Bông Hồng Vàng Và Bình Minh Mưa Chương 9


Chương 9
Những cái tưởng chừng như vặt vĩnh

Hầu như nhà văn nào cũng có người cổ vũ mình, ông thần thiện của mình và thường người đó cũng là một nhà văn.

Chỉ cần đọc lấy vài dòng trong cuốn sách của người cổ vũ ta, thế là tức khắc chính mình đã muốn viết. Tưởng như từ mấy cuốn sách ấy, một thứ nước cốt gây men đã bắn ra, làm ta say, lây sang ta và bắt ta cầm bút.

Chỉ lạ một điều là thường thường ông thần thiện của ta lại khác xa ta về phong cách sáng tác cũng như về bút pháp và đề tài.

Tôi biết một nhà văn - một nhà hiện thực vững vàng, hay viết về đời sống bình thường, một con người tỉnh táo và trầm tĩnh. Đối với ông, vị thần thiện của chính ông lại chính là nhà văn có trí tưởng tượng bất kham Alếchxanđrơ Grin(1).



Gaiđa gọi Đichkenx(2) là người cổ vũ của anh. Còn đối với tôi thì bất cứ trang nào trong cuốn Những bức thư từ Lamã của Xtăngđan(3) cũng làm tôi muốn viết, thế nhưng tôi lại viết những

______________________________

1. Nhà văn Xô Viết (1880-1932)

2. Nhà văn Anh (1812-1870)

3. Nhà văn Pháp (1783-1842)

truyện khác Xtăngđan đến nỗi chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Một lần vào mùa thu, khi đọc Xtăngđan tôi đã viết truyện ngắn Khu rừng 273 về những khu rừng cấm bên sông Prê. Trong truyện ngắn đó hoàn toàn không thể tìm thấy một chút gì giống Xtăngđan.

Thú thực, tôi cũng chẳng nghĩ ngợi bao nhiêu về trường hợp trên. Tất nhiên, ta cũng có thể tìm được cách giải thích nó. Tôi nhắc đến chuyện ấy chẳng qua chỉ để nói đến rất nhiều hoàn cảnh và thói quen mới nhìn qua thì có vẻ chẳng mấy quan trọng, nhưng lại giúp cho nhà văn làm việc.

Mọi người đều biết Puskin viết tốt nhất vào mùa thu. Chả thế mà thời kì Mùa thu ở Bônđin của ông đã đồng nghĩa với sự được mùa viết của ông.

“Mùa thu đang tới gần - Puskin viết cho Pletnhép - Đó là mùa mà tôi thích nhất, sức khỏe của tôi vào mùa này thường vững chắc hơn. Thời sáng tác của tôi đã đến”.

Đoán xem tại sao như vậy thật dễ dàng.

Mùa thu là cái trong suốt và giá lạnh, là “màu biệt ly” với nét cắt phân minh của những chân trời xa và hơi thở tươi mát. Mùa thu đưa vào thiên nhiên một bức vẽ hà tiện nét. Màu đỏ thắm và màu vàng óng của rừng lớn và rừng nhỏ mất dần đi từng giờ, làm cho những đường nét sắc thêm và để lại những cành cây trụi lá.

Con mắt cứ quen dần với cái trong sáng của cảnh thu. Cái trong sáng ấy từ từ chiếm lấy ý thức, sức tưởng tượng và cánh tay nhà văn. Mạch nguồn thơ văn phụt lên một dòng nước trong suốt và giá lạnh trong đó chỉ có những hạt băng mới thỉnh thoảng reo lên khe khẽ. Đầu óc sáng suốt, tim đập mạnh và đều. Chỉ có tay là hơi cóng.

Vụ mùa tư duy của con người chín vào mùa thu. Baratưnxki đã nói về truyện đó rất hay: “khi số mệnh nhân quần người hiểu hết, sẽ chín mọng một vụ mùa thân thiết, cho người về hái gặt hạt tư duy.”

Theo lời Puskin thì cứ mỗi mùa thu ông lại tươi nở. Ông trẻ lại cùng với mỗi mùa thu. Rõ ràng Gơtơ đã đúng khi ông cả quyết rằng trong đời những thiên tài thường có mấy lần tuổi xuân trở lại.

Vào một trong những ngày thu như thế Puskin đã sáng tác những vần thơ nói lên một cách hết sức sáng rõ quá trình sáng tạo phức tạp của nhà thơ.

Tôi lãng quên thế giới

Trong im lặng ngọt ngào

Tưởng tượng ru đưa tôi vào mộng

Và nàng thơ thức giấc trong lòng tôi xao động

Trong tim tôi niềm xúc cảm trữ tình

Và run rẩy, và ngân vang, và dò tìm trong ánh mộng

lung linh

Để sau hết trào luôn trong biểu đạt

Đến với tôi đám khách vô hình, bạn cũ chưa biết mặt

Con đẻ ước mơ tôi - và những ý sục sôi

Trong dũng khí. Vần điệu thênh thang nghênh đón chào mời

Và ngón tay đòi bút, bút đòi trang giấy trắng

Một phút qua. Và dào dạt thơ tuôn...

Đây là một phân tích sáng tỏ lạ thường về sáng tác. Người ta chỉ có thể tạo ra nó trong cơn phấn chấn cao độ của tâm hồn.

Ở Puskin còn có một điểm đặc biệt nữa. Những đoạn mà ông thấy không đạt trong tác phẩm của mình, ông bỏ qua ngay, không bao giờ dừng lại, và cứ tiếp tục viết. Sau ông mới quay về với những đoạn đã bỏ qua trước kia, nhưng cũng chỉ quay về khi nào trong ông có cái hưng phấn của tâm hồn, mà ông gọi là cảm hứng phải xuất hiện.

Tôi đã thấy cách làm việc của Gaiđa. Anh làm việc khác hẳn cách làm việc thông thường ở các nhà văn.

Hồi ấy chúng tôi ở một làng trong những khu rừng Mêse. Gaiđa ở trong một ngôi nhà lớn trông ra đường phố làng quê, còn tôi thì ở trong một ngôi nhà trước kia là nhà tắm công cộng nằm sâu trong khu vườn.

Lúc đó Gaiđa đang viết cuốn Số phận chú bé đánh trống. Chúng tôi giao ước với nhau làm việc cho đến nơi đến chốn từ sáng đến trưa và trong khoảng thời gian đó không rủ rê nhau đi câu.

Một hôm tôi ngồi viết trong nhà tắm bên cửa sổ bỏ ngỏ, nhưng chưa viết được lấy một phần tư trang thì đã thấy Gaiđa từ trong ngôi nhà lớn đi ra. Anh đi ngang qua cửa sổ, chỗ tôi ngồi, coi bộ hết sức ung dung và thản nhiên.

Tôi giả vờ không trông thấy anh, Gaiđa đi đi lại lại trong vườn, càu nhàu một mình điều gì đó, rồi lại đi ngang qua cửa sổ, nhưng lần này thì rõ ràng là cố ý bắt tôi phải chú ý tới anh. Anh huýt sáo miệng và vờ ho.

Tôi im lặng. Tức thì Gaiđa đi qua lần thứ ba và bực bội nhìn tôi. Tôi một mực im lặng.

Gaiđa không chịu nổi nữa.

- Này, - anh ta nói - đừng giở trò ngốc. Dù sao thì cậu cũng viết nhanh như gió, có dừng lại ít chút cũng chẳng chết ai. Bôbôrưkin mới gớm chứ! Nếu tớ mà viết được như hắn ta thì tớ đã có toàn tập một trăm mười tám cuốn.

Anh ta rất thú cái con số ấy và nhắc lại một cách khoái trá:

- Một trăm mười tám cuốn! Không kém cuốn nào!

Tôi nói:

- Này, thôi, cậu nói đi: cậu cần gì?

- Tớ cần cậu nghe xem tớ đã nghĩ được một câu hay đến như thế nào.

- Câu gì?

- Cậu nghe đây: “Ông già đau khổ, thật đau khổ - hành khách nói”. Được không?

- Làm sao tớ biết được. Còn phải xem câu ấy đứng ở chỗ nào và liên quan đến cái gì đã chứ - tôi trả lời.

Gaiđa nổi khùng:

- “Liên quan đến cái gì”,“Liên quan đến cái gì”! - anh nhại tôi - Liên quan đến cái cần phải liên quan chứ còn liên quan đến cái gì nữa! Thôi, mặc xác cậu! Ngồi đi, ngồi mà chép tác phẩm của cậu. Tớ đi viết câu ấy.

Nhưng anh không chịu được lâu. Sau đó hai mươi phút anh lại đi đi lại lại dưới cửa sổ buồng tôi.

- Thế nào, cậu còn nghĩ ra được câu nào tài tình nữa không đấy? - tôi hỏi.

- Này, - Gaiđa nói - Trước kia mình chỉ ngờ ngợ cậu là một thằng trí thức hết gân và hay giễu cợt người. Bây giờ thì tớ tin chắc như vậy. Hơn nữa tớ cay đắng mà tin như vậy.

- Thôi cậu đi đi! - Tôi nói. - Tớ xin cậu đấy, đừng quấy nữa.

- Này, thằng cha Lagiếchnhikốp mới cừ chứ!

Gaiđa nói, nhưng rồi anh cũng bỏ đi.

Năm phút sau anh trở lại và từ đằng xa đã kêu ầm lên cho tôi nghe một câu mới. Câu đó, nói của đáng tội, thật bất ngờ và hay. Tôi khen anh. Gaiđa cũng chỉ cần có thế.

- Có vậy chứ! - Anh nói - giờ thì tớ cũng thôi không bao giờ đến cậu nữa. Không bao giờ! Tớ sẽ kiếm cách viết không cần đến sự giúp đỡ của cậu.

Và bất thình lình anh nói thêm bằng một thứ tiếng Pháp hết

sức quái gở:

- O rơvoa, mơxiơ lêcơrivanh ruýtxơ xôviêtich(1).

Hồi đó anh đang mê tiếng Pháp và mới bắt đầu học.

Gaiđa trở ra vườn mấy lần nữa nhưng không quấy rầy tôi mà chỉ đi đi lại lại trên con đường nhỏ ở xa và lẩm bẩm điều gì.

Cách làm việc của anh là như vậy: vừa đi vừa nghĩ ra những câu văn, ghi lại, rồi lại nghĩ. Suốt ngày anh hết ở trong nhà lại ra ngoài vườn. Tôi lấy làm ngạc nhiên và tin chắc rằng Gaiđa viết cuốn truyện dài của anh rất chậm. Nhưng sau hóa ra đấy là mẹo lừa của anh và anh ghi chép được nhiều hơn nhiều, chứ không phải chỉ từng câu một.

Hai tuần sau anh hoàn thành cuốn Số phận chú bé đánh trống. Anh lại cái nhà tắm của tôi, vui vẻ và thỏa mãn. Anh hỏi tôi:

- Cậu có muốn tớ đọc cậu nghe truyện dài của tớ không?

Tất nhiên, tôi rất muốn nghe.

- Thế thì cậu nghe đây! - Gaiđa dừng lại ở giữa phòng, đút hai tay vào túi quần, nói.

Tôi hỏi:

- Thế bản thảo đâu?

Gaiđa lên giọng kẻ cả, trả lời;

- Chỉ có thứ nhạc trưởng quên mới đặt bản hợp tấu lên giá nhạc trước mặt. Tớ cần gì đến bản thảo! Nó đang nằm nghỉ trên bàn. Cậu có nghe không đã?

Và anh đọc thuộc lòng cho tôi nghe hết cuốn truyện dài, từ câu đầu đến câu cuối.

- Thế nào cậu cũng lẫn lộn ra trò ở một số đoạn nào đó. - Tôi nói với một vẻ hoài nghi.

- Tớ đánh cuộc với cậu này: - Gaiđa nói lớn - Không thể có quá mười lỗi! Nếu cậu thua thì mai đi ngay Riadan mua cho tớ cái phong vũ biểu cổ ở chợ Giời. Tớ đã để ý nó rồi! Ở cái ______________________________

1. Tạm biệt, ông nhà văn Nga Xô Viết (tiếng Pháp)

bà lão ấy mà - cậu nhớ không? - cái bà lão mà lúc trời mưa cứ lấy chụp đèn đội lên đầu ấy. Tớ sẽ mang bản thảo lại ngay bây giờ.

Anh mang bản thảo đến và đọc lại cho tôi nghe lần thứ hai. Tôi theo dõi bản thảo. Anh chỉ nhầm mất vài chỗ, nhưng là những chỗ không quan trọng lắm. Vì câu chuyện đó, chúng tôi cãi vã mấy ngày liền xem Gaiđa có được cuộc hay không. Nhưng cái đó không liên quan trực tiếp đến truyện ngắn này.

Cuối cùng tôi phải mua phong vũ biểu cho anh. Gaiđa rất mừng. Chúng tôi quyết định tổ chức những cuộc đi câu theo lời chỉ dẫn của cái thiết bị bằng đồng cồng kềnh nọ. Nhưng chúng tôi đã mắc lừa một cách thảm hại và bị ướt từ đầu đến chân vì cái phong vũ biểu tiên đoán “cực khô ráo” mà trong thực tế trời lại mưa cho ba ngày liền.

Đó là khoảng thời gian đẹp đẽ vô cùng của những câu nói đùa bất tận, những cuộc đấu “bất phân thắng bại”, những trận khẩu chiến về văn học và những buổi đi câu ở các ao hồ và lòng sông cạn. Tất cả những cái đó, bằng một cách khó hiểu, đã giúp chúng tôi sáng tác.

Tôi được ở gần Fêđin khi anh bắt đầu viết cuốn Một mùa hè kì lạ.

Xin Fêđin tha lỗi cho tôi đã cả gan viết về chuyện đó. Nhưng tôi nghĩ rằng cách làm việc của mỗi nhà văn nhất là những nhà văn bậc thầy như Fêđin đều thú vị và có ích không riêng đối với các nhà văn, mà với tất cả mọi người yêu văn học.

Chúng tôi ở trong một ngôi nhà nhỏ ngay bên cạnh bờ biển vùng Gagrư. Ngôi nhà giống như những quán trọ cho thuê dài hạn trước cách mạng, trông không khác một cái nhà ổ chuột là mấy.

Khi có bão, nó run lên cầm cập trước gió và những ngọn sóng đập vào bờ. Nó kêu cọt kẹt, răng rắc và tưởng chừng sẽ sụp xuống ngay đấy. Những cánh cửa mất khóa mỗi lần có gió lùa là lại tự động mở ra chậm chạp và dọa nạt. Chúng dừng lại, bất động trong vài giây, và sau khi đã suy nghĩ, bất thình lình đóng sầm lại và gây ra một tiếng động mạnh đến nỗi vữa trên trần rơi xuống lả tả.

Hết thảy những con chó lang thang ở Tân Gagrư và Cựu Gagrư đều ngủ ngay ở phía dưới sân trời của ngôi nhà này. Đôi khi, lợi dụng chủ nhà đi vắng, chúng chui vào phòng, nằm trên giường và ngáy một cách yên lành.

Vào phòng mình anh phải thận trọng, bất kể tính nết của con chó đã chiếm giường anh là thế nào. Con nào biết điều và nhút nhát thì đã vội vã nhảy ra và kêu ăng ẳng một cách tuyệt vọng rồi chuồn thẳng. Nếu anh giẫm phải chân nó thì vì sợ hãi nó có thể đớp ngay cho anh một miếng.

Nếu gặp phải con chó càn rỡ và giàu kinh nghiệm, nó sẽ cứ nằm nguyên trên giường mà nhìn anh bằng đôi mắt căm thù, rồi bắt đầu gầm gừ một cách đáng sợ đến nỗi anh buộc lòng phải gọi hàng xóm đến giúp.

Cửa sổ buồng Fêđin trông ra sân trời ngay ở trên mặt biển. Trong những ngày biển động, người ta xếp tất cả ghế mây ở gác sân lại thành một đống bên cạnh cửa sổ để nước biển khỏi bắn làm ướt. Lũ chó ngồi suốt buổi trên đống ghế ấy và nhìn xuống Fêđin đang lúi húi viết. Chúng rền rĩ vì muốn được vào trong căn phòng ấm cúng có đèn sáng của anh.

Lúc đầu Fêđin phàn nàn rằng lũ chó làm anh phát rùng mình. Cứ vừa rời bản thảo ra mà suy nghĩ một tí, nhìn ra cửa sổ là hàng chục con mắt rực lửa căm hờn của chúng đã bám chặt lấy anh. Cái đó thậm chí làm cho anh cảm thấy hơi ngượng, như thể anh có lỗi vì được sống trong chỗ ấm áp và làm một công việc rõ ràng vô tích sự là đưa bút lên mặt giấy.

Cái đó tất nhiên cũng hơi cản trở Fêđin trong công việc, nhưng rồi anh cũng quen đi và thôi không để ý đến lũ chó nữa.

Đa số nhà văn thường viết về sáng, một số ít viết về ban ngày và một số rất nhỏ viết đêm.

Fêđin có thể làm việc và thường làm việc vào bất cứ giờ nào. Chỉ thỉnh thoảng anh mới rời công việc để nghỉ ngơi đôi chút.

Anh viết đêm trong tiếng ồn ào không bao giờ ngừng của biển. Cái tiếng động quen thuộc ấy không những không cản trở mà còn giúp Fêđin viết tốt. Ngược lại, chính cái yên lặng mới làm phiền anh.

Một hôm, giữa đêm khuya Fêđin dựng tôi dậy và nói bằng giọng xúc động:

- Này cậu, biển im lặng. Ta đi ra sân trời nghe đi.

Hình như cả cái im ắng sâu thẳm của thế giới ngưng đọng trên bờ biển. Chúng tôi lặng đi, cố đón bắt trong bóng tối dù chỉ một tiếng sóng vỗ nhẹ, nhưng chẳng nghe thấy gì hết ngoài tiếng o o khe khẽ nơi tai. Đó là máu của chúng tôi đang reo. Trong bóng tối trên cao, cũng một thứ bóng tối của cả thế giới, những ngôi sao sáng mờ mờ. Đã quen với tiếng động độc tôn của biển, cái yên lặng ấy đè nặng lên chúng tôi. Đêm hôm đó Fêđin bỏ không làm việc.

Tất cả những gì tôi kể trên là câu chuyện về cái hoàn cảnh không quen thuộc đối với anh, trong hoàn cảnh ấy anh đã buộc phải làm việc. Tôi nghĩ rằng cái đơn giản và cái luộm thuộm của cuộc sống đã nhắc anh đến tuổi trẻ, khi chúng tôi có thể viết ở trên bệ cửa sổ, dưới ánh sáng của một ngọn đèn dầu không chao, trong căn phòng mà mực đông lại vì giá lạnh, tóm lại, trong bất cứ điều kiện nào.

Vô tình quan sát cách làm việc của Fêđin, tôi được biết rằng anh chỉ ngồi xuống viết khi nào đã nghĩ thật chín chương sách anh sắp viết, chỉnh lý nó thật cẩn thận, làm cho nó phong phú thêm bằng những suy nghĩ sâu sắc và những hồi ức, cho tới khi nó thành hình trong ý thức một cách hoàn toàn, từng câu một.

Trước khi viết, Fêđin bao giờ cũng quan sát rất kỹ cái mà anh sẽ viết, ngắm nghía nó dưới đủ mọi góc độ và chỉ viết những gì anh nhìn được rõ, hơn nữa, viết trong mối liên quan đầy đủ với toàn bộ tác phẩm.

Khối óc sáng suốt, cứng rắn và con mắt nghiêm khắc của Fêđin không bao giờ chịu bằng lòng với cái bấp bênh của chủ đề và cách thể hiện. Theo anh, văn phải được làm đi làm lại cho đến khi không có một lỗi và phải được tôi luyện cho đến lúc rắn như kim cương.

Suốt đời ông, Flôbe sống trong cuộc chạy đuổi khốn khổ rượt theo cái hoàn mỹ của bút pháp. Trong cuộc đi tìm cái trong sáng cho văn xuôi, ông không sao đứng lại được. Trong một số trường hợp, việc sửa chữa bản thảo đối với ông chẳng còn là con đường hoàn thiện văn ông, mà chỉ là làm để mà làm. Ông không còn biết đánh giá nữa, ông mệt mỏi, tuyệt vọng và rõ ràng ông đã làm cho tác phẩm của ông khô héo, mất sức sống hay là như Gôgôn từng nói: “Vẽ, vẽ, vẽ mãi thành vẽ lăng nhăng”.

Fêđin biết lúc nào nên dừng lại trong thời gian gọt dũa tác phẩm. Nhà phê bình trong người anh không bao giờ biết mệt, nhưng không đè bẹp nhà văn.

Trong con người Flôbe biểu lộ ở mức độ cao một thuộc tính của nhà văn mà những nhà lý luận văn học gọi là “nhân vật hóa”. Nói một cách giản dị hơn, nó là cái tài nhập thân vào nhân vật với một sức mạnh đến nỗi chính nhà văn cảm nghiệm một cách mãnh liệt mọi việc xảy ra với nhân vật (mà xảy ra theo ý muốn của nhà văn).

Ai cũng biết khi mô tả cái chết vì thuốc độc của Emma Bôvary, Flôbe cảm thấy đủ mọi triệu chứng ngộ độc và ông đã phải chạy đi tìm thầy thuốc.

Flôbe là một người đau khổ. Ông viết chậm đến nỗi phải thốt lên một cách tuyệt vọng: “Đáng phải vả vào mặt mình vì lối làm việc như thế?”

Ông sống ở Kroát, trên bờ sông Xen, gần tỉnh Ruăng. Cửa sổ buồng làm việc của ông trông ra sông.

Suốt đêm, một ngọn đèn chụp xanh cháy sáng trong căn phòng làm việc đầy những đồ vật lạ mắt của Flôbe. Flôbe làm việc về đêm. Ngọn đèn chỉ tắt khi trời bắt đầu sáng.

Ngọn đèn lúc nào cũng cháy sáng như một ngọn hải đăng. Thực vậy, trong những đêm tối trời, cửa sổ phòng Flôbe đã trở thành ngọn hải đăng cho dân chài sông Xen và cho cả những thuyền trưởng của những con tàu biển đi ngược dòng từ cửa Lơ Havrơ vào Ruăng. Những viên thuyền trưởng biết rằng ở khúc sông này muốn khỏi đi chệch luồng thì phải “giữ hướng cửa sổ nhà ông Flôbe”.

Thỉnh thoảng họ trông thấy một người đàn ông vạm vỡ trong chiếc áo choàng sặc sỡ phương Đông. Người đó đi đến bên cửa sổ, gục đầu vào thành cửa và nhìn ra sông Xen. Đó là điệu bộ của người mệt mỏi đến rã rời. Nhưng vị tất những người thủy thủ kia biết được rằng người đứng sau cửa lại là một nhà văn vĩ đại của nước Pháp, một người khổ sở vì cuộc vật lộn để đạt tới sự hoàn mỹ văn xuôi, cái “thể lỏng đáng nguyền rủa nhất định không chịu nhận một hình thức nhất định.”

Đối với Banzắc, mọi nhân vật của ông đều là những người sống và là những người thân thuộc. Lúc thì ông hầm hè giận dữ gọi họ là quân khốn nạn và đồ ngốc, lúc thì cười tủm tỉm, vỗ vai họ một cách hài lòng, lúc thì vụng về an ủi họ trong cơn hoạn nạn.

Trong con người Banzăc lòng tin ở sự sống thật của các nhân vật của mình và ở sự thật không ai chối cãi được rằng ông đang viết về họ, thật là kì quặc. Có thể chứng minh điều đó bằng một câu chuyện lý thú trong đời ông.

Trong một truyện ngắn của Banzăc có một cô tu kín trẻ tuổi (tôi không nhớ tên cô, nhưng ta cứ tạm gọi cô là Gian). Bà Nhất coi nhà tu cử cô Gian ngoan đạo kia đi Pari để làm một số công chuyện cho tu viện. Cuộc sống hào nhoáng, ngược xuôi, lóa mắt của thủ đô làm cô sửng sốt, bàng hoàng. Trong ánh sáng của những ngọn đèn loa đốt bằng hơi, cô đứng hàng giờ ngắm nghía những đồ vật sang trọng chưa từng thấy bày trong tủ kính các cửa hàng. Cô nhìn thấy những người đàn bà mặc áo váy mỏng tang và thơm phức. Những bộ quần áo váy như lột trần thân thể của những người đẹp kia, làm nổi bật toàn bộ vẻ kiều diễm của những cái lưng thon, những cặp đùi cao, những đôi vú nhỏ và nhọn.

Cô được nghe những lời tỏ tình đường mật lạ lùng, những câu bóng gió, giọng nói ngọt ngào của những người đàn ông. Cô trẻ và đẹp. Người ta theo cô ở ngoài phố. Tim cô đập rộn ràng. Cái hôn đầu ép buộc trong bóng cây tiêu huyền mộc dày đặc ở một vườn hoa nọ làm cho cô thoáng ù như nghe một tiếng sấm và mất hết lí trí.

Cô ở lại Pari. Tiền nhà tu giao cho, cô tiêu hết để được biến thành một cô gái Pari đầy quyến rũ.

Một tháng sau cuộc đời ném cô ra vỉa hè.

Trong truyện ngắn của Banzăc có nhắc đến tên một trong số những nhà tu kín có thật thời đó.

Sách của Banzăc đến tay bà Nhất của tu viện đó. Trong nhà tu lại cũng có một cô Gian trẻ tuổi. Bà Nhất gọi cô lại và hỏi bằng giọng dọa nạt:

- Cô có biết ông Banzăc đã viết những gì về cô không? Ông ta làm nhục cô! Ông ta bôi nhọ danh dự của dòng ta! Ông ta là kẻ vu khống, là kẻ báng bổ Chúa. Cô đọc đi!

Cô gái đọc hết truyện ngắn và khóc nức nở.

- Ngay lập tức! - Bà Nhất nói bằng một giọng to như sấm - Cô thu xếp ngay lập tức và đi Pari, tìm cho bằng được ông Banzăc, bắt ông ta phải thông báo cho cả nước Pháp biết rằng những điều ông viết là vu khống, rằng ông ta đã bôi nhọ phẩm giá một người con gái trong sạch chưa từng đến Pari bao giờ. Ông ta đã nhục mạ nhà tu và tất cả những người tu hành chúng ta. Ông ta cần phải ăn năn vì tội lỗi điên rồ của mình. Cô phải làm như thế cho bằng được. Nếu không cô đừng về đây nữa.

Gian đi Pari. Nàng tìm được Banzăc và khó khăn lắm mới được ông tiếp.

Banzăc mặc chiếc áo choàng cũ, ngồi thở hổn hển như người mắc bệnh suyễn. Khói thuốc mù mịt trong phòng. Trên bàn ngổn ngang từng đống giấy viết vội vã.

Banzăc cau mày. Ông không có thời giờ - ông đã tính trước cho đời mình ít nhất năm mươi cuốn tiểu thuyết. Nhưng mắt Banzăc sáng lên, long lanh. Ông chăm chăm nhìn Gian.

Cô gái cúi xuống, đỏ mặt lên và kêu tên Chúa. Rồi cô kể cho Banzăc nghe câu chuyện xảy ra ở tu viện và yêu cầu ông hãy xóa cho cô vết nhơ nhục nhã, mà không hiểu vì lẽ gì mơxiơ Banzăc đã bôi lên tiết hạnh và sự thánh thiện của cô.

Rõ ràng Banzăc không hiểu sao cái cô tu sĩ dịu dàng và nhan sắc này muốn gì ở ông.

- Cái vết nhơ nhục nhã nào? - ông hỏi. - Tất cả những điều tôi viết bao giờ cũng là sự thật thiêng liêng.

Gian nhắc lại lời yêu cầu và nói thêm:

- Ông Banzăc, xin ông hãy thương lấy kẻ này. Nếu ông không bằng lòng giúp tôi thì tôi thật lòng chẳng còn biết làm thế nào.

Banzăc đứng phắt dậy. Mắt ông long lên vì tức giận.

- Sao? - ông hét lên - Cô không biết làm thế nào ư? Tôi đã viết hết sức rõ ràng những chuyện xảy ra với cô! Hết sức rõ ràng! Cô còn nghi ngờ gì nữa?

- Chẳng lẽ ông muốn nói rằng tôi sẽ ở lại Pari - cô gái hỏi.

- Phải! - Banzăc hét lên. - Phải! Mẹ kiếp!

- Và ông muốn tôi sẽ...

- Không! Mẹ kiếp! - Banzăc lại hét lên. Tôi chỉ muốn cô trút bỏ cái bộ quần áo đen lùng thùng này đi. Tôi muốn tấm thân cô đang độ xuân xanh, tuyệt mỹ như một viên ngọc trai quí báu của cô được biết thế nào là niềm vui và tình yêu. Đi đi, cô. Đi đi! Nhưng đừng ra hè phố!

Banzăc nắm lấy tay Gian và kéo ra cửa...

- Tôi đã viết tất cả trong truyện đó rồi mà - ông nói- Cô đi đi! Cô rất đáng yêu, nhưng vì cô tôi đã mất đứt ba trang tác phẩm. Mà là tác phẩm thế nào, cô có biết không?

Gian không thể quay về tu viện vì ông Banzăc đã không xóa cho cô cái vết nhơ nhục nhã. Cô ở lại Pari. Nghe nói một năm sau người ta gặp cô trong đám thanh niên tại quán rượu sinh viên “Kiện hàng bạc”. Cô vui tươi, duyên dáng và hạnh phúc.

*

* *

Có bao nhiêu nhà văn thì có bấy nhiêu thói quen làm việc.

Trong ngôi nhà gỗ gần Riađan mà tôi đã có nói tới trên kia, tôi tìm được những bức thư của nhà khắc gỗ nổi tiếng Ioócđan gửi cho nhà khắc gỗ Pôgialôxtin (tôi cũng đã nói đến những bức thư đó).

Trong một bức thư Ioócđan viết rằng ông đã bỏ ra hai năm trời để khắc phiên bản một trong những bức họa Ý. Suốt thời gian làm việc ông cứ đi quanh chiếc bàn kê bản khắc và để lại một vệt rất rõ trên sàn gạch.

Ioócđan viết:

“Tôi mệt. Nhưng dù sao cũng vẫn còn đi lại, còn cử động. Chứ Gôgôn quen viết đứng bên chiếc bàn mặt nghiêng thì còn mệt đến thế nào! Đó mới thật là một người đau khổ vì công việc của mình.”

Lép Tônxtôi chỉ làm việc về sáng. Ông nói rằng trong mỗi nhà văn có một nhà phê bình riêng của mình. Nhà phê bình ấy về buổi sáng bao giờ cũng ác hơn cả. Ban đêm nhà phê bình ngủ và vì thế ban đêm nhà văn hoàn toàn được thả lỏng, anh ta làm việc không bị ai dọa nạt và viết rất nhiều cái thừa và tầm bậy. Tônxtôi lấy Rútxô(1) và Đichkenx là những người chỉ làm việc về sáng ra dẫn chứng, cho rằng Đôtxtôiepki và Bairơn(2) do thích làm việc đêm mà làm hại đến tài năng của mình.

Gánh nặng trong việc viết văn của Đôtxtôiepki tất nhiên không phải chỉ riêng ở chỗ ông làm việc về đêm và khi làm việc lại uống trà luôn miệng. Cái đó, nói cho cùng, cũng chẳng ảnh hưởng lắm đến chất lượng công việc của ông.

Gánh nặng ấy chính là ở chỗ Đôtxtôiepki không sao thoát khỏi cảnh túng thiếu và công nợ, vì thế ông buộc lòng phải viết rất nhiều và lúc nào cũng vội vã.

______________________________

1. Nhà văn Pháp, thế kỉ 18

2. Nhà thơ lãng mạn Anh (1788-1824)

Khi thời gian đã gấp lắm rồi ông mới ngồi xuống viết. Không một tác phẩm nào ông được viết một cách bình tĩnh, với tất cả tâm lực. Ông vò nát những cuốn tiểu thuyết của mình (không phải tính theo số lượng những trang đã viết mà theo cái chiều rộng của câu chuyện). Vì thế những tác phẩm của ông bao giờ cũng ở dưới mức mà ông có thể đạt được và tồi hơn so với dự định của ông. “Mơ ước về một cuốn tiểu thuyết còn thích hơn nhiều so với việc 262a viết nó ra”. Đôtxtôiepki nói như vậy.

Ông bao giờ cũng muốn kéo dài thời gian chung sống với cuốn tiểu thuyết viết dở, luôn luôn thay đổi và làm cho nó thêm phong phú. Vì thế ông cố hết sức kéo dài việc viết - chả là mỗi ngày, mỗi giờ có thể xuất hiện một ý mới mà tất nhiên không ai có thể viết trước được vào tiểu thuyết.

Công nợ buộc ông phải làm việc đó, mặc dầu ông thường vẫn ý thức được rằng cuốn tiểu thuyết của ông cũng vẫn còn chưa chín khi ông ngồi vào bàn viết. Biết bao ý nghĩ, hình tượng, chi tiết phí hoài chỉ vì chúng đến quá muộn trong đầu nhà văn, khi cuốn tiểu thuyết hoặc đã xong hoặc theo ý ông đã hỏng hẳn, không sao chữa nổi.

Đôtxtôiepki nói về mình:

“Vì nghèo túng tôi buộc lòng phải làm việc vội vã và viết để kiếm tiền, do đó nhất định tôi phải làm hỏng tác phẩm.”

Lúc còn trẻ, Tsêkhốp có thể viết ngay trên bệ cửa sổ trong một gian phòng chật hẹp và ồn ào ở Matxcơva. Truyện ngắn Người thợ săn ông viết trong buồng tắm. Nhưng cùng với năm tháng, sự việc dễ dàng ấy cũng mất đi.

Lérmôntốp sáng tác những bài thơ của ông trên bất cứ vật gì. Hình như những bài thơ ấy hình thành tức khắc trong ý thức của ông, ca hát trong tâm hồn ông để rồi ông chỉ có việc vội vã ghi chúng lại, không cần phải sửa chữa.

Chỉ cần trước mặt có một chồng giấy sạch sẽ và đẹp thế là Alêchxây Tônxtôi đã có thể viết được rồi.

Ông thú thực rằng khi ngồi vào bàn, ông thường chưa biết sẽ viết gì. Trong đầu ông lúc đó có một tình tiết đẹp đẽ. Ông bắt đầu từ đó và dần dần nó kéo theo sau cả câu chuyện như kéo một sợi chỉ thần.

A. Tônxtôi gọi trạng thái lao động, cảm hứng theo cách của ông là “xuất thần”. Nếu “xuất thần” - ông nói - “thì tôi viết được nhanh. Nếu không, tôi phải vứt đấy cái đã”.

Tất nhiên A.Tônxtôi là một người có tài sáng tác tức thời ở mức độ cao. Tay ông chạy không kịp ý nghĩ của ông.

Chắc chắn là hết thảy các nhà văn đều biết cái trạng thái tuyệt diệu trong lúc làm việc, khi một ý mới hoặc một cảnh mới bất thần hiện ra, như thể chúng từ trong đáy của ý thức bật mạnh ra ngoài như những tia chớp. Nếu không ghi lại ngay lúc ấy, chúng có thể biến mất không để lại dấu vết gì, như cách chúng đã hiện ra.

Trong chúng có ánh sáng, có sự rung động, nhưng chúng mong manh như những giấc mơ. Những giấc mơ mà chúng ta chỉ nhớ trong khoảnh khắc khi vừa tỉnh dậy và lại quên ngay. Sau đó dù chúng ta có tự dằn vặt cố nhớ lại đến mấy, chúng ta không bao giờ nhớ lại được. Những giấc mơ ấy chỉ còn để lại một cảm giác về một cái gì khác thường bí ẩn, một cái gì “huyền diệu” như cách nói của Gôgôn.

Cần phải ghi cho kịp. Chỉ trù trừ một chút là ý nghĩ kia vừa lóe lên đã biến mất.

Có lẽ vì thế mà nhiều nhà văn không thể viết trên những tờ giấy nhỏ, những băng giấy, như các nhà báo thường làm, chớ có rời tay khỏi giấy quá nhiều, bởi vì chỉ dừng lại một chút thôi, một khoảnh khắc rất nhỏ thôi, thì cái đó cũng có thể nguy hại rồi. Rõ ràng hoạt động của ý thức diễn ra đến độ hoang đường.

Nhà thơ Pháp Bêrănggiê có thể viết những bài ca của ông trong những tiệm cà phê rẻ tiền.Cả Êrenbua, theo chỗ tôi biết, cũng thích viết trong những tiệm cà phê.

Điều đó dễ hiểu. Bởi vì không có sự cô độc nào tốt hơn là ở giữa đám đông náo nhiệt, tất nhiên nếu như không ai trực tiếp kéo anh ra khỏi suy tư và không xâm phạm đến sự tập trung tư tưởng của anh.

Anđécxen thích nghĩ ra những truyện thần tiên của ông ở trong rừng. Ông có một cặp mắt rất tốt, gần như là một cái kính hiển vi. Vì thế ông có thể ngắm nghía một miếng vỏ cây hay một chiếc lá thông già và thấy ở trong đó những chi tiết như qua một máy phóng đại, từ những chi tiết ấy có hể dựng nên những câu chuyện cổ tích một cách dễ dàng.

Nói chung hết thảy mọi vật trong rừng - mỗi gốc cây cụt, mỗi con kiến càng hung đỏ đang tha một con ruồi con với đôi cánh xanh tí xíu trong suốt như tha một nàng công chúa diễm kiều bị bắt cóc - tất cả những cái đó đều có thể biến thành truyện thần tiên.

Tôi không muốn ai nói đến kinh nghiệm của bản thân. Cái đó chưa chắc đã cung cấp thêm điều gì quan trọng vào những cái mà tôi đã nói trên kia. Nhưng dù sao tôi cũng thấy phải nói vài lời.

Nếu chúng ta muốn cho nền văn học nước ta đạt tới đỉnh cao nhất của sự phồn vinh thì chúng ta cần phải hiểu rằng hình thức hoạt động của xã hội hữu ích nhất của nhà văn chính là công việc sáng tác của họ. Công việc âm thầm của nhà văn trước khi cuốn sách ra đời sẽ biến thành của chung nhân loại sau khi sách đã được in.

Cần phải giữ gìn thời gian, sức lực và tài năng của nhà văn, chứ không nên đổi chúng lấy những công việc tất tả ngược xuôi, mất sức ngoài lề văn học và những cuộc họp.

Trong khi làm việc, nhà văn cần có sự yên tĩnh và không phải lo lắng. Nếu như có chuyện gì bực mình, dù nó vẫn chưa tới thì tốt nhất là đừng viết. Bút sẽ rời khỏi tay hoặc dưới ngòi bút chỉ bò ra những chữ cực nhọc và trống rỗng.

Trong đời tôi đã có vài lần tôi được viết một cách thoải mái, tập trung tư tưởng và không hấp tấp.

Một lần, vào mùa đông, tôi đáp chuyến tàu thủy vắng tanh từ Batum đến Ôđetxa. Biển xám, lạnh và yên tĩnh. Bờ biển ngập trong bóng tối màu tro. Những đám mây đen nặng nề nằm dài trên những dãy núi xa như đang chìm vào trong giấc ngủ mê mệt.

Tôi viết trong một buồng ngủ trên tàu, thỉnh thoảng lại đứng dậy, đến gần khung cửa tròn và nhìn về phía bờ. Những cỗ máy cực mạnh khe khẽ hát trong cái bụng bằng sắt của con tàu. Không ai có thể lôi tôi ra khỏi những ý nghĩ mà tôi yêu mến. Tôi không nghĩ đến gì khác, hoàn toàn không nghĩ đến gì khác, ngoài truyện ngắn mà tôi đang viết. Tôi cảm thấy điều đó như một hạnh phúc vô cùng to lớn. Biển khơi che chở cho tôi khỏi bị bất cứ cái gì quấy rối.

Ý thức về xê dịch trong không gian, sự chờ đợi mơ hồ những hải cảng mà tôi sẽ rẽ vào, và rất có thể, những cuộc gặp gỡ nhẹ nhàng và ngắn ngủi, giúp cho tôi làm việc rất nhiều.

Và tôi cũng còn nhớ cái trạng thái làm việc sao mà dễ dàng trên gác xép một ngôi nhà gỗ vào mùa thu, trong cảnh cô độc và tiếng nổ lép bép của ngọn nến.

Đêm tháng chín tối trời và lặng gió bao bọc lấy tôi và cũng như biển, nó che chở tôi khỏi mọi quấy rối.

Giải thích vì sao thì khó, nhưng cái ý thức rằng bên kia bức tường, khu vườn quê cũ kĩ đang rụng lá suốt đêm, vẫn giúp cho tôi viết rất nhiều. Tôi nghĩ về khu vườn như nghĩ về một sinh vật. Nó im lặng và nhẫn nại đợi đến lúc tôi ra giếng lấy nước cho ấm trà khi trời khuya. Có lẽ nó sẽ dễ dàng chịu đựng cái đêm dài bất tận kia hơn khi nghe tiếng gầu đập lanh canh vào thành giếng và bước chân người.

Nhưng dù sao thì cảm giác về khu vườn cô quạnh và những cánh rừng lạnh lẽo kéo dài suốt từ cổng làng ra xa hàng chục cây số, về những ao hồ trong rừng, nơi mà trong một đêm như thế này tất nhiên không thể có và không có lấy một bóng người mà chỉ có những vì sao soi bóng trên mặt nước như chúng đã soi bóng hàng trăm, hàng nghìn năm về trước - cái cảm giác ấy đã giúp tôi. Tôi dám nói rằng trong những buổi tối mùa thu như thế tôi thực là hạnh phúc.

Khi nào có một cái gì thú vị, vui sướng, thân yêu đang chờ đợi ta, dù cho nó là một cái gì vặt vãnh như cuộc đi câu dưới những cây liễu đen trên một lòng sông cạn ở xa, lúc đó mà viết thì rất tốt.

 

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/86784


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận