Các chiến binh Mỹ Tộc, tất cả chỉ trừ Doli, đã quay trở lại từ nơi rìa những vách núi trơ trọi đánh dấu đường biên giới phía tây của Dãy Đồi Bran-Galedd, bởi vì sau đó mặt đất đều nằm dưới sự thống trị của Arawn Chúa tể Tử địa. Đã mấy ngày nay, nhóm bạn phải khó nhọc vượt qua một vùng hoang vu toàn sỏi đá, nơi thậm chí cả rêu hay địa y cũng không mọc nổi. Bầu trời xám xịt, và những đám mây mỏng thì cũng chỉ là những mảng màu xám, sẫm hơn. Như thể một màn sương mù độc địa đã tràn ra từ lãnh địa của Annuvin, bóp nghẹt tất cả những vật sống và chỉ để lại vùng đất hoang đầy đá này.
Nhóm bạn không nói chuyện nhiều để giữ sức. Kể từ ngày đầu tiên đặt chân vào lãnh thổ Vùng Đất Tử Thần, họ đã phải xuống ngựa và đi bộ, dẫn đàn ngựa mỏi mệt đi qua những lối mòn hiểm hóc. Ngay cả con tuấn mã Melynlas cũng có vẻ kiệt sức; cái cổ mạnh mẽ của nó gục xuống và bước chân của nó đôi khi loạng choạng. Trong khi đó thì Llyan vẫn khéo léo bước đi dọc theo những gờ đá hẹp nhất và nguy hiểm nhất. Thường thường, khi nhóm bạn phải vất vả trèo xuống một con dốc dựng đứng này chỉ để rồi lại phải trèo lên một con dốc khác còn thẳng đứng hơn, thì con mèo khổng lồ nhảy từ vách núi này sang vách núi khác, và họ sẽ thấy nó ngồi với cái đuôi cuộn lại quanh mình, đợi Fflewddur đến gãi tai, rồi sau đó lại nhảy vụt đi.
Doli, tay nắm chặt cây gậy, cái mũ trùm trắng kéo lên che kín mặt, dẫn đầu đoàn quân nhỏ bé. Taran vẫn không bao giờ hết ngạc nhiên khi thấy ông lùn, vốn không biết mệt mỏi là gì, luôn tìm ra được những đường mòn bị giấu kín và các lối đi nhỏ hẹp như thể có một giác quan bí mật nào đó, và giúp cho cuộc hành trình gian khổ của họ dễ dàng hơn.
Thế nhưng, một thời gian sau, bước chân của Doli cũng chậm lại. Taran mỗi lúc một thêm lo lắng và băn khoăn khi thấy chốc chốc ông lùn lại bị mất thăng bằng và bước chân của ông bỗng trở nên do dự. Khi Doli lảo đảo khuỵu một đầu gối xuống, Taran hốt hoảng lao tới bên ông, và cố nâng ông lùn dậy. Những người bạn khác cũng vội vã chạy đến cùng với cậu.
Khuôn mặt vốn hồng hào của Doli giờ tái nhợt đi từng đám và ông chỉ còn thở được hổn hển một cách khó khăn. Ông cố gượng đứng dậy.
“Cái vùng đất xấu xa chết tiệt này,” ông lẩm bẩm. “Không chịu được nó lâu như tôi đã tưởng. Đừng có trố mắt ra nhìn như thế! Đưa tay cho tôi nào.”
Một cách bướng bỉnh, ông lùn vẫn không chịu ngồi lên lưng ngựa, khăng khăng nói rằng ông sẽ cảm thấy khá hơn khi được đi trên đất bằng. Khi Taran nài nỉ ông hãy dừng lại nghỉ một lát, Doli chỉ giận dữ lắc đầu. “Tôi đã nói là tôi sẽ tìm ra một đường đi cho các bạn,” ông cắm cảu nói. “Và tôi quyết tâm làm vậy. Tôi không thể chịu nổi một việc làm dở dang. Khi người Mỹ Tộc đã định tâm làm việc gì thì họ sẽ làm đến nơi đến chốn, và không lần lữa gì hết.”
Tuy nhiên, chỉ một lát sau Doli đành miễn cưỡng bằng lòng trèo lên lưng Melynlas. Ông loay hoay với hai cái bàn đạp nhưng lại càu nhàu vẻ bực bội khi Fflewddur nhấc bổng ông đặt lên yên cương.
Ngay cả sự nhẹ nhõm của họ cũng không kéo dài bao lâu. Chẳng mấy chốc đầu ông lùn đã yếu ớt gục xuống, người ông lảo đảo không vững và trước khi Taran kịp đỡ, đã tuột khỏi lưng con tuấn mã ngã nhào xuống đất.
Taran vội vã ra hiệu dừng lại. “Hôm nay chúng ta sẽ không đi xa hơn nữa,” cậu nói với ông lùn. “Đến sáng mai ông sẽ lấy lại sức thôi.”
Doli lắc đầu. Mặt ông trắng bệch, cặp mắt đỏ của ông đã mờ đục đi. “Chờ đợi thì chẳng được ích lợi gì đâu,” ông hổn hển. “Tôi ở đây đã lâu quá rồi. Sẽ chỉ càng suy sụp hơn thôi. Phải đi tiếp trong khi tôi vẫn còn dẫn đường được cho các bạn.”
“Tôi không chịu để ông liều mạng đâu,” Taran nói. “Ông Thợ Rèn Hevydd sẽ đi cùng với ông tới đường biên giới. Llassar Con Trai của Drudwas sẽ giúp chúng tôi tìm đường.”
“Không được,” ông lùn thì thào. “Không có kỹ năng của người Mỹ Tộc thì sẽ mất thời gian lắm. Hãy buộc tôi vào yên cương đi,” ông ra lệnh.
Ông gắng gượng ngồi dậy, nhưng lại khuỵu xuống và nằm bất động. Hơi thở của ông trở nên khò khè dữ dội.
Taran hốt hoảng kêu lên, “Ông ấy đang hấp hối rồi. Nhanh lên, Fflewddur. Giúp tôi đặt ông ấy lên Llyan. Nó là con vật nhanh nhẹn nhất. Hãy quay lại cùng với ông ấy. Có thể vẫn còn kịp đấy. ”
“Hãy bỏ mặc tôi lại đây thôi,” Doli hổn hển nói. “Cậu không thể thiếu Fflewddur được. Một tay gươm của anh ta đáng giá bằng mười người đấy. Hay ít nhất là sáu. Hãy đi tiếp đi, nhanh lên.”
“Tôi không thể làm vậy được,” Taran trả lời.
“Đồ ngốc!” ông lùn nghẹt thở thốt lên. “Hãy nghe tôi đây!” ông ra lệnh. “Việc này phải được hoàn thành. Cậu là một vị tướng hay là một gã Phụ-Chăn Lợn đấy hả?”
Taran quỳ xuống bên cạnh ông lùn, mắt ông đã lờ đờ nhắm lại, và nhẹ nhàng đặt tay lên vai ông. “Ông còn phải hỏi sao, ông bạn? Tôi chỉ là một gã Phụ-Chăn Lợn thôi.”
Taran đứng lên để đón chàng ca sĩ, anh ta vừa vội vàng dẫn Llyan đến, nhưng khi cậu quay lại chỗ ông lùn thì chỉ còn thấy mặt đất trống trơn. Doli đã biến mất.
“Ông ấy biến đi đâu mất rồi?” Fflewddur thét lên.
Một giọng bực dọc vọng đến đâu đó gần một tảng đá. “Ở đây chứ còn ở đâu nữa?”
“Doli!” Taran kêu lên. “Ông đang sắp chết, vậy mà bây giờ...”
“Tôi đã biến thành vô hình, như bất kỳ kẻ đần độn nào có một nửa bộ óc cũng có thể thấy được,” Doli khịt mũi. “Lẽ ra tôi phải nghĩ đến chuyện này trước mới phải. Lần trước khi ở Annuvin, tôi đã gần như tàng hình suốt dọc đường. Tôi chưa bao giờ nhận ra rằng nó đã bảo vệ tôi ra sao.”
“Nó có thể giúp được ông lúc này không?” Taran hỏi, vẫn còn hơi hoang mang. “Ông có thể đi tiếp được không?”
“Tất nhiên,” ông lùn đáp lại. “Tôi đã thấy khá hơn rồi. Nhưng tôi sẽ phải giữ nguyên vô hình như thế này. Nghĩa là đến chừng nào tôi còn chịu được! Tàng hình! Ong bắp cày và ong bò vẽ trong tai tôi!”
“Ông bạn già Doli tốt bụng!” Taran reo lên, tìm kiếm vô ích bàn tay vô hình của ông lùn để siết chặt nó.
“Thôi đừng nói cái câu ấy nữa!” ông lùn cắm cảu nói. “Tôi sẽ không bao giờ tự nguyện làm chuyện này... _ôi, hai cái tai của tôi_cho bất kỳ tên người trần nào ở Prydain này_ ...ôi, cái đầu của tôi_ ...ngoại trừ cậu ra! Và đừng có hò hét! Tai tôi sẽ không chịu nổi đâu!”
Cây gậy của Doli, đang nằm trên mặt đất, nom như tự mình đứng thẳng dậy khi ông lùn nhấc nó lên. Nhờ chuyển động của cây gậy, Taran có thể thấy rằng Doli đã lại bắt đầu tiến về phía trước.
Được cây gậy dẫn đường, nhóm bạn liền bám theo. Thế nhưng ngay cả nếu không nhìn thấy cây gậy thì họ vẫn có thể tìm được đường nhờ vào những tiếng cằn nhằn rất to vẻ cáu kỉnh.
Fflewddur là người đầu tiên nhìn thấy đàn quái điểu. Ở đằng xa, bên trên một hẻm núi nông, ba con chim đang chao liệng thành vòng tròn. “Chúng đã tìm thấy gì vậy?” Chàng ca sĩ kêu lên. “Cho dù nó là cái gì đi chăng nữa thì tôi cũng hy vọng chúng ta sẽ không phải là những kẻ bị phát hiện ti p theo!”
Taran thổi tù và làm hiệu cho đội quân ẩn nấp ở bất kỳ nơi nào họ có thể, giữa những tảng đá khổng lồ. Eilonwy, không thèm để ý đến mệnh lệnh của Taran, trèo lên đỉnh một phiến đá cao nhô ra và đưa tay lên che mắt.
“Tôi không nói chắc được,” Eilonwy nói, “nhưng có vẻ như chúng đã dồn đuổi được một con vật gì đó ấy. Con vật tội nghiệp. Nó sẽ không chống nổi chúng đâu.”
Gurgi sợ hãi thu mình nấp cạnh một hòn đá và cố dán mình nằm phẳng ra tựa một con cá. “Cả Gurgi cũng thế, nếu chúng nhìn thấy nó,” nó rên rỉ. “Chúng sẽ vồ lấy cái đầu yếu ớt khốn khổ của nó để rỉa róc và cào xé!”
“Đi tiếp đi! Đi tiếp đi!” Glew la lên, bộ mặt nhỏ của y co rúm lại vì sợ. “Chúng đang mải săn mồi mà. Đừng có đứng lại đây như những tên ngốc nữa. Hãy cố mà đi càng xa càng tốt. Ôi, giá mà ta được làm người khổng lồ trở lại thì các người sẽ không thấy ta chần chừ lần lữa ở đây đâu!”
Vòng tròn của ba con quái điểu thu hẹp lại và chúng bắt đầu bổ nhào xuống để hạ đòn sát thủ. Nhưng bất thình lình, một vật gì nom tựa một đám mây đen, với hình thù tối sẫm dẫn đầu, bỗng lao từ góc trời phía đông tới. Đội quân đang kinh ngạc còn chưa kịp dõi theo đường bay vun vút của nó ở trên đầu thì đám mây đã tản ra, như thể theo lệnh của con đầu đàn, thành vô số những con chim lao thẳng vào đàn quái điểu khổng lồ. Mặc dù ở cách xa, Taran vẫn có thể nghe thấy tiếng rít giận dữ của bọn quái điểu khi chúng vòng lên cao hơn để đánh trả lại những kẻ tấn công lạ mặt này.
Fflewddur đã nhảy tới bên cạnh Eilonwy và trong khi Taran cùng với Doli trèo lên một chỗ cao hơn, chàng ca sĩ bỗng reo lên vẻ phấn khích: “Quạ! Ôi Belin Vĩ Đại, tôi chưa bao giờ thấy nhiều quạ đến thế!”
Tựa như những con ong bắp cày khổng lồ, đàn quạ vây lấy kẻ thù của mình; đó không phải là trận đánh một chọi một giữa hai con chim, mà là một cuộc chiến với cả một đội quân quạ xông vào bám chặt lấy những cặp cánh đang đập mạnh của bọn quái điểu, không thèm để ý đến những cái mỏ và bộ móng vuốt sắc nhọn, tìm cách kéo chúng xuống đất. Khi những con quái điểu, chỉ nhờ vào sức lực, đẩy được kẻ địch ra, thì một đàn quạ khác lại tập trung vào và xông tới tấn công tiếp. Bọn quái điểu cố thoát khỏi vòng vây bằng cách lao xuống đất, cố bay là là hết mức có thể sát những hòn đá lởm chởm. Nhưng đúng lúc đó thì đàn quạ lại điên cuồng mổ vào chúng, khiến bọn chúng lảo đảo và quay cuồng đập cánh, rồi mất phương hướng và lại rơi vào giữa cuộc tấn công không ngừng.
Ráng sức một lần cuối, ba con quái điểu đập cánh bay lên cao; chúng quay đi và tuyệt vọng tăng tốc bay về phía bắc, với đàn quạ đuổi theo sát nút. Chúng biến mất sau đường chân trời, tất cả, chỉ trừ một chú quạ duy nhất đang nhanh chóng bay tới chỗ đội quân.
“Quạc!” Taran kêu lên và chìa tay ra.
Miệng kêu liến thoắng thật to, chú quạ sà xuống. Mắt nó long lanh vẻ đắc thắng và nó đập đôi cánh óng ả kiêu hãnh hơn cả một chú gà trống. Nó luôn mồm kêu quàng quạc và tuôn ra một tràng những lời huyên thuyên đến nỗi Gurgi phải đưa tay lên bịt tai.
Đậu trên cổ tay Taran, Quạc gật gù cái đầu và gõ mỏ lách cách, tỏ ra hết sức tự đắc và không một phút nào ngừng ríu rít.
Taran cố gắng một cách vô ích để cắt ngang những tiếng kêu khàn khàn ầm ĩ và khoác lác của chú quạ, và đã từ bỏ hy vọng được nghe bất kỳ tin tức gì từ chú chim lấc cấc khi Quạc lại đập cánh và toan bay đi.
“Achren!” Quạc kêu lên. “Achren! Nữ hoàng!”
“Mày đã nhìn thấy bà ta ư?” Taran nín thở hỏi. Cậu hầu như không nghĩ gì đến mụ Nữ hoàng đã từng một thời uy quyền kể từ khi mụ bỏ đi khỏi Caer Dallben. “Bà ta đang ở đâu?”
Chú quạ bay đi một quãng, rồi quay lại, vỗ cánh giục Taran đi theo. “Gần! Gần! Quái điểu!”
Eilonwy há hốc miệng. “Đó chính là cảnh tượng chúng ta đã nhìn thấy. Bọn quái điểu đã giết chết bà ta rồi!”
“Còn sống!” Quạc đáp lại. “Bị thương!”
Taran ra lệnh cho các kỵ sĩ Tự Do đứng đợi cậu, rồi nhảy xuống đất để bám theo Quạc. Eilonwy, Doli, và Gurgi cũng vội đi cùng với cậu. Glew nhất quyết không chịu nhúc nhích, nói rằng y bị trầy da trên sỏi đá thế là đủ lắm rồi, và không có ý định rời khỏi chỗ của mình để đi cứu bất kỳ ai hết.
Fflewddur ngần ngừ một lát. “À, ờ, tôi nghĩ là tôi cũng nên đi cùng, phòng khi các bạn cần giúp để dìu bà ta về. Nhưng tôi không thấy thoải mái với chuyện đó lắm. Achren đã sẵn sàng bỏ đi một mình, và tôi nghĩ là chúng ta không nên dây dưa với mụ ta nữa. Không phải là tôi sợ mụ ta đâu, không hề... _ờ, sự thật là,” anh ta vội vã thêm vào, khi thấy cây đàn hạc căng ra, “mụ đàn bà đó làm tôi rùng mình. Kể từ cái ngày mụ ném tôi vào hầm ngục của mụ, tôi đã nhận thấy mụ có vẻ gì đó không thân thiện chút nào. Mụ chẳng ưa gì âm nhạc, tôi có thể cho các bạn biết như vậy. Tuy thế,” anh ta kêu lên, “một người họ Fflam vẫn lên đường giải cứu!”
Như một mớ giẻ màu đen rách nát, thân hình bất động của Nữ hoàng Achren nằm giữa khe nứt của một tảng đá khổng lồ nơi mụ đã trốn vào, trong niềm hy vọng cuối cùng, để thoát khỏi những bộ vuốt và những cái mỏ hiểm ác của bầy quái điểu. Thế nhưng Taran thương hại thấy rằng chỗ ẩn nấp này cũng chẳng chắn đỡ được cho mụ Nữ hoàng là bao. Achren yếu ớt rên lên khi nhóm bạn nhấc mụ ra khỏi khe đá. Llyan, đi theo cùng với chàng ca sĩ, lặng lẽ ngồi gần đó và quật cái đuôi qua lại một cách lo lắng. Khuôn mặt của Achren, rúm ró và trắng bệch như xác chết, đã bị cào rách, và trên hai cánh tay mụ là vô số vết thương sâu đang chảy máu. Eilonwy ôm lấy người đàn bà và cố làm mụ tỉnh lại.
“Llyan sẽ chở bà ta về với chúng ta,” Taran nói. “Bà ta cần có nhiều thuốc hơn là chỗ dược thảo tôi đem theo; ngoài các vết thương ra, bà t a còn đang yếu đi vì một cơn sốt nữa. Hẳn bà ta đã không được ăn uống gì khá lâu rồi.”
“Đôi giày của bà ta đã xơ xác cả ra,” Eilonwy nói. “Không biết bà ta đã lang thang ở nơi kinh khủng này bao lâu rồi? Tội nghiệp Achren! Tôi không thể nói rằng tôi yêu quý bà ta, nhưng chỉ nghĩ đến chuyện gì đã có thể xảy ra cũng đủ làm tôi rùng mình rồi.”
Fflewddur, sau khi giúp nhấc mụ Nữ hoàng đang bất tỉnh lên nền đất bằng phẳng hơn, đã lùi ra mấy bước chân. Gurgi cũng đứng cách ra khỏi Achren một quãng. Tuy thế, theo lệnh của Taran, họ vẫn tiến lại gần hơn và chàng ca sĩ, với những lời dỗ dành ngon ngọt, giữ cho Llyan đứng yên trong khi những người bạn nâng Achren đặt lên lưng con mèo khổng lồ.
“Nhanh lên,” giọng nói của Doli giục giã. “Trời sắp đổ tuyết rồi đấy.”
Những bông tuyết trắng đã bắt đầu rơi xuống từ bầu trời u ám; chỉ trong chốc lát, một luồng gió giá buốt đã xoáy lộn quanh nhóm bạn và tuyết phả vào họ mỗi lúc một dày hơn. Những mũi kim băng giá đâm vào mặt họ, đường đi trở nên khó nhìn hơn, và khi trận bão nổi lên mạnh hơn thì ngay cả Doli cũng không còn dám chắc đâu là đường đúng nữa. Nhóm bạn mò mẫm loạng choạng đi thành một hàng dài, người nọ bám vào người kia, với Taran níu chặt một đầu gậy của Doli. Quạc, đã gần như bị tuyết phủ kín, so cánh lại và cố hết sức để bám vào vai Taran. Llyan, với sức nặng của mụ Nữ hoàng bất động trên lưng, cúi đầu xuống để tránh luồng gió và dấn bước tới trước; nhưng con mèo vốn vững chân chốc chốc lại vấp phải những tảng đá bị lấp kín và những cái hố đầy tuyết. Có lúc Gurgi la lên hoảng hốt và biến mất đột ngột như thể đã bị đất nuốt chửng vậy. Thì ra nó đã tụt xuống một cái hố sâu, và đến khi nhóm bạn kéo được nó lên thì con vật khốn khổ đã gần như biến thành một nhũ băng lông lá bờm xờm. Nó run lẩy bẩy đến nỗi gần như không đi nổi, và Taran cùng với Fflewddur phải dìu nó theo.
Gió vẫn không yếu đi, tuyết rơi xuống thành một tấm màn không xuyên qua nổi; và cái lạnh, vốn đã giá buốt lắm rồi, giờ càng trở nên dữ dội hơn. Ngay cả việc hít thở cũng đau đớn và mỗi lần khó nhọc hít vào Taran lại cảm thấy một luồng hơi băng giá như những mũi dao găm xuyên vào phổi cậu. Eilonwy gần như nức nở vì lạnh và kiệt sức, và cô bám lấy Taran, cố gắng để vững bước trong khi Doli dẫn họ qua những cụm tuyết đã cao lên tới tận đầu gối.
“Chúng ta không thể đi tiếp được nữa,” ông lùn hét lên trên tiếng gió. “Tìm chỗ trú thôi. Chúng ta sẽ quay lại với đội kỵ sĩ khi bão dịu đi.”
“Nhưng còn các kỵ sĩ, họ sẽ xoay xở thế nào đây?” Taran lo lắng hỏi lại.
“Khá hơn chúng ta nhiều!” ông lùn nói lớn. “Ở chỗ họ, tôi đã nhận thấy một cái hang khá to dọc theo vách đá. Anh bạn chăn cừu của cậu chắc chắn sẽ tìm thấy nó thôi, đừng sợ. Vấn đề của chúng ta lúc này là tìm được chỗ trú ẩn cho chính mình cái đã.”
Thế nhưng, sau một cuộc tìm kiếm dài khó khăn, ông lùn cũng không phát hiện ra được nơi nào khác ngoài một cái rãnh nông bên dưới một gờ đá nhô ra. Nhóm bạn lảo đảo chui xuống đó một cách biết ơn; ở đây họ tránh được khỏi những đợt gió và tuyết mạnh nhất. Nhưng cái lạnh vẫn kẹp chặt lấy họ, và họ vừa dừng chân thì thân người liền cứng đờ lại, họ phải hết sức khó khăn mới động đậy được tay chân. Mọi người túm tụm lại với nhau và áp sát vào bộ lông dày của Llyan cho ấm. Nhưng ngay cả làm thế cũng chẳng giúp họ ấm hơn được là bao, bởi vì khi đêm xuống, cái lạnh trở nên giá buốt hơn. Taran cởi áo khoác của mình ra choàng cho Eilonwy và Achren; Gurgi khăng khăng đòi góp thêm cái áo da cừu của mình vào nữa và nó ngồi bó gối với hai cánh tay lông lá ôm lấy mình, hàm răng va vào nhau lập cập.
“Tôi sợ là Achren sẽ không sống sót nổi qua đêm nay đâu,” Taran khẽ nói với Fflewddur. “Khi chúng ta tìm được bà ta thì bà ta cũng đã gần hấp hối rồi. Bà ta không đủ sức để chống lại cái lạnh như thế này.”
“Có ai trong số chúng ta có đủ sức cơ chứ?” Chàng ca sĩ đáp. “Nếu không có được một đống lửa thì chúng ta có thể chào vĩnh biệt nhau luôn bây giờ được rồi đấy.”
“Tôi không biết ông còn kêu ca về chuyện gì được nữa,” Eilonwy thở dài. “Cả đời tôi chưa bao giờ thoải mái đến thế này.”
Taran hốt hoảng quay sang nhìn cô. Cô gái không cựa quậy dưới chiếc áo choàng. Mắt cô lim dim nhắm lại và giọng cô ngập ngừng như ngái ngủ.
“ấm lắm,” cô lảm nhảm nói tiếp một cách sung sướng. “Một cái chăn lông ngỗng mới êm ái làm sao. Thật là lạ. Tôi mơ là chúng ta đã bị mắc kẹt trong một trận bão khủng khiếp. Chẳng hay ho chút nào. Hay là tôi vẫn đang mơ nhỉ? Cũng chẳng sao. Khi tôi thức dậy thì tất cả sẽ biến mất thôi.”
Taran, mặt cau lại lo lắng, liền lắc cô thật mạnh. “Không được ngủ!” Cậu kêu lên. “Nếu cô ngủ thì sẽ chết cóng đấy.”
Eilonwy không trả lời cậu mà chỉ quay đầu đi và nhắm mắt lại. Gurgi đã cuộn tròn lại bên cạnh cô và không thể đánh thức nó dậy được. Chính Taran cũng thấy một cảm giác mệt mỏi chết người bao trùm lấy mình. “Lửa,” cậu nói, “chúng ta phải nhóm một đống lửa.”
“Bằng cái gì?” Doli gay gắt đáp lại. “Giữa vùng hoang vu này không có lấy một mẩu cành khô nào. Cậu sẽ đốt cái gì chứ? Giày ủng của chúng ta ư? Hay là áo khoác của chúng ta? Như thế thì chúng ta sẽ càng chết cóng nhanh hơn mà thôi.” Ông hiện hình trở lại. “Và nếu phải chết cóng thì tôi sẽ không chết cóng với tiếng ong bắp cày vo vo trong tai đâu.”
Fflewddur, từ nãy đến giờ vẫn im lặng, liền với tay ra sau lưng và tháo cây đàn hạc xuống. Thấy vậy, Doli hét lên một tiếng giận dữ.
“âm nhạc ấy à!” ông kêu lên. “Anh bạn ạ, trí khôn của anh cũng đóng lại thành băng mất rồi!”
“Nó sẽ cho chúng ta điệu nhạc chúng ta cần,” Fflewddur trả lời.
Taran lê mình tới bên chàng ca sĩ. “Fflewddur, ông định làm gì vậy?”
Chàng ca sĩ không trả lời. Anh âu yếm ôm cây đàn hạc trong tay và khẽ chạm vào những sợi dây một hồi lâu, rồi nhanh chóng giơ cao cây đàn tuyệt đẹp lên và đập nó vào đầu gối mình.
Taran đau đớn kêu lên khi khung đàn vỡ vụn thành từng mảnh và những sợi dây đàn đứt tung ra thành một âm thanh chói tai. Fflewddur để cho những mẩu vụn rơi khỏi tay mình.
“Hãy đốt nó đi,” anh ta nói. “Đó là thứ gỗ đã được lên nước bền lắm đấy.”
Taran nắm lấy vai chàng ca sĩ. “Ông đã làm gì thế này?” Cậu nức nở. “Chàng ca sĩ họ Fflam can đảm và ngốc nghếch này! Ông đã phá hủy cây đàn hạc của mình chỉ để đổi lấy một phút hơi ấm. Chúng ta cần một đống lửa to hơn đống lửa của mớ gỗ vụn này nhiều.”
Nhưng Doli thì đã vội lôi viên đá lửa trong túi ra và đánh một tia lửa vào mớ gỗ vụn thảm hại. Đống gỗ bùng cháy ngay lập tức và hơi ấm đột ngột bao trùm lấy nhóm bạn. Taran kinh ngạc ngắm nhìn ngọn lửa đang bốc lên. Những mẩu gỗ dường như không hề bị đốt, thế nhưng đống lửa lại cháy mỗi lúc một sáng chói hơn. Gurgi cựa quậy và ngẩng đầu lên. Răng nó không còn va vào nhau lập cập nữa và khuôn mặt tê cứng của nó dần dần hồng trở lại. Eilonwy cũng ngồi dậy và nhìn quanh mình như thể tỉnh dậy từ một giấc mơ. Chỉ liếc nhìn một cái cô đã hiểu được chàng ca sĩ đã hy sinh cái gì để làm gỗ đốt, và nước mắt dâng đầy lên trong mắt cô.
“Đừng nghĩ đến nó nữa,” Fflewddur kêu lên. “Sự thật là tôi rất vui sướng được thoát khỏi nó. Tôi không bao giờ có thể chơi được nó cho ra hồn, và nó chỉ là một gánh nặng thôi, không hơn không kém. Nhân danh Belin Vĩ Đại, không có nó tôi thấy nhẹ nhõm như lông hồng. Xin hãy tin tôi, tôi chưa bao giờ có ý định trở thành một ca sĩ hát rong cả, nên việc này chỉ là để phụng sự cho những điều tốt đẹp nhất mà thôi.”
Giữa đống lửa một vài sợi dây đàn đứt ra làm đôi và một luồng tia lửa bốc lên không trung.
“Nhưng nó tỏa ra một thứ khói khó chịu quá,” Fflewddur lẩm bẩm, mặc dù ngọn lửa đang cháy rất sáng và trong. “Nó làm mắt tôi cay xè rồi.”
Ngọn lửa giờ đã lan tới tất cả các mẩu gỗ vụn, và khi những sợi dây đàn bốc cháy, một điệu nhạc bỗng phát ra từ giữa đống lửa. Nó vang lên to hơn và du dương hơn, và tiếng nhạc tràn ngập trong không gian, vang vọng mãi không dứt giữa các vách đá. Lúc sắp lụi tàn, cây đàn hạc dường như đang thốt lên tất cả những điệu nhạc đã từng được chơi trên nó, và tiếng nhạc lung linh chẳng khác nào những ngọn lửa.
Suốt đêm cây đàn hạc hát lên những bài ca về niềm hạnh phúc, nỗi khổ đau, tình yêu, và lòng can đảm. Ngọn lửa không hề yếu đi, dần dần nhóm bạn thấy hồi phục và lại sức. Và trong khi những nốt nhạc bay vút lên cao, một luồng gió từ phía nam thổi tới, rẽ tấm màn tuyết ra làm đôi và đem hơi ấm tới khắp vùng núi đồi. Chỉ đến lúc bình minh thì đống lửa mới tàn đi thành một đống than hồng và tiếng nhạc của cây đàn hạc ngưng lại. Cơn bão đã qua, các vách đá lấp lánh đầy tuyết đang tan chảy.
Kinh ngạc và không nói nên lời, nhóm bạn rời khỏi chỗ trú ẩn của mình. Fflewddur nán lại một chút. Cây đàn hạc không còn lại gì ngoài một sợi dây duy nhất, sợi dây không bao giờ đứt mà Gwydion đã tặng cho chàng ca sĩ cách đây đã lâu lắm rồi. Fflewddur quỳ xuống và lôi nó ra khỏi đống tro tàn. Hơi nóng của đống lửa đã làm sợi dây đàn hạc cong queo và xoắn lại, nhưng nó lấp lánh tựa vàng nguyên chất.
Hết chương 17. Mời các bạn đón đọc chương 18!