Đó là lúc sắp tối. Mặt trời đang đổ những luồng ánh sáng đỏ rực xuống quần đảo Ngọc khi chiếc máy bay đến gần sân bay quốc tế Massa.
Jamil ngồi lặng lẽ chỗ bên cửa sổ máy bay nhìn ra ngoài chờ đợi. Rất nhiều chuyện đang đi qua tâm trí cậu. "Hòn đảo trông sẽ như thế nào nhỉ? Xa vắng bao lâu nay, liệu mình còn có thể nhận ra bất cứ thứ gì ở đó nữa không? Liệu mình có thể tìm lại được những người thân và bạn bè?" Jamil nhìn qua cửa sổ và thấy những đám mây rải rác cùng hoàng hôn đang xuống xa xa.
"Phi hành đoàn chuẩn bị hạ cánh", tiếng của viên phi công cắt ngang dòng suy nghĩ của cậu.
Jamil hít một hơi thật sâu. Cuối cùng cậu cũng nhận ra rằng mình sẽ đặt chân lên mảnh đất quê hương trong vài phút nữa. Đấy là nơi cậu đã ra đi mười chín năm trước để tìm kiếm chiếc chìa khóa vàng.
"Cuối cùng cũng về nhà", Haske ngồi cạnh thì thầm. "Và mang theo chiếc chìa khóa." Cô rất phấn khích. Cô mỉm cười với cậu, hít một hơi thật sâu và bắt đầu buộc mớ tóc xoăn xù to của mình. Haske vỗ nhẹ lên đùi cậu. 'Tất cả mọi thứ đều sẽ tốt đẹp thôi ", cô trấn an. Đôi mắt Haske lấp lánh chưa từng thấy với niềm vui và hứng thú. "Được rồi, thắt dây an toàn vào", cô mỉm cười nói. Cậu thắt dây an toàn, nhưng vẫn im lặng.
Máy bay xuống thấp dần và hạ cánh.
Ánh mắt tò mò của Jamil không nhìn thấy bất cứ thứ gì quen thuộc từ trên máy bay. Sân bay được xây dựng trên một hòn đảo nhân tạo ngoài biển, cách xa hòn đảo nơi cậu từng sống. Cậu cố hình dung dáng hình hòn đảo, nhưng không thể.
"Mọi thứ sẽ ổn thôi". Haske nói khi họ bước ra khỏi máy bay.
"Anh có khai báo gì không?" Một nhân viên hải quan nhìn Jamil hỏi.
"Không ạ." Jamil trả lời một cách lịch sự.
"Phiền anh mở túi để kiểm tra." Viên hải quan yêu cầu.
Jamil mở túi theo yêu cầu.
"Cái này là gì?" Chính viên hải quan đó chỉ vào một vật được gói ở trong ba lô của Jamil hỏi.
"Đấy là quà lưu niệm từ vương quốc Pashia." Jamil
"Nhưng cái gì?" Viên hải quan lại khăng khăng hỏi.
"Nó là một phần của một chiếc chìa khóa... một món đồ cổ." Jamil giải thích.
"Ra thế. Cậu có thể đi." Viên hải quan khoát tay.
Jamil và Haske bước vào sảnh đến, nơi có một băng hiệu rất lớn đón họ với dòng chữ: CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI QUẦN ĐẢO NGỌC - NƠI MẶT TRỜI KHÔNG BAO GIỜ LẶN! Jamil cảm thấy lạ khi họ đi từ từ ngang qua sảnh. Không có gì xung quanh cậu trông quen thuộc hết. Cậu nhìn đâu cũng thấy cửa hàng và cửa hiệu.
"Và sân bay này được xây dựng trên biển?" Cậu hỏi một câu bâng quơ.
"Vâng, Jamil, trên một hòn đảo nhân tạo." Haske tự động trả lời.
"Thật không thể tin được." Jamil choáng ngợp
thốt lên.
Cả hai đi đến bàn tiếp đón, chỗ một cô gái trẻ trong bộ đồng phục màu đỏ và trắng chào đón họ với một nụ cười hết cỡ. "Chào mừng quý vị đến với quần đảo Ngọc,
hay mảnh đất thịnh vượng như một số người chúng ta vẫn gọi." Cô gái vẫn mỉm cười nói."Tôi có thể giúp được gì cho anh chị?"
"Chúng tôi có thể đến Gariyon bằng cách nào?"
Jamil hỏi.
"Gariyon cũ hay mới ạ?" Cô gái hỏi.
Jamil nhìn Haske như thể cô đã có câu trả lời hiện trên nét mặt. Haske mỉm cười. Cô gái trẻ ở quầy giải thích. "Gariyon cũ thì ở Jaycity, nằm trên hòn đảo chính, gọi là đảo Massa Hùng vĩ. Gariyon mới thì ở nơi rất xa gọi là Tân Khai Đảo."
"Tôi nhầm lẫn mất rồi." Jamil thú nhận.
"Gariyon mới chắc chắn không phải là nơi cho khách du lịch như anh chị. Đó là khu ổ chuột bên kia dãy núi. Còn Gariyon cũ dành cho du khách. Cuộc sống sôi động hơn Gariyon mới. Ở đó có nhiều thứ để xem và thân quen hơn. Có vũ trường này, cửa hàng này, khách sạn này, ngân hàng này, sòng bạc này."
"Thế những người dân của Gariyon cũ ở đâu?"
Jamil hỏi.
"Họ đều di dời đến Gariyon mới, cách đây khoảng chục năm, để nhường chỗ cho hiện đại hóa và tái
phát triển."
"Tôi hiểu rồi." Jamil gật đầu nói.
"Tôi khuyên anh chị nên đến Gariyon cũ bởi đó là nơi vui vẻ. Chẳng có gì ở khu Gariyon mới để xem đâu,và chân thành mà nói có lúc còn nguy hiểm đó." Cô gái gợi ý.
"Đến đó thế nào?" Haske hỏi. "Vui chơi thì không thể chờ đợi được."
"Anh chị có thể đi bằng thuyền qua Cổng ra số 1 hoặc đi xe lửa dưới đáy biển Cổng ra số 2. Cả hai lối đều dẫn đến Villancia. Từ đó anh chị đi xe buýt số 10, dừng bến cuối cùng ở Jaycity." Cô gái vừa giải thích vừa nhìn vào bản đồ quần đảo Ngọc.
"Ý bạn muốn nói có dịch vụ xe lửa dưới đáy biển à?" Jamil lúng túng hỏi.
"Vâng, Massa Metro chạy từ sân bay đến đảo Massa Hùng vĩ cứ mười phút một chuyến, dưới biển." Cô gái giảng giải.
"Thật không thể tin nổi." Jamil nhìn chằm chằm những đường nét và màu sắc của bản đồ. Cô gái thấy thế liền giải thích.
"Chúng ta có bảy hòn đảo. Hai hòn đảo tự nhiên và năm hòn đảo nhân tạo, bao gồm đảo ta đang đứng đây."
"Tôi hiểu." Jamil nói, dù không hiểu hết những gì cô gái muốn nói. "Xin nói cho tôi biết một điều. Sao nơi này lại có tên là quần đảo Ngọc vậy?"
"Sau Thảm họa kép - đó là những trận động đất và phun trào núi lửa diễn ra khoảng hai mươi năm trước đây, bán đảo Tatasi đã bị phá hủy. Ngay khi đã mất hết hy vọng, thì có rất nhiều ngọc trai xuất hiện và số lượng rất lớn."
"Bạn nói đã mất hết hy vọng là nghĩa làm sao?"
"Sau Thảm họa kép, không gì có thể mọc nổi trên hòn đảo mới, thậm chí cả loại cây làm cho nơi này giàu có và nổi tiếng được gọi là Tatasi."
"Thế các bạn lấy thực phẩm từ đâu?" Haske hỏi.
"Mọi thứ đều phải nhập khẩu."
"Mọi thứ?"
"Chúng tôi đủ giàu để nhập khẩu tất cả mọi thứ".
"Thế cá thì sao? Tôi thích cá lắm." Haske hào hứng hỏi
"Như anh chị sẽ thấy có rất ít chỗ cho trang trại nuôi cá và việc nhập khẩu cá thì kinh tế hơn là đánh bắt cá ở vùng quanh đây."
"Cho phép tôi hiểu thế này có đúng không nhé," Jamil nghiêm túc nhìn và nói với cô gái. "Những gì bạn đang nói là không còn các trang trại Tatasi nữa trên đảo Tatasi."
"Xin lỗi, thưa anh, không còn cây Tatasi trên quần đảo Ngọc nữa. Tuy nhiên vẫn còn một vài cây trong bảo tàng Tatasi cho khách du lịch như anh xem và sờ chúng." Cô gái mỉm cười nói. Jamil không tự ái khi có người gọi mình là khách du lịch.
"Cảm ơn bạn rất nhiều." Jamil nói.
"Chúc anh chị vui vẻ ở đây."
Jamil và Haske quyết định đi thuyền đến Villancia. Quang cảnh trên biển đối với Jamil thì cứ là tròn mắt ra mà xem. Từ boong tàu, cậu có thể nhìn thấy bức tranh toàn cảnh của những cây cầu, mặt nước, cơ man những tòa nhà chọc trời. "Thật không tài nào tin nổi." Cậu thốt lên khi con thuyền hướng đến đảo Massa Hùng vĩ. Bắt mắt nhất với Jamil là những tòa nhà chọc trời và các khối tháp đua chen chiếm không gian trên bầu trời. Một số thấp có giàn giáo.
Từ Villancia, Jamil và Haske đi xe buýt số 10 ngang qua một cây cầu lớn và đi qua cầu vượt, đường hầm về hướng cậu cho là trung tâm đảo Massa Hùng vĩ.
Jamil rõ ràng là đã bị quá choáng ngợp.
"Thật đáng kinh ngạc! Mình chẳng ngờ được những cảnh này chút nào."
"Anh có phân biệt được sự khác nhau giữa những tòa nhà xây dựng trên các hòn đảo chính với những nhà trên hòn đảo nhân tạo không?" Haske hỏi khi đang trên xe buýt.
"Không." Jamil trả lời trong khi miệng vẫn còn há rộng vì kinh ngạc. "Nhìn kìa, thậm chí có những ngôi nhà mái vòm vàng. Trước đây làm gì có."
Jamil và Haske xuống xe tại quảng trường Massa; sau ba điểm dừng trước bến Jaycity. Cậu muốn đi bộ phần còn lại của cuộc hành trình. Quảng trường tràn ngập khách du lịch đang chụp ảnh một bức tượng ở chính giữa của quảng trường. Cậu không quan tâm đến điều đó mà đang cố gắng định thần để xác định vị trí. Một vài điều đã bắt đầu
sáng tỏ.
"Chà," cậu phấn khích nói. 'Tòa nhà Samad ngày xưa ở kia, chính chỗ bức tượng. Tháp đèn biển xưa kia ở đó nhưng chẳng còn nữa hoặc đã bị các tòa nhà chọc trời phủ lấp". Cậu dừng lại. "Bây giờ anh mới biết chính xác chỗ
này là chỗ nào." Cậu nói, dẫn Haske tới khu Gariyon cũ. Họ đi ngang qua một khu dày đặc những biệt thự sang trọng. Một ngôi biệt thự có biển đề Làng Ngoại lai Babulosa trên cửa.
"Mọi thứ đã thực sự thay đổi." Cậu thốt lên.
"Ý anh là sao?" Haske hỏi.
"Hầu như tất cả mọi thứ đã thay đổi." Jamil nhấn mạnh.
"Nhưng đó là những gì xảy ra khi..."
"Không. Không phải các tòa nhà."
"Thế thì cái gì?" Haske hỏi.
Jamil nghĩ một lát và trả lời. "Một cái gì đó đã mất đi. Anh có thể cảm nhận được điều ấy. Anh biết những người mới đến trên đảo là khác, nhưng anh nhận thấy một cái gì đó làm anh khó chịu. Mọi người không còn gần gũi nhau nữa. Người ta không gắn bó với nhau nữa. Một cái gì đấy chắc chắn đã mất đi... có thể chính là anh không còn gắn bó gì với hòn đảo này nữa."
"Không phải do anh, Jamil. Em hiểu ý anh nói. Chúng ta đang ở trong một đám đông, nhưng không phải là cùng với đám đông. Có lẽ khi chúng ta đến Tân Khai Đảo, chúng ta sẽ cảm thấy là một phần trong số họ." Haske
nhất trí.
"Có lẽ vậy! Hãy nhìn khuôn mặt của những người này. Họ y như triển lãm ảnh với những đôi mắt thiếu vắng thứ gì đó."
"Em hiểu. Họ hầu như không nói chuyện với nhau."
"Hãy nhìn cung cách họ đi như những bóng ma kìa."
"Dường như có cái gì đấy luẩn quất quanh từng con người kia... một cái gì đó vô hình." Haske giải thích.
"Điều này chính đối lập với cuộc sống trên đảo trước khi anh ra đi. Hồi ấy con người ta dễ gần gũi. Ta có thể nói chuyện thoải mái với mọi người và có thể nhận thấy sức sống trong họ. Hồi đó, ấm áp tình người và tình yêu. Mọi người cười nhiều - những nụ cười và tiếng cười chân thành đến từ trái tim, như ta từng nói. Trước khi anh ra đi, dân ở đây dành nhiều thời gian đứng ngồi trò chuyện vui vẻ với nhau. Anh biết anh sẽ phải đối mặt với một kiểu cô đơn sau bao năm đi xa nhưng anh không lường đến mức này." Jamil chán nản.
Haske không trả lời. Cô cứ để anh theo đuổi suy nghĩ của mình. Họ tiếp tục dạo bước.
Jamil không thể không nhận thấy có nhiều ngân hàng với những tên gọi khác nhau. Cậu cũng thấy không có khách hàng. Rồi Jamil nhanh chóng tự hỏi điều gì đã thu hút tất cả các ngân hàng và tổ chức tài chính đến với hòn đảo thân yêu của mình. Cậu thấy có khá nhiều cửa hàng và cửa hiệu hạng sang. Nhiều dãy cửa hàng, nhưng ít khách. Song điều ấy lúc này không phải chuyện khiến cậu
phiền lòng.
"Haske," Jamil mỉm cười nói. "Nhìn kìa," cậu chỉ tay vào một trung tâm mua sắm, "đó là nơi bọn anh đã có một trang trại Tatasi nhỏ... và ở kia", cậu chỉ vào một tòa nhà mười tầng có biển đề KHÁCH SẠN TỔNG THỐNG, "là nơi anh đã cứu sống Lucky, chú dê cưng của anh". Lúc họ chầm chậm đi qua cậu chỉ cho cô xem nhiều chỗ khác nữa. "Anh thường chơi bóng đá với Bashir và lũ trẻ đồng lứa ở kia, bây giờ là bãi đỗ xe nhiều tầng. Ừ đúng rồi, trường học của anh. Em có nhìn thấy cái trung tâm mua sắm có cột ăng-ten khổng lồ trên đỉnh kia không?"
"Có."
"Đấy ngày xưa là trường học của anh. Điểm casino kia là nơi mà bọn anh thường nghỉ ngơi và tập hát, diễu hành,... em có nhìn thấy tòa nhà ở kia không?"
"Tòa nhà nào? Có phải tòa nhà có biển NGÂN HÀNG QUỐC TẾ MASSA không? "
"Đúng rồi, chính là nơi hải quái ăn thịt chú dê cưng Lucky của anh." Cậu dừng lại. "Toàn bộ chốn này," cậu nói chỉ tay lên những tòa nhà chọc trời có những bức tường không cửa sổ, "đã từng là bãi đất rộng mênh mông cho bọn anh chơi, đi dạo và đi săn."
Khi họ tiếp tục tản bộ, cậu thoáng thấy một ngôi nhà ẩn mình đằng sau một tòa nhà cao, trông giống nhà ông nội cậu. Jamil hét lên phấn khích, hai tay khua loạn lên. "Xem kìa, đó là nhà của ông bà anh! Ngôi nhà của ông nội Kamal, và bạn của ông, bác Majid tự tay xây dựng." Cậu trầm giọng nói đầy vẻ tự hào, và chỉ vào một ngôi nhà gỗ. Khi đến gần, cậu nhận ra ngôi nhà bị rào chắn và có người bảo vệ đứng bên cổng. Ngôi nhà trông được bảo dưỡng tốt hơn là tình trạng lúc cậu ra đi.
"Xin vui lòng cho cháu hỏi ngôi nhà này là gì thế ạ?" Jamil hỏi người bảo vệ.
"Đây là bảo tàng." Người bảo vệ trả lời.
"Bảo tàng gì ạ?"
"Cậu không thấy là nhà này khác hẳn với tất cả những ngôi nhà xung quanh à?" Người bảo vệ hỏi lại vẻ thờ ơ.
"Đó là lý do cháu muốn hỏi."
"Có bảng thông báo giải thích kia kìa." Người bảo vệ nói, tay chỉ vào một tấm bảng cách đó vài mét. "Nó là một ngôi nhà duy nhất nguyên vẹn, còn sót lại sau trận động đất. Vì vậy, nó được bảo tồn cho hậu thế, bởi nó đại diện cho kiến trúc của thời kỳ đó. Nó thực sự là ngôi nhà duy nhất của thời kỳ trước đây trên đảo."
"Chúng cháu có thể vào xem được không ạ?"
Haske hỏi.
"Tất nhiên là không được rồi. Đây là tài sản quốc gia và các cháu phải có giấy phép đặc biệt từ cơ quan có thẩm quyền." Người bảo vệ đáp.
"Chúng cháu có thể xin giấy phép ở đâu ạ?" Jamil hỏi.
"Từ phòng thị chính của CVD ở New Harlem."
"Nhưng anh ấy đã từng sinh ra và lớn lên chính trong căn nhà này." Haske xen vào bênh Jamil.
"Đấy không phải là việc của tôi." Viên bảo vệ nói
và bỏ đi.
"Bà anh thường vẫn hay ngồi đó, trên chiếc ghế băng dài kia. Đấy là chỗ bà thích. Bà luôn thích ngồi ngắm mặt trời lặn. Có một vài cây Tatasi trong sân kia em thấy đó. Súng cao su và chiếc chìa khóa gỗ của anh có thể vẫn nằm ở chỗ anh để cách đây gần mười chín năm trước.
"Thật tuyệt phải không? Em thực sự mừng thay cho anh là ngôi nhà vẫn còn đó. Hy vọng hôm nào mình sẽ vào trong nhà." Haske nhìn Jamil lúc này dường như đang sững sờ tại chỗ. Cậu nhìn nhà và nhìn Haske, nhưng không thể thốt ra một lời nào. "Cuộc đời là như vậy. Những chuyện này vẫn xảy ra." Cô nói rồi lôi cậu đi. "Bây giờ chỉ cho em xem chỗ anh lừa hải quái." Cô nói đầy phấn kích. Jamil đưa cô về phía bến cảng mới.
"Ít ra thì vẫn còn một thứ không thay đổi." Jamil mỉm cười nói.
"Cái gì thế?"
"Xem này," cậu nói, tay chỉ vào đàn chim trắng bay thành hình tam giác trên bầu trời. "Bọn anh gọi là Leke-Leke và tin như đinh đóng cột rằng chúng mang đến những cơn mưa. Chúng luôn bay ngang qua bầu trời trước những cơn mưa." Jamil cười khoái trá. "Ngay cả trong mùa khô bọn anh vẫn gọi giục chúng đến cho mưa."
"Em khát quá." Haske nói khi đến bến cảng.
"Được rồi, chúng ta hãy tìm gì uống trước đã." Jamil gợi ý và cả hai bước vào một quán cà phê.
Khi họ đang ngồi im lặng uống thì một chiếc du thuyền đầy ắp đàn ông và phụ nữ ăn mặc hở hang lướt vào bến cảng. Tất cả cười đùa ầm ĩ. Thuyền trưởng nhấn còi hai lần chẳng có lý do. "Đừng để ý làm gì," anh phục vụ tại quầy nói. "Ai ai cũng muốn thể hiện mình ở đây." Jamil nhìn xung quanh vẻ khinh ghét trước sự khoa trương giàu có kiểu đó. "Tàu mới và chủ tàu muốn mọi người chú ý đến mình ấy mà. Đừng để ý làm gì. Sẽ có một cuộc diễu hành vào tháng tới và các bạn sẽ thấy những du thuyền lớn và đắt tiền thực sự. Toàn bộ nơi này sẽ đông nghịt và có nhiều cuộc tiệc tùng thâu đêm trên thuyền. Nếu các bạn có thời gian hãy đến xem."
"Tên khu này bây giờ gọi là gì?" Jamil tò mò hỏi.
"Nó có hai cái tên. Một số người gọi là Bờ biển Vàng vì những người giàu có trên khắp thế giới gửi tiền vào các ngân hàng ở đây, một số khác gọi nó là Sân chơi của các triệu phú." Người phục vụ giải thích.
Khi đã xong xuôi, Jamil dẫn Haske đi xuống bờ nước. "Nơi đây từng là điểm gần đất liền nhất và đó là lý do tại sao anh chọn để vượt biển từ điểm này." Jamil bắt đầu nói với giọng đủ nghe. Cậu dừng lại: "Kia," và chỉ vào một du thuyền trắng khổng lồ đang neo đậu "là nơi anh đã thả chú dê tế thần đầu tiên." Cậu lại dừng. Cậu cảm thấy như có gì đó chặn ở cổ họng. Cậu thấy choáng váng. "Và kia," cậu chỉ tay tiếp nơi một du thuyền sắp rời đi, "là nơi mà anh thả chú dê tế thần thứ hai." Jamil dừng lại một lần nữa. Giọng lạc đi. "Và đây," cậu òa khóc. "Đây, chỗ du thuyền đang đậu," tay chỉ vào một du thuyền ngay trước mặt họ, "là nơi anh đã thả chú dê tế thần thứ ba và nhào mình xuống nước vào một buổi sáng sớm cách đây ngần ấy năm".
Haske an ủi cậu. "Anh đã làm những gì phải làm rồi."
"Thực vậy." Jamil tư lự trả lời khi họ đi qua những quán giải khát đang mở, nhà hàng, khu du lịch sang trọng mới và các biệt thự có cổng. Trời tối dần nhưng có ánh đèn khắp mọi nơi. Người ta vẫn đi lại và làm việc ở khắp mọi nơi, không giống như trước, khi cậu ra đi, vào khoảng giờ này mọi người đều đã nghỉ ngơi và chuẩn bị đi ngủ. Bây giờ cậu đã hiểu lý do vì sao người ta gọi là QUẦN ĐẢO KHÔNG BAO GIỜ NGỦ!
*
* *
Ngày hôm sau Haske hỏi Jamil: "Khi nào chúng mình đi Tân Khai Đảo? Em đang mong được gặp người Tatasi gốc."
"Có lẽ một hoặc hai ngày nữa đi."
"Tại sao anh không nóng lòng gặp lại những người dân của anh?" Cô nhấn mạnh thêm.
"Sao anh phải vội? Anh đã đi xa lâu vậy và chẳng có ai mong đợi anh cả." Jamil nhún vai trả lời.
"Được rồi, thế thì hôm nay chúng mình đi đâu?" Haske mỉm cười hỏi.
"Đến một nơi gọi là Baritaye nhưng bây giờ được gọi là New Harlem."
"Tại sao lại gọi là New Harlem?"
"Anh chẳng biết nữa. Anh bây giờ là một khách du lịch ngay trên chính quê hương mình." Cậu nói đùa.
Tại New Harlem, Jamil không bận tâm để hỏi xem lý do tại sao lại đổi tên. Cậu bắt đầu chấp nhận những đổi thay và cậu không phải là một phần của hòn đảo mới nữa. Cậu đã bắt đầu chấp nhận là mọi thứ đã tiến triển và cậu cũng phải vậy. Jamil nhận thấy sự tái thiết trên quy mô lớn đang diễn ra. Sự hấp dẫn chính là cung điện mới đang được xây dựng. Đó là bản sao của cung điện cũ bị phá hủy trong trận động đất cách đây hai mươi năm. Jamil đưa Haske đến bảo tàng Tatasi và giải thích chi tiết tất cả, tác dụng, tầm quan trọng của loại cây này đối với người dân của bán đảo trước ngày Thảm họa kép. "Anh đã luôn muốn được làm người nông dân trồng cây Tatasi như ông nội anh."
Jamil nói khi họ ra khỏi bảo tàng. Họ trở về khu bảo tồn của đảo Massa Hùng vĩ ở Jaycity. Nơi này đầy ắp khách du lịch lang thang qua những mê cung di tích, đường phố và quán cà phê. Khi họ đi qua đống đổ nát của một tòa nhà, Jamil nhìn Haske. "Như thể những di tích này đang trò chuyện với anh vậy."
Jamil và Haske tiếp tục khám phá khu này. Họ bước vào quảng trường Massa và dạt về phía bức tượng Massa. Jamil ban đầu không quan tâm nhưng rồi quyết định xem bức tượng thật kỹ. Đó không phải người cũng không phải loại động vật từng được biết đến. Tượng có ba khuôn mặt khác nhau nhìn về ba hướng khác nhau với ba sắc màu khác nhau. Khi cậu đứng đó băn khoăn không biết nó là gì thì Haske bước lại gần hơn.
"Đây là tượng gì vậy?"
"Anh không biết. Đây đề là Đấng Cứu Độ của đảo Tatasi."
"Trông bức tượng rất kỳ lạ và quái đản." Haske nhận xét. "Massa là ai vậy?"
"Anh không biết nữa, nhưng kìa, có người sắp giải thích cho nhóm khách du lịch nước ngoài. "
Cả hai liền nhập vào nhóm người đã tụ tập ở phía trước bức tượng. Một hướng dẫn viên du lịch, tay cầm một cái loa giải thích:
"Như các bạn đã biết, tuần tới là tròn hai mươi năm cách đây kể từ đêm định mệnh, một trận động đất tàn phá đã xảy ra, phá hủy hơn một nửa hòn đảo chính này. Trên thực tế là một bán đảo và trận động đất biến nó thành một hòn đảo. Người ta tin rằng dải đất nối đảo với đất liền đã giữ cho nó nổi lên, và đảo mới bị chìm xuống biển mang theo sinh mệnh của mọi người, nếu không có một hải quái trồi lên đúng lúc từ biển sâu kịp giữ cho hòn đảo nổi.
"Hải quái khỏe đến mức có thể ngăn chặn những trận động đất tiếp sau và thậm chí nó tạo được một vụ phun trào núi lửa hình thành nên một hòn đảo khác gần đó. Hòn f23 ảo mới do hải quái tạo ra đã giúp giữ cho hòn đảo chính ổn định và khi hải quái gắn các đảo liền lại với nhau thì cả hai đều ổn định. Nó còn thổi bay mất một đám mây đang phủ trên đảo mới. Nó nâng một số phần của đảo và đẩy hòn đảo mới gần hơn về phía đất liền. Điều đấy cho thấy nó khỏe như thế nào.
"Hải quái đã bảo vệ hai hòn đảo và dân cư khỏi những thảm họa tiếp nữa. Vì vậy, nói cách khác, hai hòn đảo này sống sót nhờ vào những năng lực phi thường của hải quái. Khi hải quái nhận thấy nó đã hết đời, nó thôi bám giữ đảo và chết một cách tự nhiên, một cách chết đáng trọng. Sụp đổ của hải quái trực tiếp dẫn đến thịnh vượng của chúng tôi bởi vì hải quái bị phân hủy và biến thành nhiều ngọc trai chất lượng cao, là mặt hàng xuất khẩu chính của chúng tôi ngày nay.
"Ghi nhớ tất cả những gì hải quái đã làm được, chúng tôi không muốn gọi nói là hải quái như cách gọi ngay sau Thảm họa kép, chúng tôi gọi nó là Mệnh chủ - Chủ vận mệnh của chúng tôi. Dân bản địa của hòn đảo này - những người Tatasi - không thể phát âm được chữ Mệnh chủ nên họ gọi là Massa. Đó là lý do vì sao các bạn thấy chúng tôi có sân bay Quốc tế Massa, đại lộ Massa, siêu thị Massa, công viên Massa, tàu điện ngầm Massa, trường Đại học tổng hợp Massa và vịnh Massa. Chúng ta tất cả đang đứng trên quảng trường Massa phía trước tượng thần Massa.
"Bức tượng bằng đồng, có ba khuôn mặt khác nhau vì không có ai nhìn thấy khuôn mặt của hải quái. Nó rất nhút nhát. Ba khuôn mặt như vậy đại diện cho quá khứ, hiện tại và tương lai của các đảo. Nếu các quý vị nhìn vào phù hiệu của Quần đảo Ngọc, các quý vị sẽ thấy khuôn mặt hải quái với dòng chữ: Thanh Tịnh, Tình yêu và Sức mạnh. Chúng tôi có những khuôn mặt khác nhau của hải quái trên đồng tiền của chúng tôi. Hải quái đã yêu thương người Tatasi. Nên Massa là tất cả đối với chúng tôi."
"Massa vạn tuế!" Hướng dẫn viên hét lên và cúi chào bức tượng.
"Massa vạn tuế!" Du khách cũng hô theo và cúi chào bức tượng.
Jamil và Haske không nhập dàn hợp xướng đó và không cúi đầu trước bức tượng. Họ nhìn nhau hoài nghi. Haske lóe lên nụ cười thông cảm của mình một lần nữa. 'Thật không thể tin nổi," Jamil buộc phải nói, lắc đầu. "Anh không tài nào tin được những gì vừa nghe thấy. Làm sao mà họ có thể thay đổi lịch sử của hòn đảo đến như thế?"
Haske kéo cậu ra xa khỏi bức tượng.
"Đừng lo, anh Jamil. Như Nữ hoàng Natasha ngày xưa vẫn thường nói: sự thật luôn có cách xuất hiện rất buồn cười, đôi khi vào những lúc ít hy vọng nhất. Sự thật rồi sẽ xuất hiện vào một ngày nào đó, như mặt trời và mặt trăng. Một ngày thế giới sẽ biết sự thật."