Ngày 1 tháng7; 10 giờ 34 phút
Venice, Italy
Hắn đang bị săn đuổi.
Stefano Gallo vội vã đi ngang qua quảng trường ngoài trời. Ánh nắng buổi sáng đã nung nóng những viên đá lát trên quảng trường và đám đông những khách du lịch thường ngày vội tìm kiếm bóng râm hoặc tụ tập trong các quán xá nằm dưới bóng mát của nhà thờ Thánh Mark. Nhưng cảnh tượng huy hoàng nhất trong nét hoành tráng của Venice cùng với mặt tháp Byzantine cao ngất nghểu, những con ngựa khổng lồ bằng đồng và các mái vòm không phải là mục tiêu của hắn.
Ngay cả vùng thánh địa được tôn vinh này cũng không thể che chở cho hắn.
Chỉ còn mỗi một hy vọng.
Bước chân của hắn trở nên vội vã hơn khi đi ngang qua nhà thờ. Vài con chim bồ câu vội vã bay lên khi thấy hắn xăm xăm đi đến chỗ chúng, bất chấp cả tiếng vỗ cánh phành phạch của chúng. Hắn không thể giấu mình được nữa. Hắn đã bị phát hiện. Hắn đã nhận ra một gã người Ai Cập còn trẻ với cặp mắt đen láy và bộ ria được tỉa khi đi vào từ phía bên kia quảng trường. Cặp mắt của họ chạm vào nhau. Gã đàn ông mặc một bộ com lê màu xám bóng loáng như được bôi dầu từ đôi vai rộng vạm vỡ của y. Lần đầu tiên gã chạm trán với Stefano khi gã ba hoa mình là một sinh viên khảo cổ ở Budapest, đại diện cho một người bạn cũ và đồng nghiệp ở Trường Đại học Athens.
Gã người Ai Cập đến từ Viện Khảo cổ để tìm kiếm một loại cổ vật. Một báu vật nho nhỏ. Một cột mốc bằng đá từ đất nước của gã. Gã được chính phủ chu cấp tiền nong để làm sao cho cổ vật đó được trả lại cho Ai Cập. Gã đã mang tới một khoản tiền kếch xù, có những dấu hiệu liên quan chặt chẽ với thủ quỹ. Stefano, một trong viên quản lý của bảo tàng, không phải lúc nào cũng nói không với chuyện nhận hối lộ. Những hóa đơn bệnh viện ngày càng leo thang của người vợ đe dọa vợ chồng hắn rất có thể bị tống ra khỏi căn hộ nhỏ đang ở. Có được khoản tiền bí mật đó không phải là điều bất hạnh; trong hai thập kỷ qua, chính phủ Ai Cập đã cố mua lại những báu vật quốc gia qua thu thập cá nhân và ép các viện bảo tàng phải hoàn trả lại những gì hợp pháp thuộc về nước họ.
Vậy là Stefano đã đồng ý, hứa sẽ mang báu vật tới. Thật ra thì một mẫu đá vô thưởng vô phạt là cái gì? Vật ấy đã nằm ở đây tròn một thế kỷ rồi theo như văn bản thống kê. Và nó được mô tả rất ngắn gọn: một mẫu vật bằng đá không ghi chú được khai quật ở Tanis, có niên đại từ triều đại thứ 26, năm 615 trước Công nguyên. Cũng chẳng có gì đặc biệt hoặc có ý nghĩa trừ phi ta nhìn gần vào, cân nhắc cái vẻ uy nghiêm của nó. Mẫu vật này đã đến từ bộ sưu tập danh tiếng của Bảo tàng Vatican ở Rome: Bảo tàng Gregorian Ai Cập.
Vì sao nó được đưa đến những hầm chứa ở Venice thật ra chẳng ai biết cả.
Thế rồi sáng hôm qua, Stefano nhận được một mẩu báo đựng trong một phong bì với một hình tượng duy nhất đóng dấu bằng sáp được gửi đến qua một người giao liên,.
Σ
Đó là một chữ Hy Lạp sigma.
Hắn không hiểu gì ý nghĩ của dấu cả, nhưng hắn hiểu được tầm quan trọng của mẩu báo kèm theo. Một bài được cắt từ tờ báo ra ba ngày trước đây, viết về một cái xác đàn ông được tìm thấy trên một bãi biển Aegean, họng bị rạch, cái xác nổi bập bềnh bị những con lươn đục làm ổ nham nhở. Một cơn bão mạnh đã làm cái xác bật tung khỏi cái mộ dưới nước của nó. Những chi tiết về răng của nạn nhân cho thấy đây chính là cái xác của người bạn học cùng đại học với hắn, người được biết là đã cử gã Ai Cập đó đến.
Người đàn ông xấu số đã chết được một tuần rồi.
Cơn sốc đã làm cho Stefano phải hành động vội vã. Hắn áp chặt hơn nữa vật nặng đó vào ngực, được gói ghém cẩn thận bằng một m nh vải vẫn còn lằng nhằng dây đóng gói.
Stefano đã lấy trộm báu vật từ trong kho, hắn thừa biết hành động đó sẽ đặt hắn, vợ con cùng cả gia đình vào sự hiểm nguy.
Hắn không còn sự lựa chọn nào khác. Cùng với bài báo khủng khiếp, cái phong bì được gắn xi đã chứa đựng một thông đạt duy nhất, không được ký, nhưng rõ ràng được viết vội vã bởi một bàn tay phụ nữ, một lời cảnh báo. Điều mà thông đạt chứa đựng có vẻ như là không thể tin được song hắn đã thử nghiệm lời cảnh báo. Điều đó được chứng minh là đúng.
Nước mắt chỉ chực trào ra khi hắn chạy, một tiếng nấc như chặn lấy cổ họng.
Không còn sự lựa chọn nào khác.
Mẫu đá không thể rơi vào tay gã người Ai Cập nọ. Tuy vậy, nó vẫn là một gánh nặng mà hắn từ chối chẳng muốn hứng chịu một cách không cần thiết. Vợ hắn và con gái hắn... hắn đã hình dung ra cái xác trôi bập bềnh của đồng nghiệp. Liệu cảnh này có rơi vào gia đình mình không?
Lạy Thánh Maria, con đã làm điều gì vậy?
Chỉ có một người duy nhất có thể đỡ cái gánh nặng đang đè lên vai hắn. Người đã gửi cho hắn cái phong bì, một lời cảnh báo gắn một chữ Hy Lạp. Cuối lá thư, là một địa điểm đã được nhắc tới, cùng với thời gian.
Hắn đã bị chậm rồi.
Tuy nhiên, gã Ai Cập một khi phát hiện ra vụ trộm mẫu vật, chắc cũng đã hình dung ra việc Stefano phản bội gã. Vì vậy gã đã đến đó từ lúc rạng đông. Stefano chỉ vừa kịp rời khỏi văn phòng. Hắn chạy bộ.
Nhưng vẫn không đủ nhanh.
Hắn ngoái lại kiểm tra. Gã người Ai Cập đã biến mất trong đám đông những du khách.
Quay trở lại, Stefano lủi thủi đi qua bóng râm của tháp chuông trên quảng trường San Marco. Đã có thời cái tháp canh bằng gạch được dùng làm tháp canh của thành phố, giám sát các cầu cảng quanh đó và canh giữ hải cảng. Liệu bây giờ nó có thể bảo vệ hắn không.
Mục tiêu của hắn nằm ở quảng trường nhỏ. Nằm nhô lên phía trước là lâu đài từ thế kỷ thứ XIV của các vị công tước. Cái vòm hai tầng kiểu gô-tích bằng đá Istrian và cẩm thạch Veronese màu hồng.
Tay vẫn ôm khư khư báu vật, hắn lê bước qua đường phố.
Liệu cô ta còn ở đó không? Liệu cô ấy có gánh đỡ cho mình không?
Hắn chạy vội về phía những bóng râm che chở, cố thoát cái nắng chói chang và sức nóng toát ra từ phía biển kề bên. Hắn cần mất hút trong cái mê hồn trận của lâu đài. Bên cạnh là nơi ở của công tước, lâu đài Ducai cũng còn là một cơ quan chính phủ, một tòa án, phòng hội đồng và cả một nhà tù cũ. Nhà tù mới nằm ở phía bên kia kênh đào, đằng sau lâu đài, được nối bằng một chiếc cầu vòm, cây cầu Sighs nổi tiếng nơi Casanova đã từng đào tẩu, kẻ tù nhân duy nhất có thể vượt ngục từ những xà lim của lâu đài.
Khi Stefano cúi xuống dưới chỗ nhô ra của lâu đài, hắn cầu nguyện hồn ma của Casanova che chở cho số phận của mình. Hắn cũng đã cảm thấy nhẹ nhõm đôi chút khi lủi vào chỗ bóng râm. Hắn biết rất rõ lâu đài này. Thật là quá dễ để mất hút trong cái ma trận của các hành lang, một địa điểm lý tưởng cho các cuộc gặp gỡ bí mật.
Và vì vậy hắn đã đặt lòng tin của mình.
Hắn đi vào lâu đài bằng cái cổng vòm phía tây, nhập vào đám du khách. Phía trước mở ra là cái sân rồng của lâu đài với hai cái giếng cổ và một cái cầu thang hoành tráng bằng cẩm thạch. Cái cầu thang của người khổng lồ. Stefano đi vòng cái sân rộng, cố tránh ánh nắng mặt trời sau khi đã trốn thoát được nó. Hắn đẩy cửa lối vào riêng dẫn đến một loạt phòng hành chính. Tất cả chạy thẳng đến văn phòng của viên cai ngục cũ, nơi biết bao nhiêu linh hồn đã từng bị tra tấn với những kiểu dã man và thảm thương nhất. Không dừng lại, Stefano tiếp tục bước vào một căn phòng tra tấn bằng đá nằm kề bên.
Một cánh cửa sập lại ở đâu đó đằng sau, làm hắn nhảy dựng lên.
Hắn lại ôm báu vật thật chặt hơn.
Những chỉ dẫn rất cụ thể.
Đi theo một cái cầu thang hẹp phía sau, hắn vòng vèo đi sâu vào phía hậu cung sâu nhất của lâu đài, có tên là Pozzi (Những cái giếng). Đây là nơi những tù nhân có tên tuổi nhất bị giam giữ.
Đó cũng là nơi hắn gặp gỡ đối tác.
Stefano hình dung ra ký tự của tiếng Hy Lạp chữ sigma.
Σ
Điều đó có nghĩa gì?
Hắn bước vào một hành lang dài, dọc theo những xà lim bằng đá đen, quá thấp để cho tù nhân không thể đứng được. Ở đây, người tù bị chết cóng trong ngày đông lạnh hay chết khát trong mùa hè dài dằng dặc của xứ Venetian, nhiều người đã bị bỏ quên lãng từ lũ chuột.
Stefano bấm chiếc đèn pin nhỏ xíu.
Tầng hầm cuối cùng của cái giếng xem ra đã bị bỏ quên. Khi hắn tiếp tục đi xuống sâu hơn, bước chân của Stefano vang vọng đập vào những bức tường đá, nghe như có ai đó đang bước theo hắn. Ngực hắn co thắt lại vì sợ hãi. Hắn chậm bước lại. Liệu mình có bị chậm không? Hắn thấy mình đang như nghẹt thở rồi tự nhiên lại ao ước có được chút ánh nắng mặt trời mà hắn đã lẩn trốn.
Hắn dừng lại, nỗi sợ hãi như xâm chiếm lấy hắn.
Như thể cảm nhận được sự ngập ngừng của hắn, một ánh sáng hiện ra, từ phía hành lang cuối.
"Ai đó?" Hắn hỏi.
Tiếng bước chân nhè nhẹ trên đá, tiếp sau là một giọng mềm mại bằng tiếng Italy với âm sắc rõ ràng.
"Tôi là người gửi cho ngài dòng chữ đó, ngài Gallo".
Một bóng người uyển chuyển hiện ra phía hành lang với ngọn đèn pin nhỏ trong tay. Ánh sáng quá yếu để có thể nhìn thấy vẻ mặt của người đàn bà ngay cả khi cô ta hạ cái đèn xuống thấp hơn. Mọi thứ cô ta mặc đều bằng da và màu đen, bó khít chặt lấy người từ ngực đến tận hông. Đường nét của thân hình lại bị che khuất bởi chiếc khăn quàng trùm từ trên đầu theo kiểu Ảrập Bedouin trừ đôi mắt lộ ra sáng quắc. Cô ta bước đi, vẻ uyển chuyển và khoan thai, dường như giúp trấn an được nhịp đập thình thịch của trái tim hắn.
Từ bóng tối bước ra, cô ta trông giống như tượng Madonna màu đen.
"Ông có mang theo cái báu vật đó không?"
"Tôi...tôi có", hắn lắp bắp rồi tiến thêm một bước về phía cô ta. Hắn chìa ra mẫu đá, lột miếng vải vứt sang một bên. "Tôi chẳng muốn dây dưa gì với nó nữa. Cô nói cô có thể mang nó đến một nơi an toàn."
"Tôi có thể làm được." Cô ta ra hiệu cho hắn đặt báu vật xuống sàn.
Hắn lom khom đặt cái mẫu vật bằng đá xuồng nền, vui mừng vì đã thoát được nó. Mẫu vật được làm bằng đá cẩm thạch màu đen, trên một đế hình vuông, mỗi bề chừng mười xăngtimét, ôm lấy một hình kim tự tháp cao chừng bốn mươi xăngtimét.
Người đàn bà cúi xuống trước mặt hắn, người hơi kiễng lên bằng những ngón chân trong đôi giày đen. Cô ta lia một lượt đèn pin trên bề mặt mẩu đá. Miếng đá cẩm thạch trông thật nham nhở, không được bảo quản cẩn thận. Có một vết nứt chạy ngang qua. Rõ ràng là vì sao nó bị lãng quên lâu như vậy.
Dù sao, máu cũng đã phải đổ ra vì nó.
Và hắn biết được vì sao.
Cô ta nhoai người về phía Stefano rồi gạt chiếc đèn pin của hắn xuống. Dùng một ngón tay, cô ta bật đèn pin của mình lên. Ánh sáng trắng mờ dần chuyển sang màu hồng đậm. Ngay cả vệt bụi trên miệng túi của hắn cũng được chiếu vào. Đường kẻ sọc trên chiếc áo sơ mi của hắn như mờ đi.
Tia cực tím.
Ánh sáng tắm nhòa mẫu vật đá.
Trước đấy thì Stefano cũng đã làm vậy để kiểm chứng lập luận của cô ta và tự mình chứng kiến phép mầu. Hắn tiến gần đến cô ta hơn, quan sát bốn mặt của mẩu đá.
Bề mặt của tảng đá không còn trắng trơn nữa.
Những hàng ký tự lấp lánh cả bốn góc.
Đó không phải là chữ viết tư ng hình.
Đó là một thứ ngôn ngữ có từ thời người Ai Cập cổ đại.
Stefano không giấu nổi vẻ lo lắng trong giọng nói của mình."Liệu nó có thực sự là chữ viết của..."
Đằng sau hắn những tiếng thì thào vọng lại từ trên sàn phía trên. Một tảng đá bị tuột ra lăn trên cầu thang hậu.
Stefano quay ngoắt lại, lo lắng, máu như đông cứng.
Hắn đã nhận ra vẻ bình tĩnh và ngữ điệu ngắt quãng của giọng thì thầm trong bóng tối.
Gã người Ai Cập.
Họ đã bị phát hiện.
Có lẽ cũng cảm nhận được điều này, người đàn bà tắt đèn, ngừng phát ra tia cực tím. Bóng tối đổ xuống xung quanh họ.
Stefano nhấc chiếc đèn pin lên, cố gắng tìm kiếm một chút hy vọng trên khuôn mặt của nàng Madonna đen này. Thay vào đó, hắn lại nhìn thấy một khẩu súng lục, gắn giảm thanh, trên bàn tay của người đàn bà đó chĩa thẳng vào mặt hắn. Hắn cảm thấy tuyệt vọng khi nhận ra quá muộn. Lại bị lừa nữa rồi.
"Im lặng, Stefano."
Giữa tiếng ho khan và ánh chớp lóe từ mũi súng, điều duy nhất người ta có thể nghĩ là một cái ngáp chết người.
Lạy Đức Mẹ Maria, hãy tha thứ cho con.
Ngày 3 tháng 7, 1 giờ 16 phút chiều
Thành phố Vatican,
Ngài Vigor Verona miễn cưỡng trèo lên cầu thang, trong đầu vẫn bị ám ảnh bởi những hình ảnh đám cháy và khói bụi. Trái tim ngài giờ đây quá nặng nề trước việc phải leo trèo cao như vậy. Ngài cảm thấy mình chắc phải già hơn cái tuổi sáu mươi đến chục tuổi. Dừng lại ở một lan can, ngài thò đầu ra ngoài, một tay giữ sau lưng.
Phía bên trên, cái cầu thang xoáy trôn ốc đúng là một mê cung ngổn ngang những giàn giáo. Biết rằng đó là một sự không may, Vigor cúi khom người chui qua cái thang của họa sĩ rồi tiếp tục leo lên cao phía cầu thang tối om dẫn đến ngọn tháp nghinh phong.
Mùi sơn mới làm mắt ngài cay sè, nước mắt như muốn trào ra trong khi vẫn có mùi vị khác ùa tới, những bóng ma của quá khứ mà ngài muốn quên đi.
Mùi thịt người cháy khét lẹt, mùi khói và tro bụi.
Hai năm trước đây, một vụ cháy nổ đã biến ngọn tháp thành một cây đuốc cháy rừng rực ngay trong lòng Vatican. Sau biết bao nhiêu công sức, ngọn tháp đã lấy lại được vẻ huy hoàng trong quá khứ của nó. Vigor trông đợi tháng tới, khi cái tháp sẽ được mở lại, và đích thân Giáo hoàng sẽ cắt băng khai mạc.
Nhưng điều chủ yếu nhất mà ngài mong đợi là cuối cùng có thể xếp quá khứ vào để nghỉ ngơi.
Ngay cả căn phòng Kinh tuyến nằm ở tầng trên cùng của ngọn tháp nơi Galileo đã tìm cách để chứng minh rằng trái đất quay xung quanh mặt trời cũng đã được phục hồi lại gần như cũ. Phải mất đến mười tám tháng qua bàn tay chăm sóc lão luyện của hàng chục nghệ nhân và nhà khoa học lịch sử, những bức bích họa từ tro tàn mới được tái tạo.
Liệu tất cả những thứ đó có thể được khôi phục bằng bàn chải và sơn.
Là Viện trưởng Viện Cơ mật Vatican, Vigor biết có bao nhiêu trong số tư liệu bí mật của Vatican đã vĩnh viễn bị mất đi trong khói, lửa và nước. Hàng ngàn cuốn sách cổ, bài viết có tranh minh họa và cuốn sách gáy bọc da, giấy tờ, bản kinh... Trong thế kỷ qua, những căn phòng của tháp đã được dùng như một ống thoát của cái hầm ngầm chứa tư liệu nằm sâu phía dưới.
Giờ thì thật buồn là thư viện lại có nhiều phòng hơn.
"Ngài Verona!"
Vigor giật mình quay trở về hiện tại, nhíu mày khi nghe một giọng nói khác. Nhưng đó chỉ là trợ lý của ngài, một sinh viên trường dòng trẻ tên là Claudio, gọi xuống từ trên đỉnh cầu thang. Anh ta chờ Vigor trong phòng Kinh tuyến sau khi trèo lên trước người sếp già cả của mình. Người thanh niên kéo cái dải phân cách bằng plastic ngăn cách cầu thang với căn phòng phía trên.
Cách đó một giờ, Vigor đã được người phụ trách nhóm làm công việc khôi phục mời lên đây. Thông điệp của ông ta rất khẩn cấp như một lời ẩn dụ. Hãy lên ngay. Một phát hiện khủng khiếp nhưng tuyệt vời vừa được tìm ra.
Vậy là Vigor vội vã rời văn phòng để trèo lên cao tít nóc tòa tháp vừa sơn lại. Ngài cũng chẳng kịp thay bộ đồ linh mục mặc từ buổi tiếp kiến ngài thư ký của Vatican sáng nay. Giờ đây ngài thấy tiếc sự lựa chọn quần áo của mình, quá nặng và nóng bức khi leo trèo vất vả như thế này. Nhưng cuối cùng ngài cũng tới được chỗ viên trợ lý rồi lấy khăn tay lau cái trán ướt đẫm mồ hôi của mình.
"Đi lối này, thưa ngài." Claudio gạt cái dải phân cách sang một bên.
"Cảm ơn, Claudio".
Bên kia dải phân cách, căn phòng phía trên nóng hầm hập như một cái lò, như thể những tảng đá của tháp vẫn còn lưu giữ lại nhiệt lượng từ vụ cháy cách đây hai năm. Thực ra đó là do ánh nắng mặt trời giữa trưa đã nung nóng ngọn tháp cao nhất của Vatican. Thành phố Rome đã đi vào một đợt nóng đặc biệt khủng khiếp. Vigor cầu mong có một cơn gió thoảng qua vì cái tên tháp là nghing phong cần phải luôn có gió đến mới phải.
Thực ra Vigor cũng biết mồ hôi đang lấm tấm trên trán ông không liên quan gì đến cái nóng hoặc việc phải leo lên cao trong bộ đồ linh mục. Từ khi xảy ra vụ hỏa hoạn, ông cố bằng mọi cách tránh trèo lên đây, nhất là ở độ cao như vậy. Từ bấy đến nay, ông cố gắng quay lưng lại, chỉ ở một trong những căn phòng từ phía xa.
Ông cũng đã từng có một người trợ lý trước Claudio.
Jakob.
Không chỉ có những cuốn sách đã bị cháy trong ngọn lửa ở nơi đây.
"À, ngài đây rồi". Một giọng nói vang lên.
Tiến sĩ Balthazar Pinosso, người giám sát công trình khôi phục phòng Kinh tuyến, bước nhanh ngang qua căn phòng hình tròn. Ông ta là một người đàn ông khổng lồ, cao gần bảy feet(1), ăn mặc quần áo màu trắng gần giống như nhà phẫu thuật, đi đôi ủng bằng giấy. Ông ta đeo một chiếc đèn trên đầu. Vigor rất quen ông ta. Balthazar là Trưởng khoa lịch sử nghệ thuật của trường Đại học Gregorian, nơi ông từng là Viện trưởng Viện Khảo cổ Thiên chúa của Giáo hoàng.
"Viện trưởng Verona, cảm ơn ngài đã lên sớm." Người đàn ông cao lớn liếc nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay, khẽ chớp mắt, và hóm hỉnh nhận xét về chuyện trèo lên chậm chạp của ông.
Vigor thấy vui trước lời nhận xét hóm hỉnh của đồng nghiệp. Sau khi nhận tước vị cao ở Viện Cơ mật, ít người dám nói với ông như vậy ngoài giọng điệu kính cẩn. "Balthazar, nếu tôi có cặp giò vĩ đại như ngài thì tôi có thể leo hai bậc thang một lúc để lên đây trước cả anh chàng Claudio đáng thương kia".
"Vậy thì tốt nhất chúng ta có thể kết thúc ở đây để ngài có thể quay trở về đánh một giấc ngủ trưa như mọi khi. Tôi không thích làm phiền những kẻ làm việc cần mẫn."
Bất chấp những lời pha trò của ông ta, Vigor vẫn nhận ra một chút căng thẳng trong đôi mắt ông. Ông cũng lưu ý Balthazar đã đuổi hết những người cùng làm việc với mình trong nhóm cộng tác. Nhận ra điều này, Vigor vẫy Claudio trở lại ghế.
"Liệu cậu cho chúng tôi nói chuyện riêng dăm phút được không, Claudio?"
"Vâng, thưa ngài".
Sau khi viên trợ lý lùi ra phía cầu thang rồi biến mất bên kia vạch ngăn bằng plastic, Vigor mới quay lại, hướng sự chú ý của mình vào người đồng nghiệp cũ. "Balthazar này, có chuyện gì khẩn cấp như vậy?"
"Đi nào, tôi sẽ chỉ cho ngài."
Khi người đàn ông tiến đến phía bên kia gian phòng, Vigor nhận thấy công việc khôi phục ở đây đã gần hoàn tất. Tất cả xung quanh các bức tường hình tròn và trên trần, vài tấm bích họa nổi tiếng của Nicolò Circignani mô tả các cảnh trong Kinh thánh với những đám mây và bụi cây phía trên. Một vài bức họa vẫn còn ngổn ngang với những mảnh lụa dính vào chờ phần việc tiếp theo. Nhưng hầu hết công việc gần như hoàn tất. Ngay cả hình khắc của cung hoàng đạo trên sàn nhà cũng đã được cạo sạch và đánh bóng đến tận chân nền đá cẩm thạch. Phía bên kia, một tia sáng như một ngọn giáo đơn độc xuyên qua một lỗ thủng nhỏ bên tường, chiếu xuống từ phía trên minh họa đường kinh tuyến chạy qua sàn màu sẫm, biến căn phòng thành một đài quan sát mặt trời thế kỷ thứ XVI.
Ở phía bên kia, Balthazar gạt tấm vải che, để lộ ra một cái tủ nhỏ. Trông nó giống như một cánh cửa gắn vào trong vẫn nguyên vẹn, tương phản với vết cháy sém của bề mặt bằng gỗ dày.
Nhà nghiên cứu lịch sử cao kều gõ mạnh vào một thanh đồng chốt giữ cửa."Chúng tôi đã phát hiện ra cánh cửa còn dẫn vào lối phía trong bằng đồng. Thật may mắn, cái đó đã giữ gìn mọi thứ bên trong căn phòng."
Mặc dù vẫn thấy hơi lo về việc bị triệu lên đây, ông vẫn không thể không tò mò "Vậy có cái gì ở trong đó?"
Balthazar đẩy cánh cửa mở ra. Đây là một căn phòng hẹp không có cửa sổ, tường làm bằng đá chỉ vừa đủ cho hai người đứng chạm nhau. Hai giá sách chồng lên mỗi bên, từ nền đến trần, đầp ắp những cuốn sách gáy da. Mặc dù sặc sụa mùi sơn mới, mùi mốc meo của căn phòng vẫn ngự trị, chứng tỏ mãnh lực của cái cổ xưa với cố gắng của con người.
"Toàn bộ đã được kiểm kê khi chúng tôi tới đây và dọn dẹp căn phòng nhỏ này". Balthazar giải thích. "Nhưng không cái gì có ý nghĩa được tìm thấy. Hầu hết là những văn bản cổ về thiên văn và hàng hải." Ông thở dài như nhận lỗi khi bước vào trong." Tôi e rằng mình phải thận trọng hơn với những lao động thuê hợp đồng ngày. Do tôi phải tập trung vào căn phòng Kinh tuyến nên đã đặt một lính gác Thụy Sĩ suốt đêm ở đây. Tôi cho rằng tất cả được giữ gìn cẩn thận".
Vigor bước theo ông ta vào căn phòng nhỏ.
"Chúng tôi cũng dùng căn phòng này để chứa một số dụng cụ." Balthazar chỉ vào ngăn dưới cùng của một cái giá. "Để giữ cho chúng khỏi bị giẫm lên".
Vigor lắc đầu, cảm thấy bắt đầu mệt mỏi vì nắng gắt và sự nặng nề trong đầu."Tôi không hiểu. Vậy tại sao tôi lại bị gọi lên đây?"
Giống như một tiếng lầu bầu phát ra từ lồng ngực. "Tuần trước đây", Balthazar nói, "một lính gác đã đuổi một kẻ nào đó rình mò quanh đây." Balthazar vẫy tay về phía gian buồng. "Tại đây".
"Tại sao tôi lại không được thông báo?" Vigor hỏi. "Thế có mất cái gì không?"
"Không, chỉ có vậy thôi. Lúc ấy ngài đang ở Milan và người lính gác đã đuổi kẻ lạ mặt đi rồi. Tôi chỉ hình dung đây là một tên ăn trộm thông thường, lợi dụng sự hỗn loạn ở đây do có quá nhiều nhân công kẻ ra, người vào. Sau đó, tôi cử thêm một người lính gác nữa chỉ để đề phòng."
Vigor vẫy tay để ông ta tiếp tục.
"Nhưng sáng nay, một trong tốp người tham gia phục chế quay lại trả chiếc đèn vào gian buồng nhỏ này, sau khi đã tắt đèn từ phía buồng bên kia. Rồi anh ta bật ngọn đèn pin nhỏ lên. Nó chi u rọi cả căn phòng với màu đỏ, chiếu sáng cả cái áo khoác màu trắng của anh ta. Chúng tôi dùng tia cực tím trong công việc phục chế đồ cổ. Nó giúp mang lại những chi tiết mà mắt thường không thể nhìn thấy."
Balthazar chỉ xuống nền đá cẩm thạch.
Nhưng Vigor đã để ý thấy những gì hiện ra dưới ánh sáng của ngọn đèn. Một hình bóng, sơn vụng về, sáng rực ở giữa sàn nhà.
Một con rồng đang cuộn, gần như thò cái đuôi ra.
Vigor lại cảm thấy như nghẹt thở. Thậm chí, ông loạng choạng lùi lại, cảm thấy như hụt hẫng giữa nỗi lo sợ và vẻ không tin. Tai ông lại vẳng lên những kỷ niệm của máu và tiếng la hét.
Balthazar đặt một bàn tay lên vai ông như thể trấn an. "Ngài có sao không? Lẽ ra, tôi phải chuẩn bị trước cho ngài kỹ hơn mới phải."
Vigor gạt tay ông ta ra. "Tôi... thấy ổn."
Để chứng tỏ điều này, ông quỳ xuống kiểm tra cái dấu hiệu vừa sáng lên, một thứ ông đã quá quen thuộc. Chính là Long Đình đã đốt cái tháp này hai năm trước đây, với sự trợ giúp của gã cựu Viện trưởng Viện Cơ mật, Alberto, giờ đây đã chết. Đó là một câu chuyện mà Vigor nghĩ là đã chấm dứt từ lâu, cuối cùng đã bị lãng quên, đặc biệt giờ đây khi cái tháp như một con phượng hoàng vươn lên từ tro tàn.
Vậy thì cái dấu hiệu này có nghĩa gì ở đây?
Vigor quỳ khom người bằng đầu gối trái. Dấu vết trông như được vẽ một cách vội vã, chỉ là một dấu thô thiển.
Balthazar thò đầu nhìn qua vai ông. "Tôi đã nghiên cứu nó qua kính lúp phóng đại. Tôi thấy có một giọt chất lỏng phục chế dưới lớp sơn phản quang, cho thấy nó mới được vẽ. Trong vòng một tuần, tôi dự đoán."
"Gã trộm..." Vigor lẩm bẩm, nhớ lại lúc bắt đầu câu chuyện.
"Có vẻ như không phải là một tên trộm thông thường".
Vigor lấy tay xoa xoa đầu gối. Cái dấu này có thể mới chỉ có một ý nghĩa. Một lời cảnh báo hoặc đe dọa, có thể là một thông điệp tới một nhóm Long Đình khác ở Vatican. Ông nhớ lại tin nhắn của Balthazar: một phát hiện tuyệt vời và khủng khiếp mới được tìm thấy. Nhìn chăm chú vào hình con rồng, giờ đây Vigor hiểu được bản chất khủng khiếp của tin nhắn.
Vigor liếc qua vai. "Ngài cũng nhắc đến cái gì đó tuyệt vời trong lời nhắn của mình."
Balthazar gật đầu. Ông ta quay lại mở cánh cửa gian phòng nhỏ phía sau, để cho một luồng ánh sáng từ căn phòng bên ngoài lọt vào. Với ánh sáng rực rỡ, con rồng phốt pho biến mất trên sàn như thể sợ ánh sáng.
Và Vigor cảm thấy như nghẹt thở.
"Hãy đến xem cái này," Balthazar quỳ xuống bên cạnh Vigor. "Chúng ta có thể bỏ qua cái này nếu không phải là con rồng đang quằn quại trên sàn."
Ông ta khom người tựa vào một bàn tay rồi rút cánh tay kia ra. Những ngón tay xoa trên nền đá trơ trụi. "Phải lấy kính lúp mới thấy được. Tôi bắt gặp cảnh này khi kiểm tra loại sơn bóng. Trong khi chờ ngài, tôi đã cạo đi một lớp bột và đất trên bức khắc."
Vigor nghiên cứu cái nền đá." Bức khắc nào vậy?"
"Hãy cúi xuống sát hơn nữa. Sờ thấy ở đây".
Vigor làm theo. Ông cảm thấy hơn là những gì đã nhìn thấy bằng ngón tay, giống như người mù đọc chữ Baille. Có một hàng ký tự mỏng mảnh trên đá.
Ông cũng chẳng cần chờ đến đánh giá của Balthazar cũng biết bức chạm này là rất cổ. Những hình tượng này rõ ràng và sắc nét như lời trích khoa học mà không phải là những dòng chữ nguệch ngoạc của một nhà vật lý. Là cựu Viện trưởng Viện Khảo cổ của Giáo hoàng, Vigor nhận ra ý nghĩa của nó.
Balthazar chắc đã đoán ra được phản ứng của ông. Giọng ông ta thì thầm như những kẻ tòng phạm. "Liệu có đúng như điều tôi nghĩ không?"
Vigor ngồi lui lại, xoa bụi trên ngón tay." Một dòng ký tự cổ hơn tiếng Hebrew." Ông lẩm bẩm. "Ngôn ngữ đầu tiên nếu như ông phải tin vào câu chuyện."
"Vậy tại sao nó được vẽ ở đây? Điều đó có nghĩa gì?"
Vigor lắc đầu rồi nghiên cứu cái nền nhà, một câu hỏi nữa xuất hiện. Một lần nữa, dấu vết của con rồng lại xuất hiện, nhưng là trong tâm trí ông, được chiếu sáng bởi sự băn khoăn hơn là ánh sáng của tia cực tím. Trên mặt đá, con rồng đã cuộn lại xung quanh dòng chữ như thể để bảo vệ.
Những câu nói trước đây của người bạn ông lại quay trở về với Vigor. Chúng ta có thể bỏ qua cái này nếu như nó không được vẽ trên sàn. Có thể con rồng không phải bảo vệ dòng chữ chạm cổ, mà để chiếu ánh sáng vào đó.
Nhưng vậy thì có nghĩa là cặp mắt của ai?
Khi Vigor hình dung ra con rồng cuộn, ông lại cảm thấy sức nặng thân hình của Jakob bị cháy sém trên đôi tay mình.
Vào giây phút này, Vigor đã hiểu được sự thật. Thông đạt này không phải nhắm tới một điệp viên nữa của Long Đình, một tên phản phúc nữa giống như gã Alberto. Đó nhằm lôi kéo một ai đấy gắn chặt với lịch sử của Long Đình, ai đấy hiểu biết về ý nghĩa của nó.
Thông đạt này được dành cho ông.
Nhưng tại sao vậy? Nó có nghĩa gì?
Vigor chậm rãi đứng dậy.
Ông biết một người có thể giúp, một người mà ông đã cố tránh liên lạc từ một năm nay. Từ bấy đến nay, không cần thiết phải liên hệ, đặc biệt sau khi người đàn ông đó đã chia tay với cô cháu gái ông. Song Vigor hiểu rằng một phần trong sự kín đáo của ông không nằm cùng với những trái tim bị tan nát. Người đàn ông đó, cũng giống như ngọn tháp này, gợi cho ông nhớ đến quá khứ đẫm máu ở đây, một quá khứ mà ông muốn quên đi.
Nhưng giờ thì ông không còn sự lựa chọn nào.
Hình tượng con rồng vẫn lóe lên trong đầu ông, đầy vẻ đe dọa chết người.
Ông cần sự giúp đỡ.
Ngày 4 tháng 7, 11 giờ 44 phút tối
Công viên Takoma, Maryland
"Gray, con mang rác đi đổ được không?"
"Vâng con làm ngay đây, thưa mẹ."
Trong phòng khách, Chỉ huy Gray Pierce nhặt chỗ vỏ chai bia sau bữa tiệc tưởng nhớ về người lính đã hy sinh ngày mồng bảy tháng bảy của cha mẹ, lẳng nó vào túi ni lông. Cuối cùng thì đám tiệc cũng tan.
Anh nhìn đồng hồ. Đã gần tới nửa đêm.
Gray nhặt hai cái vỏ chai bia nữa ở cái bàn phía trước rồi dừng lại ở cửa ra vào, mong có tí gió lùa cánh cửa xoay. Mùi hương nhài thoảng về ban đêm hòa lẫn những gì còn sót lại sau trận pháo hoa. Từ phía xa, một vài tiếng còi tiếp tục phá màn đêm yên tĩnh. Một con chó tru lên từ cái sân phía sau làm cho không gian thêm nặng nề.
Chỉ còn vài vị khách lưu lại dưới cái cửa vòm dẫn vào ngôi nhà vườn của bố mẹ; họ đi loăng quăng hoặc dựa vào lan can tận hưởng không khí trong lành về đêm sau một ngày nóng như đổ lửa của mùa hè Maryland. Họ đều đứng đó ngắm cảnh bắn pháo hoa ba giờ trước đây. Rồi thì đám người dự tiệc cũng bớt dần khi màn đêm buông xuống. Chỉ còn một số ít nhiệt tình nhất ở lại.
Giống như ông sếp của Gray.
Giám đốc Painter Crowe dựa vào một cái cột, người cúi xuống gần viên trợ giảng của mẹ Gray. Anh ta là một thanh niên đến đây từ Congo sau khi giành được học bổng tại trường Đại học George Washington. Painter Crowe đang mải mê căn vặn anh chàng về tình trạng hỗn loạn ở quê hương anh. Hình như ngay khi dự buổi tiệc, vị giám đốc của lực lượng Sigma cũng vẫn quan tâm đến nhịp đập của thế giới.
Có khi cũng chính vì vậy đã làm cho ông ta trở thành một giám đốc vĩ đại.
Lực lượng Sigma hoạt động như một nhánh công khai của đơn vị Nghiên cứu và Phát triển của Bộ Quốc phòng, gọi tắt là DARPA. Những thành viên của nó được cử đi để canh gác hoặc làm vô hiệu hóa các vấn đề công nghệ cốt tử đối với nền an ninh của nước Mỹ. Nhóm gồm những binh lính của lực lượng đặc biệt được tuyển một cách bí mật và đưa vào một chương trình đào tạo tiến sĩ đầy hiệu quả, làm nên một tốp quân sự hóa gồm những nhân viên được huấn luyện về kỹ thuật.
Giống như Monk, những người bạn và thành viên trong nhóm của Gray, thường hay đùa tếu táo với nhau: Những nhà khoa học giết người.
Với trách nhiệm như vậy, sự thoải mái duy nhất của Giám đốc Crowe trong đêm hôm đó có lẽ chỉ ở cốc whisky vẫn đặt trên hàng rào. Ông nhâm nhi nó suốt cả buổi tối. Như thể biết được mọi người quan sát mình, ông gật đầu ra hiệu cho Gray ra phía ngoài cửa.
Trong bóng tối nhập nhoạng từ mấy cây đèn nến, vị giám đốc hắt bóng lên như bằng đá, mặc quần áo toàn màu đen và sơ mi là phẳng. Di sản nửa Mỹ của ông có thể được đọc trên khuôn mặt cương nghị của ông.
Gray ngắm nghía những đường nét trên khuôn mặt ông, cố tìm kiếm xem có gì đó khác thường, hoàn toàn biết được áp lực ông vẫn phải gánh chịu. Cơ cấu tổ chức của Sigma đã phải trải qua một cuộc kiểm tra toàn diện của bộ phận thanh lọc nội bộ trong DARPA và mới đây là cuộc khủng hoảng về y tế đang diễn ra ở Đông Nam Á. Vì vậy thật hay khi nhìn thấy ông chui ra khỏi khu văn phòng nằm ngầm dưới mặt đất của Sigma.
Nếu như chỉ đêm hôm nay thôi.
Tuy nhiên, công vụ vẫn không bao giờ tách ra khỏi đầu óc của giám đốc.
Hiểu điều này, Painter đứng dậy đi ra khỏi hàng lan can rồi bước về phía cửa. "Có lẽ tôi phải về." Ông gọi Gray và nhìn đồng hồ. "Tôi nghĩ mình quay lại cơ quan xem Lisa và Monk đã tới nơi yên ổn chưa."
Hai nhà khoa học, tiến sĩ Lisa Cummings và Monk Kokkalis, đã được cử đi điều tra một vụ khủng hoảng y tế ở các hòn đảo Indonesia. Hai người, được cử đi với danh nghĩa nhân viên của Tổ chức Y tế Thế giới, đã rời đi sáng nay.
Gray đẩy cánh cửa rồi bước tới bắt tay sếp. Anh biết sự quan tâm của Painter đối với lộ trình của hai người là quá cương vị của ông, một giám đốc các phi vụ. Anh đọc thấy sự băn khoăn của một người đàn ông đang yêu.
"Tôi tin là Lisa ổn thôi". Gray trấn an ông, biết rằng Lisa và Painter mới chỉ chia tay nhau cách đây không lâu. "Thực ra ngay khi cô ta tháo đôi khuyên tai, tiếng ngáy của Monk có thể làm chao đảo cả đầu máy hay cánh máy bay. Và nếu như có tin tức gì, ngài hãy cho Kat biết..."
Painter giơ vội cánh tay. "Cô ta đã gọi vào máy của tôi hai lần tối hôm nay rồi, kiểm tra xem tôi có tin gì không". Ông tợp hết chỗ whisky. "Tôi sẽ gọi cho cô ta ngay nếu biết được gì."
"Tôi nghi Monk sẽ gọi trước anh cho mà xem, làm sao trả lời cả hai người phụ nữ được."
Painter cười, vẻ mệt mỏi.
Ba tháng trước đây, Kat và Monk đã cho ra đời một bé gái nặng hơn sáu pound(1), đặt tên là Penelope Anne. Sau khi đư ợc phân công đi thực hiện phi vụ này, Monk đã nói đùa thế là có thể thoát được khoản tã lót và cho trẻ ăn đêm, nhưng Gray vẫn đọc được nỗi buồn sâu sắc trong mắt người bạn khi phải rời vợ và đứa con gái nhỏ.
"Cảm ơn giám đốc đã tới, tôi sẽ gặp ngài sáng mai."
"Chuyển lời cảm ơn của tôi tới gia đình anh."
Được nhắc nhở như vậy, Gray liếc nhìn ánh đèn phía bên trái ngôi nhà, từ cái gara đằng sau. Bố anh đã rời vào đó từ trước rồi. Ông cũng chẳng buồn ngắm nhìn màn trình diễn pháo hoa hoặc đi ra đường vào buổi tối. Gần đây, bố anh ngày càng cảm thấy xa lánh các buổi giao tiếp xã hội khi căn bệnh đãng trí của ông phát triển, quên tên mọi người, nhắc đi nhắc lại những câu hỏi đã được trả lời rồi. Sự bực bội của ông dẫn đến căng thẳng giữa hai cha con. Sau đó, bố anh bỏ xuống gara và nơi làm việc của ông.
Bố anh ngày càng trụ lại ở đó nhiều. Gray nghi ngờ bố anh không giấu giếm gì mọi người như đi vòng quanh các toa xe, tìm một nơi cô tịch để bảo vệ những gì còn lại của đồ nghề của ông, tìm kiếm sự cô đơn trong những chiếc bào gỗ hay tô vít. Mặc dù suy nghĩ vậy, Gray vẫn nhận ra nỗi sợ hãi cứ lớn dần sau đôi mắt của bố.
"Tôi sẽ chuyển lời." Gray lẩm bẩm.
Sau khi Painter ra về, những người cuối cùng trong đám thực khách cũng về theo. Một người dừng lại chúc sức khỏe mẹ anh trong khi Gray nói lời chia tay với những người khác. Cuối cùng thì anh cũng thấy mình đứng một mình
"Gray!" Mẹ anh gọi từ trong nhà. "Thùng rác!"
Thở dài một cái, anh cúi xuống thu nhặt những vỏ chai không, vỏ hộp và cốc giấy. Anh sẽ giúp mẹ dọn dẹp rồi đạp xe một quãng ngắn về căn hộ của mình. Sau khi sập cánh cửa cuốn xuống phía sau, Gray tắt ngọn đèn cổng, đi về phía sàn gỗ ở gần bếp. Anh nghe thấy tiếng máy rửa bát kêu vo vo rồi tiếng bát đĩa va đập trong chậu rửa.
"Mẹ để con dọn dẹp các thứ cho. Mẹ đi ngủ đi." Gray nói và đi vào bếp.
Mẹ anh quay lại từ phía chậu rửa. Bà mặc bộ quần áo vải màu xanh sẫm, đeo tạp dề. Vào những lúc như thế này, vội vàng như thể mẹ vừa đi dự buổi tiệc, vẻ luống tuổi của mẹ anh bỗng nhiên đập vào mắt anh. Người đàn bà già nua tóc bạc này là ai trong căn bếp của mẹ anh?
Rồi mẹ vắt chiếc khăn ướt trước anh làm anh xua tan ngay sự mộng tưởng.
"Con đi lấy thùng rác. Mẹ gần xong ở đây rồi. Và nói bố con hãy về nhà. Các bác sĩ không khuyến khích việc ông ấy làm mộc vào ban đêm đâu. Ồ, mẹ phải thu dọn chỗ thịt gà còn thừa lại. Liệu con có thể đem chỗ đồ ăn đó vào tủ lạnh trong gara không?"
"Vâng con sẽ quay lại ngay." Anh vớ lấy hai cái túi rác bằng một tay còn tay kia cầm thùng chứa những vỏ chai."Con quay lại ngay b y giờ đây."
Anh dùng hông đẩy cánh cửa sau rồi bước ra phía sân sau tối mò. Cẩn thận leo lên hai bậc thang phía sau, anh bước tới chỗ gara và dãy thùng đựng rác xếp dọc theo. Anh thấy mình đi nhẹ nhàng cố không để những chiếc vỏ chai phát ra tiếng kêu. Một cái vòi phun nước đã phản lại anh.
Anh sững người lại và cái thùng đựng vỏ chai nghiêng ngả làm anh mất thăng bằng. Một chú chó hàng xóm sủa lên.
Rầm..
Tiếng bố anh nói từ phía gara. "Có phải Gray đó không, nếu con ở đấy hãy giúp bố một tay nào!"
Gray hơi sững lại. Sau trận gần như to tiếng với bố anh lúc tối, anh không muốn lại có chuyện đôi co vào lúc nửa đêm nữa. Trong những năm qua, hai bố con đã có quan hệ rất tốt với nhau, cùng tìm một tiếng nói chung sau cả một đời xa cách. Nhưng từ tháng truớc, khi một vài cuộc kiểm tra sức khỏe đã làm trôi tuột mọi thứ thì thái độ của ông lại trở nên lạnh lùng khó hiểu.
"Gray!"
"Chờ chút ạ!" Anh đặt túi rác xuống một trong những thùng rác mở toang rồi đặt túi vỏ chai bên cạnh. Trấn tĩnh lại, Gray bước vào chỗ đèn sáng từ phía gara.
Mùi mùn cưa và dầu phả vào mũi anh, làm anh nhớ lại những ngày tồi tệ. Mày là đồ con lợn... mày làm tao phải nghĩ lại việc dùng một trong những dụng cụ để quật cho mày một trận nhừ tử...
Bố anh quỳ xuống trên sàn bên cạnh một lon cà phê bị đổ ra ngoài. Ông đang lau dọn. Anh để ý thấy có vết máu trên sàn từ bàn tay trái của bố.
Bố anh ngồi dậy khi Gray bước sang bên cạnh. Dưới ánh đèn nê-ông, không thể nào không để ý đến sự giống nhau của hai khuôn mặt. Đối mắt xanh lơ của bố cũng có ánh thép như của Gray. Khuôn mặt của họ đều có những nét sắc nhọn, một di sản rõ ràng của xứ Wales. Không chệch đi đằng nào cả. Anh sẽ trở thành như bố anh. Mặc dù tóc Gray vẫn còn đen nhánh nhưng đã bắt đầu lốm đốm sợi bạc.
Phát hiện bàn tay bị chảy máu, Gray tiến lại rồi ra hiệu cho bố đi đến chậu rửa phía sau. "Bố đi rửa tay đi."
"Đừng nói với ta phải làm gì."
Gray định cãi lại nhưng rồi lại nghĩ tốt nhất là cúi xuống giúp bố. "Xảy ra chuyện gì vậy, bố?"
"Bố đang tìm mấy con ốc." Bố anh vẫy tay về phía bàn làm việc.
"Nhưng đây là mấy cái đinh."
Cặp mắt của bố sáng quắc nhìn anh. "Thôi đừng vớ vẩn, Sherlock!" Cái nhìn của ông như bực bội, không kiềm chế được song Gray biết nó không hướng tới anh.
Nhận thấy điều này, anh vẫn im lặng và thu dọn chỗ đinh vào cái hộp đựng cà phê rỗng. Bố anh lại nhìn xuống hai bàn tay, một tay bị chảy máu, một tay không.
"Bố?"
Người đàn ông to lớn lắc đầu, rồi cuối cùng nhẹ nhàng nói. "Mẹ kiếp..."
Gray chẳng muốn tranh luận.
Khi Gray còn bé, bố anh đã làm việc trong những mỏ dầu ở Texas cho đến khi một tai nạn công nghiệp làm ông bị tàn tật, một chân bị cụt đến tận đầu gối đã biến người đàn ông thợ mỏ này trở thành người nội trợ. Gray đã phải chịu đựng sự cáu bẳn của ông, luôn cảm thấy thiếu thốn, không thể trở thành người đàn ông như ông muốn anh.
Gray thấy bố chăm chú nhìn vào đôi bàn tay và nhận ra sự thật phũ phàng. Có thể sự cáu giận của người đàn ông già nua này luôn hướng vào nội tâm. Giống như giờ đây. Không còn cáu giận với đứa con trai, người mà ông bực tức đã không trở thành người như ông mong muốn. Giờ đây, sự bất lực cũng dần dần làm điều đó tiêu tan.
Gray cố nghĩ ra vài từ.
Trong khi anh mải suy nghĩ, tiếng gào của xe mô tô đã cắt ngang dòng suy nghĩ. Ở dưới phố, tiếng bánh xe rít xuống nền đường, như cạo sạch nhựa đường bằng lốp xe.
Gray đứng dậy đặt cái lọ cà phê lên ghế. Bố anh làu bàu chửi kẻ lái mô tô, có thể là một kẻ say rượu. Tuy vậy, Gray vẫn giơ tay lên tắt ngọn đèn trong gara.
"Mày làm gì vậy...?"
"Bố đứng yên đấy."Gray nói.
Có cái gì đó không ổn...
Chiếc xe hiện ra, một chiếc Yamaha đen trũi, gớm ghiếc. Nó rồ máy vào trong, lượn sang bên. Ngọn đèn pha đằng trước tắt ngóm. Chính điều này làm đầu óc Gray căng thẳng. Không thấy có ánh đèn pha chiếu sáng đường phố trước tiếng động cơ. Chiếc xe chạy trong bóng đêm.
Không hề giảm tốc độ, chiếc xe quay lại. Bánh xe sau như bốc khói khi nó đột ngột quay lại. Nó ngập ngừng rồi vọt lên trước.
"Cái quái gì vậy!" Bố anh hét lên.
Người lái xe phải trả giá cho cú lượn đột ngột. Chiếc xe vọt lên rồi đập vào hè. Người lái cố kiểm soát nhưng bánh sau đã quệt vào bậc thang cửa vòm.
Chiếc xe bắn tóe ra những tia lửa, như trở thành một cuộc trình diễn ngày 4 tháng 7. Bị ném vật xuống, người lái xe lăn một vòng cách gara một quãng không xa mấy.
Ở phía cuối đường, tiếng động cơ khựng lên rồi tắt hẳn.
Những tia lửa cũng tắt dần, bóng tối trở lại.
"Lạy Chúa!" Bố anh hét lên.
Gray nắm một tay bố kéo ông nằm yên trong gara. Tay kia, anh rút khẩu súng 9 ly từ bao đựng súng. Anh đi về phía thân hình nằm sóng soài, mặc một màu đen, da, khăn và mũ choàng.
Có tiếng rên khẽ cho thấy người lái xe vẫn còn sống và đó là một phụ nữ.
Cô ta nằm nghiêng một bên, da rách toạc.
Mẹ Gray hiện ra phía cửa sau, đứng trên cái vòm cổng, sau khi nghe tiếng động. "Gray, cái gì vậy?"
"Mẹ đứng lại đấy đi!" Anh gọi với.
Khi Gray bước tới chỗ người lái xe bị ngã, anh để ý có cái gì đó văng ra cách chiếc xe. Hình ảnh màu đen của nó phản chiếu trên nền xi măng màu sáng ở lối đi. Nó trông giống như một cái cột bằng đá đen, bị tung ra. Từ phía bên trong tối om, ánh sáng kim loại phản chiếu dưới ánh trăng.
Chính ánh lấp lánh bạc đã thu hút sự chú ý của anh khi anh bước tới phía người lái xe.
Một sợi dây bạc đeo trên cổ người đàn bà.
Nó có hình con rồng.
Gray nhận ra nó ngay lập tức. Anh cũng đeo một cái như vậy trên cổ, một món quà từ kẻ thù cũ, một lời cảnh báo và một lời hứa khi họ tình cờ gặp lại.
Gray nắm chặt khẩu súng.
Cô ta xoay người lật ngửa trở lại với tiếng rên. Máu chảy trên nền xi măng, một dòng sông đen chảy ngược về bãi cỏ phía sau. Gray nhận ra vết thương từ phía sau.
Bị bắn từ đằng sau.
Một bàn tay thò ra kéo cái mũ đi mô tô. Một khuôn mặt quen thuộc, nhăn nhó vì đau đớn, nhìn anh trừng trừng, mái tóc đem sẫm. Da xạm nắng và cặp mắt hạt dẻ để lộ nguồn gốc lai Á cùng lai lịch của cô ta.
"Seichan..." anh nói.
Một bàn tay thò ra với lấy anh, run rẩy. "Chỉ huy Pierce... hãy giúp tôi..."
Anh thấy được nỗi đau trong những lời của cô nhưng cũng có điều gì đó mà anh chưa bao giờ nghe thấy ở kẻ thù máu lạnh này.
Sự sợ hãi.
1. Đơn vị đo lường Anh.
1. Đơn vị đo trọng lượng của Anh, bằng 0,454kg.