ. Truyện ngắn này không thể nào đăng được. Chỉ riêng về cái lão quận trưởng cảnh sát trong truyện người ta cũng đủ làm rầy chúng tôi rồi. Nhưng nói chung, truyện viết chắc tay đấy. Anh hãy mang lại cho chúng tôi một cái gì khác vậy. Mà nhớ là phải ký bí danh. Anh là học sinh trung học mà. Người ta có thể đuổi anh ra khỏi trường vì chuyện đó.

Tôi lấy lại truyện ngắn và cất đi. Mãi tới mùa xuân năm sau tôi mới lấy ra, đọc lại và hiểu thêm được một điều nữa: trong truyện ngắn không thấy tác giả, không cả niềm căm giận, không cả những ý nghĩ, không cả sự kính phục của tác giả trước tình yêu của Khơrixchia.

Tôi liều viết lại một lần nữa và mang đến cho ông chủ bút, không phải để in mà là để ông ta đánh giá.

Ông chủ bút đọc xong truyện ngắn trước mặt tôi rồi đứng dậy, vỗ vai tôi và nói một câu cụt lủn:

- Tôi ủng hộ.

Như thế, lần đầu tiên tôi khẳng định một cách chắc chắn rằng đối với nhà văn điều căn bản là phải thể hiện mình một cách đầy đủ nhất và rộng rãi nhất trong bất cứ tác phẩm nào, dù chỉ trong một truyện ngắn nhỏ như vậy, và bằng cách đó thể hiện thời đại mình đang sống và nhân dân. Trong việc thể hiện mình này không có gì đáng làm nhà văn phải chùn bước: không cả sự hổ thẹn rởm trước độc giả, không cả nỗi lo sợ phải nhắc lại những điều mà nhà văn khác đã nói (nhưng nói một cách khác), không cả sự e ngại các nhà phê bình lẫn ông chủ bút.

Trong lúc làm việc cần phải lãng quên mọi sự và viết như thể viết cho mình hoặc người thân nhất của mình.

Phải tạo cho thế giới bên trong của mình được tự do, mở mọi cửa cho nó và bất thần anh sẽ phải ngạc nhiên mà nhận thấy rằng trong ý thức của anh, những ý nghĩ tình cảm và tứ thơ hóa ra lại giàu có hơn là anh tưởng rất nhiều.

Quá trình sáng tạo, trong dòng đi của nó, dần có thêm những tính chất mới, phức tạp lên và giàu có thêm.

Cái đó cũng giống như mùa xuân trong thiên nhiên. Độ ẩm của mặt trời không thay đổi. Nhưng nó làm tan tuyết, sưởi ấm không khí, mặt đất và cây cối. Đất đai tràn ngập tiếng động, tiếng sóng vỗ, ánh lấp lánh của những giọt và dòng nước băng tan - hàng nghìn dấu hiệu của mùa xuân - trong khi đó tôi nhắc lại, độ ấm của mặt trời vẫn không thay đổi.

Trong sáng tác cũng vậy. Cảm thức của ta về thực chất không thay đổi. Nhưng trong lúc ta làm việc, nó dấy lên những trận cuồng phong, những dòng, những thác ý nghĩ mới và hình ảnh mới, những cảm giác mới và những từ mới. Chính vì thế mà nhiều khi người ta phải ngạc nhiên trước cái mình viết ra.

Chỉ có người nào nói được với mọi người những điều mới, có ý nghĩa thú vị, nhìn thấy nhiều điều mà những người khác không nhận ra, người đó mới có thể là nhà văn.

Riêng đối với tôi, tôi rất chóng vánh hiểu ra rằng tôi chỉ có thể nói được rất ít, ít đến bực mình. Và tôi cũng hiểu rằng cảm hứng trong sáng tác cũng dễ tắt như nó dễ bùng lên, nếu ta bỏ đói nó. Cái vốn quan sát cuộc sống của tôi lúc đó quá nghèo nàn và chật hẹp.

Lúc đó tôi đặt cuốn sách lên trên cuộc đời chứ không phải đặt cuộc đời lên trên cuốn sách. Cần phải làm cho cuộc sống tràn đầy trong ta.

Sau khi hiểu ra điều ấy, tôi hoàn toàn bỏ viết, trong mười năm liền, và như Gorki nói, “đi vào con người” tôi bắt đầu lang thang trên đất nước Nga, làm hết nghề này đến nghề khác và tiếp xúc với đủ mọi loại người.

Nhưng đó không phải là một cuộc đời nhân tạo. Tôi không phải là một người quan sát chuyên nghiệp hay là người sưu tầm sự kiện.

Không! Tôi sống, thế thôi, không hề cố gắng ghi chép hoặc nhớ lấy dù chỉ là một chút gi cho những tác phẩm của tương lai.

Tôi sống, tôi làm việc, tôi yêu, tôi đau khổ, tôi hi vọng, tôi mơ ước, chỉ biết chắc một điều rằng sớm hay muộn, tuổi trưởng thành hoặc hơn nữa, thậm chí có thể tuổi già, nhưng tôi sẽ viết. Tôi sẽ viết không phải là vì tôi đặt ra cho mình nhiệm vụ ấy mà là vì bản chất tôi đòi tôi phải làm như vậy. Và bởi vì văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới.

 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86332


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận