Tịch Mịch Không Đình Xuân Dục Vãn Chương 8


Chương 8
Tình nồng ý đậm

Toàn phất khinh dung tả lạc thần, 
Tu tri thiển tiếu thị thâm tần. 
Thập phân thiên dữ khả liên xuân. 
Yểm ức bạc hàn tha nhuyễn chướng,
Bão trì tiêm ảnh tạ phương nhân. 
Vị năng vô ức hạ hương trần.

 - “Hoán khê sa” Nạp Lan Dung Nhược -

(Khinh dung: sa mỏng; Lạc thần: chỉ mỹ nữ; theo truyền thuyết là nữ thần sông Lạc Hà (Thiểm Tây, Trung Quốc), danh Mật Phi. Câu này miêu tả hành động lau chùi liên tiếp lên giấy lụa có chân dung của nàng.
Thiển tiếu: Nét cười nhẹ, hơi cau mày
Hương trần: hương thơm khi nữ tử bước đi


Bài thơ thanh lệ thoát tục, viết về một bức hoạ nữ tử xinh đẹp như thần tiên. “Tu tri thiển tiếu thị thâm tần” ngay cả khi nàng không vui, nàng nhíu mày trông vẫn đáng yêu, như đang mỉm cười vậy. Ba câu cuối: Y phục nàng đơn sơ, sợ nàng lạnh nên đem bức hoạ của nàng đặt trong ống đựng hoa lệ tinh xảo. Đến chân dung còn được tác giả đối xử như vậy đủ biết tình cảm dành cho người này sâu nặng đến mức nào.)

*: Xin giải thích chút về tên chương: tên gốc là “Lan khâm thân kết”, trích từ câu “Vô phân ám hương thâm xử trụ, hối bả lan khâm thân kết” trong bài “Bách tự lệnh – Nhân sinh năng kỉ” của Nạp Lan Dung Nhược.

Nhân sinh năng kỉ, tổng bất như hưu nhạ, tình điều hận diệp. 
Cương thị tôn tiền đồng nhất tiếu, hựu đáo biệt li thì tiết. 
Đăng tiết thiêu tàn, lô yên nhiệt tẫn, vô ngữ không ngưng yết . 
Nhất thiên lương lộ, phương hồn thử dạ thâu tiếp. 
Phạ kiến nhân khứ lâu không, liễu chi vô dạng, do tảo song gian nguyệt. 
Vô phân ám hương thâm xử trụ, hối bả lan khâm thân kết.
Thượng noãn đàn ngân, nhiễu hàn thúy ảnh, xúc tự thiêm bi thiết. 
Sầu đa thành bệnh, thử sầu tri hướng thùy thuyết.

Đoạn đầu: Cuộc đời này thì dài được mấy? Chi bằng đừng rước lấy yêu hận tình thù. Đèn sắp cạn dầu, hương sắp tắt, nghẹn ngào nói không nên lời.
Đoạn sau viết về hiện tại: Sự cô đơn tịch mịch khi “người đi – nhà trống”, sợ nhìn thấy gian phòng nàng đã từng ở. Gian phòng ấy lại cứ hiện hữu trước mắt không tránh được, cảnh còn người mất. Hai câu sau là ý hối hận, nếu đã không có duyên phận với nhau thì không nên có tình ý với nàng sâu đậm đến vậy. Tình cảm dạt dào đến thế, tới mức khó có thể phai nhoà. Chỉ cần nghĩ đến nàng là đau lòng đến rơi lệ, càng nhớ càng hận. 
Lan khâm: hương thơm từ tay áo, còn ám chỉ tình cảm nam nữ, tình cảm dạt dào với người yêu. “Lan khâm thân kết” chính là tình nồng ý đậm với nàng ấyVừa chỉ sự đau buồn của Nạp Lan vừa nói lên tình cảm của Khang Hy…)


Lúc hoàng hôn trời đổ tuyết lớn, tuyết như bông, rơi ào ào cả đêm. Tỉnh giấc vào sáng ngày hôm sau, nhìn ra ngoài cửa sổ bằng giấy trắng mỏng manh, nhà nhà đều được phủ tuyết. Trông từ xa chỉ thấy một mảng trắng xoá.

Hôm nay lại không có ca trực, thế nhưng Dung Nhược vẫn dậy sớm như cũ. A hoàn hầu hạ hắn súc miệng nước muối, thay y phục. Đại a hoàn Hà Bảo cầm chiếc áo choàng xanh dương đến bên nói: “Lão thái thái sai người tới bảo thiếu gia tới ăn sáng.” Nàng vừa nói vừa khẽ phất chiếc áo lên, choàng qua vai Dung Nhược.

Dung Nhược hơi cau mày, ánh mắt hướng ra ngoài, khung cảnh như được rắc muối, trong không trung còn có vô vàn sợi bông bay bay một cách yên tĩnh.

Hắn ăn sáng xong rồi trở về từ Thượng Phòng lại đi thẳng đến thư phòng. Ở cuối hành lang gặp Cố Trinh Quán tiên sinh đang đứng đó ngắm tuyết, Dung Nhược nói: “Tuyết rơi đẹp thế này mà có vài vị bằng hữu (bạn bè) cùng nhâm nhi ly rượu thì mới hay.”

Cố Trinh Quán cười đáp: “Ta cũng nghĩ như thế.”

Dung Nhược liền sai người chuẩn bị tiệc rượu, rồi mời chư vị bằng hữu tới ngắm tuyết. Nghiêm Thằng Tôn, Từ Kiền Học, Khương Thần Anh đều đậu khoa thi Bác học hồng nho* mùa xuân năm nay, nhậm chức Sử quan hàn lâm. 
* Bác học hồng nho: chỉ những học giả học vấn uyên bác.

Lâu nay mấy người có quan hệ thân thiết với nhau, lúc này cùng hân hoan đi đến nơi hẹn. Mấy người bọn họ đã lâu ngày không gặp, không ngừng nâng cốc cười nói vui vẻ. Rượu quá tam tuần, Từ Kiền Học mới nói: “Tiệc rượu hôm nay chúng ta cùng thi làm thơ đi, người thua bị phạt uống rượu.”

Mọi người ai cũng vỗ tay khen hay. Ngay lập tức liền tung xúc xắc, người đầu tiên bị nó chỉ tới lại chính là Cố Trinh Quán. Dung Nhược cười nói: “Là Lương Phần* đầu tiên.”

* Cố Trinh Quán tự Hoa Phong, hiệu Lương Phần

Dung Nhược tự mình cầm ấm rượu, đổ đầy ắp chén của Cố Trinh Quán, hắn nói tiếp: “Mời Lương Phần huynh uống hết chén này rồi buông lời vàng ý ngọc, đệ xin lắng nghe.”

Cố Trinh Quán uống hết chén rượu, ngồi trầm ngâm không nói gì. Trong phòng, ngồi trên thảm trải đã rất ấm rồi, lại còn có cái lò sưởi bên cạnh, cái lò được dát vàng cực kì hoa lệ. Chỉ nghe thấy tiếng lách tách nhỏ nhỏ vang lên từ than đốt bên trong. Gã sai vặt nhẹ nhàng rón rén tiến lên thêm thức ăn, liếc mắt sang nhìn thấy cái đệm gấm thêu hoa sen, thật đúng là phú quý an nhàn vô cùng. Dung Nhược đã sai người mang một tờ giấy trắng và chuẩn bị bút mực từ lâu. Khoé môi Cố Trinh Quán hơi run, bỗng nhiên đứng dậy đi đến trước án khua bút một hồi.

Mọi người thấy sắc mặt hắn khác thường, vội chạy tới vây quanh xem hắn viết nên bài khởi xướng. Dung Nhược cầm tờ giấy, bất giác đọc to lên, là một đoạn “Kim lũ khúc”:

“Quý Tử bình an phủ? 
Tiện quy lai, bình sinh vạn sự, na kham hồi thủ?
Hành lộ du du thùy úy tạ? 
Mẫu lão gia bần tử ấu. 
Kí bất khởi, tòng tiền bôi tửu. 
Si mị bác nhân ứng kiến quán, tổng thâu tha, phúc vũ phiên vân! 
Băng dữ tuyết, chu toàn cửu.

Lệ ngân mạc tích ngưu y thấu. 
Sổ thiên nhai, y nhiên cốt nhục, kỉ gia năng cú?
Bỉ tự hồng nhan đa mệnh bạc, canh bất như kim hoàn hữu.
Chích tuyệt tắc, khổ hàn nan thụ. 
Nhập tái bao tư thừa nhất nặc, phán ô đầu, mã giác chung tương cứu.
Trí thử trát, quân hoài tụ.”

(Bài thơ thể hiện sự quan tâm thân thiết và sự đồng tình an ủi của tác giả dành cho vị bằng hữu bị giáng chức điều đi xa. Đoạn đầu là những câu thăm hỏi ân cần. “Quý Tử* bình an phủ”: không phải là câu hàn huyên bình thường mà thể hiện sự quan tâm sâu sắc. “Băng dữ tuyết”: ám chỉ sự trằn trọc trăn trở của tác giả và Ngô Triệu Khiên** dưới sự thống trị tàn khốc của triều Thanh. 
Đoạn sau là an ủi bằng hữu và thể hiện rằng tác giả sẽ dốc lòng cứu giúp. “Trí thử trát, quân hoài tụ”: an ủi bạn qua câu này, nên bớt buồn lo. Cả bài là tình cảm bạn bè chân thành.)

Dung Nhược cảm nhận được ý bi thương trong bài thơ, không khỏi hỏi rõ tình hình. Cố Trinh Quán kia chỉ đợi Dung Nhược hỏi, hắn đáp: “Bằng hữu của ta – Ngô Hán Tra***, tài năng văn thơ kiệt xuất. Năm đó, thôn Mai truyền rằng: ba người Ngô Hán Tra, Trần Kì Niên, Bành Tổ Tấn được gọi là “Tam phượng hoàng Giang Tả” (đại danh nằm ở hướng đông Trường Giang). Vì liên quan tới vụ án ở khoa thi Nam Vi mà lưu đày tới Ninh Cổ Tháp. Nơi đó là phương bắc vô cùng lạnh, chắc bây giờ Hán Tra đang phải đục băng mà tìm đồ ăn. Thế mà Lương Phần lúc này uống rượu ăn thịt, ở trong gian phòng ấm áp, cùng ngắm tuyết với chư vị bằng hữu. Nhớ đến Hán Tra thật xấu hổ không nói nên lời.”
*,**,***: chỉ Ngô Triệu Khiên, tự Hán Tra, hiệu Quý Tử

Lồng ngực Dung Nhược phập phồng, hắn cất cao giọng nói: “Hà lương sinh biệt chi thi, sơn dương tử hữu chi truyện, đắc thử nhi tam” ①. Trong ba ngàn sáu trăm ngày*, đệ sẽ nhận là việc của mình, chỉ cần huynh căn dặn một lời.”

* Sau này chỉ mất năm năm đã cứu được.
① Sơn dương tử hữu: theo “Tấn Thư – Hướng Tú truyện” ghi lại: Hương Tú ở tỉnh Sơn Dương cũ, nghe người hàng xóm thổi sáo, âm thanh bi thương đầy oán khí, khiến hắn nhớ lại những người bằng hữu đã qua đời, viết bài “Tư Cựu Phú” (Nhớ tình xưa)

Hà Lương sinh biệt: Thời Hán, Tô Vũ được cử đi sứ Hung Nô. Đây là câu chuyện chia cách với Lý Lăng. Theo “Hán Thư” ghi lại: “Chiêu đế lên ngôi, trong mấy năm, Hung Nô và Hán quan hệ hoà bình. Tô Vũ phải đi sứ sang Hung Nô, Lý Lăng mở tiệc rượu chúc mừng, có viết: “Dị vực chi nhân, nhất biệt trường tuyệt.” (Người đã đi nơi đất khách, chia ly khó có thể gặp lại)

Đắc thử nhi tam: thêm chuyện của Cố Trinh Quán và Ngô Triệu Khiên này nữa là ba câu chuyện cảm động về tình bằng hữu.

Cố Trinh Quán cực kì vui mừng đáp: “Một lời của công tử nặng ngàn vàng, Lương Phần hoàn toàn tin tưởng. Đại ân này không thể cảm tạ bằng lời.”

Dung Nhược không đáp lời, hắn trầm ngâm, đặt tờ giấy xuống án rồi viết viết. Khương Thần Anh đứng cạnh hắn, đọc to từng câu lên cho mọi người cùng nghe. Đó là một đoạn đối với “Kim lũ khúc”. Đên khi Khương Thần Anh đọc câu “Tuyệt tắc sinh hoàn Ngô Quý Tử, toán nhãn tiền, thử ngoại giai nhàn sự”②, mọi người đều cảm thấy xúc động. Dung Nhược viết tiếp câu cuối cùng: “Tri ngã giả, Lương Phần nhĩ”③, Cố Trinh Quán đã rơi lệ từ lâu, hắn nhìn chằm chằm vào Dung Nhược, cảm động mà nói: “Lương Phần có được người bằng hữu như công tử, kiếp này cũng không cầu gì hơn.”
②,③: ý bảo việc quan trọng nhất trước mắt chính là cứu người

Từ ngày đó về sau, Dung Nhược cố gắng hết sức tìm kiếm cơ hội để giải thoát cho Ngô Triệu Khiên kia, chỉ hận là không có. Trong lòng hắn không vui, mỗi ngày đều ở trong phòng lặng lẽ đối diện với quyển sách. Vì mấy ngày gần đây trời đều đổ tuyết lớn, Hà Bảo dẫn theo một đoàn a hoàn đi hốt tuyết, đổ đầy cái hũ rồi sai tên sai vặt chôn xuống gốc cây mai. Đúng lúc này thì ngoài cổng có thiệp đưa tới, Hà Bảo liền vội chạy ra nhận, đem vào phòng bẩm với Dung Nhược: “Thiếu gia, phủ Dụ thân vương sai người đưa thiệp tới.”

Dung Nhược cầm lấy đọc qua, thì ra là mời hắn đến Vương phủ ngắm tuyết uống rượu. Hắn vốn không muốn đi, tâm tư hắn đang đặt tại chuyện cứu viện Ngô Triệu Khiên, bỗng chợt loé lên một suy nghĩ, hắn biết vị Dụ thân vương cao quý kia có tiếng nói trước mặt Hoàng đế, vậy sao không nghĩ cách thông qua Phúc Toàn.

Do gần đây Dung Nhược với Phúc Toàn qua lại dần thưa, mấy lần thiệp mời yến tiệc hắn đều từ chối không đi thế nên Hà Bảo cứ ngỡ lần này cũng vậy. Không ngờ Dung Nhược lại sai bảo: “Đem áo choàng tới đây, bảo bọn họ chuẩn bị ngựa.” Nàng vội hầu hạ hắn mặc áo, tiễn tới tận cổng.
Phủ Dụ thân vương được xây từ năm Khang Hy thứ sáu. Phủ của thân vương, đương nhiên nguy nga lộng lẫy, hoa lệ đẹp đẽ. Dụ thân vương Phúc Toàn mở yến tiệc ở vườn hoa sau phủ. Một dãy hòn giả sơn quanh co, ẩn hiện thấp thoáng sau nó là hành lang với mái vòm cong cong. Phía xa xa của dãy giả sơn là một cái hồ, dưới hồ có đậu thuyền nhỏ. Hồ nước cũng kết băng thành một tấm kính mỏng trong suốt trên bề mặt từ lâu. Bao quanh gian phòng trên thuyền là hơn mười cây mai. Chưa đến mùa, hoa mai chưa nở bông, nhưng chỉ cần qua khoảng tháng nữa là hương mai sẽ ngào ngạt khắp nơi. Đi vào trong gian phòng, thảm đã được trải sẵn từ lâu, cả phòng được bao phủ bởi không khí ấm áp.

Đang ngồi đều là các vị hiển quý (chức tước cao) trong triều, Dung Nhược tiến tới, tiếng nhao nhao hàn huyên chào hỏi trên thuyền càng náo nhiệt.


Phúc Toàn lại giơ tay vỗ nhẹ một tiếng, vài tiểu a hoàn áo xanh đứng bên cửa sổ, vô cùng nhanh nhẹn chạy tới, đồng loạt kéo mành cửa ra. Bốn mặt của gian phòng trên thuyền đều được che bởi mành lớn, mọi người khẽ rùng mình. Thế nhưng chẳng ngờ là không có cơn gió lạnh nào thổi hắt vào mặt cả, nhìn chăm chú lên, hoá ra phía sau mấy cái mành lớn là lớp thuỷ tinh trong suốt của phương tây, thoạt nhìn như không có gì ở đó. Cảnh tuyết khắp nơi ngập tràn trước mắt, thân ở trong phòng vẫn thấy ấm áp như tiết xuân.


Thuỷ tinh trong suốt phương tây kia, một thước (1/3m) vuông vắn cũng có giá trên trời rồi, nhiều thuỷ tinh như thế mà tấm nào tấm nấy cũng cao cả trượng, mọi người chưa ai từng thấy cả. Bình thường thì quan lại, người giàu có cũng dùng kính thuỷ tinh làm cửa sổ, nhưng đường kính cũng chẳng quá một thước.

Tấm thuỷ tinh to như vậy, chỉ sợ rằng chỉ có hậu duệ quý tộc thiên hoàng mới xa xỉ đến thế. Giữa yến tiệc, có người không nhịn được mà hô một tiếng: “Vương gia, tình này cảnh này mới gọi là ngắm tuyết chứ.”


Phúc Toàn cười đáp: “Dưới cửa kính thuỷ tinh uống rượu ngắm tuyết đúng là thú vui của cuộc đời.” Vừa quay mặt sang liền thấy Dung Nhược: “Hôm kia gặp Vạn Tuế Gia, Hoàng thượng còn nhắc muốn đi Nam Uyển ngắm tuyết. Chỉ tiếc mấy ngày gần đây bận rộn với việc triều chính, phải chờ tình hình Tứ Xuyên ổn định, đại giá mới có thể rời kinh được.”

Dung Nhược là ngự tiền thị vệ, nghe Phúc Toàn nói vậy, hắn đáp: “Như vậy thì lễ nghi hộ tống cũng nên chuẩn bị sớm mới được.”

Phúc Toàn không khỏi cười cười: “Hoàng thượng mới cất nhắc nhạc phụ tương lai của ngươi – Pha Nhĩ Bồn lên làm Nội đại thần rồi, việc hộ tống lần này sẽ là nhiệm vụ đầu tiên của ông ấy từ sau khi nhậm chức.”


Chén rượu trong tay Dung Nhược khẽ run, vài giọt rượu văng ra. Phúc Toàn lại cực kì đắc ý với việc này, hắn bảo: “Vạn Tuế Gia vẫn nhớ chuyện của ngươi, đã hỏi ta mấy lần rồi. Ngày tết nhất đưa lễ hồi môn… vẫn là để đến năm mới hãy đưa, qua mấy tháng nữa là có hỷ sự rồi.”


Chư vị trong gian phòng đồng thanh nói: “Cung hỷ Nạp Lan đại nhân.” Chén rượu tới tấp nâng lên kính. Trong lòng Dung Nhược đau đớn vô cùng, chỉ đành gắng gượng nở một nụ cười. Một chén rượu nuốt xuống, cơn ho bỗng tới, vị cay nồng như xé cổ họng, hắn không nhịn được mà ho liên hồi. Chợt nghe có người nói: “Dưới cảnh sắc thế này cũng nên làm một vài bài thơ mới hay.” Mọi người nhao nhao, ai cũng tán thành, Dung Nhược nghe bọn họ ngâm nga, có lời hay ý đẹp nhớ người xưa, cũng có người tự đọc bài thơ mình mới viết. Một mình hắn ngồi đây uống chén rượu. A hoàn đứng một bên bận rộn thêm rượu vào chén hắn, hết chén này tới chén khác, bất giác đã thấy hơi say say, tai mặt ửng hồng.

 

Mọi người ồn ã đua nhau bình luận lời thơ. Về lĩnh vực này Phúc Toàn không am hiểu cho lắm, hắn quay sang thấy Dung Nhược liền nói: “Các vị đừng ồn ào nữa, Dung Nhược còn chưa lên tiếng đâu, để xem hắn có câu thơ nào hay không.”

Dung Nhược đã gần say, hắn lấy đôi đũa gõ gõ vào cái chén, ngâm inh ỏi:

“Mật sái chinh an vô sổ. 
Minh mê viễn thụ. 
Loạn sơn trọng điệp yểu nan phân, tự ngũ lí, mông mông vụ.

Trù trướng tỏa song thâm xử. 
Thấp hoa khinh nhứ. 
Đương thì du dương đắc nhân liên, dã đô thị, nùng hương trợ.” *

*: Đây là bài “Lạc Dương xuân – Tuyết” của Nạp Lan Dung Nhược
Là một bài thơ miêu tả cảnh tuyết. Đoàn đầu là những bông tuyết bay toán loạn ở phía xa xa. Gần chỗ ngồi lại là tuyết trắng xoá mờ mịt yên tĩnh. Cây cối cùng núi non trùng điệp nơi xa ngút ngàn, thấp thoáng ẩn hiện dưới trận tuyết.

Đoạn sau: Tuyết bay vào qua song cửa sổ, từng bông từng bông nhỏ li ti như hoa trắng, lại khiến người ta có cảm giác thương yêu. Ngoài hình ảnh nhẹ nhàng yếu mềm của bông tuyết còn có “nùng hương” (hương thơm ngào ngạt) ẩn bên trong. Câu kết này rất hay, trong đó ẩn một ý tưởng mới, dẫn dắt độc giả liên tưởng xa hơn nữa.

Tiếng khen hay vang lên ầm ầm. Giữa lúc hoan hô ca ngợi bỗng nghe có tiếng cười nói bên ngoài: “Dã đô thị, nùng hương trợ’, thật là hay!”

Giọng nói vang dội. Mọi người giật mình, chỉ trong tích tắc mà cả gian phòng yên tĩnh hẳn, yên tĩnh tới mức gió tuyết bên ngoài rít gào cũng nghe rõ mồn một.


Cửa mở ra, tiếng giày loạt xoạt nhưng bước chân lại rất nhẹ nhàng. Mấy tên cận vệ xung quanh thái độ cung kính với người phía trước. Người nọ chỉ mặc một bộ áo gấm có lông cáo bên ngoài, khoác trên vai là chiếc áo choàng từ da cáo đen. Trên cổ áo từ lông chồn tía lộ ra một khuôn mặt tuấn tú, khoé môi vẫn còn vương nét cười.

Tuy Phúc Toàn cũng đã hơi hơi say nhưng lúc này đã bị doạ đến tỉnh cả người, trong lúc hoang mang vẫn không quên hành đại lễ tiếp giá: “Hoàng thượng giá lâm, Phúc Toàn không đón tiếp từ xa. Xin Hoàng thượng trách phạt Phúc Toàn tội bất kính.”


Sắc mặt Hoàng đế có chút thảnh thơi nhàn hạ, tự mình đỡ hắn dậy: “Vì Trẫm thấy tuyết rơi nhiều… Nhớ lại tuyết lớn năm ngoái, phủ Thuận Thiên từng báo có nhà bị tuyết phủ nặng quá mà sập, dẫn tới thương vong. Lúc buổi trưa nhàn rỗi Trẫm liền xuất cung đi xem sao, trên đường đi ngang qua phủ của khanh, tiện đi vào thăm. Là Trẫm không cho bọn họ đến báo. Trời đổ tuyết lớn, các khanh cũng thật biết cách hưởng thụ.”


Phúc Toàn lại thỉnh an tạ ơn rồi mới đứng lên cười đáp: “Lúc nào Hoàng thượng cũng lo lắng cho con dân, nô tài cùng chư vị đã không thể chia sẻ nỗi lo với Hoàng thượng mà lại ngồi đây uống rượu, đúng là vô cùng xấu hổ.”

“Trời tuyết lớn thế này vốn nên trốn một chỗ uống rượu, chỗ này của khanh thật ấm áp.” Hoàng đế vừa nói vừa cởi dải lụa đen thêu viền vàng ở cổ, Lương Cửu Công liền tới giúp Hoàng đế cởi áo choàng rồi giữ lấy. Hoàng đế thấy mọi người đều đang quỳ liền bảo: “Đứng dậy cả đi.”

 

Mọi người tạ ơn xong đứng dậy, cung kính đứng cúi đầu. Hoàng đế vốn là người thông minh, thấy cảnh cả gian phòng lặng im phăng phắc, hắn cười: “Trẫm vừa tới đã khiến các khanh thấy gò bó rồi. Cảnh tuyết trong hoa viên này thật đẹp. Phúc Toàn, Dung Nhược, hai khanh đến đây cùng Trẫm đi dạo.”

Phúc Toàn cũng Nạp Lan đều đáp “vâng”. Vì bên ngoài tuyết vẫn đang bay lả tả nên Phúc Toàn đón lấy chiếc áo từ Lương Cửu Công rồi tự mình hầu hạ Hoàng đế mặc lên. Mấy người vây quanh Hoàng đế rời thuyền, đi theo dãy giả sơn quanh co kia. Hoàng đế thấy Phúc Toàn đội chiếc mũ ấm chợt bật cười: “Khanh còn nhớ không, năm đó hai chúng ta thừa lúc Am Đạt buồn ngủ, trốn khỏi thư phòng qua cửa sổ, chạy tới hoa viên nghịch tuyết. Cuối cùng không biết là vì giận nhau chuyện gì mà cãi nhau một trận. Trẫm ngã lăn xuống tuyết, may mà không bị làm sao. Giơ tay giật lấy chiếc mũ ấm mới tinh của khanh rồi ném luôn xuống hồ, lúc ấy khanh tức đến mức hung hăng vung tay đấm Trẫm một cái, khiến mũi Trẫm thâm sì.”


Phúc Toàn cười: “Tất nhiên là vẫn nhớ, cãi nhau ầm ĩ tới mức Hoàng A Mã cũng biết. Hoàng A Mã tức giận vô cùng, phạt chúng ta quỳ trước Tiên Phụng điện gần hai canh giờ, cuối cùng vẫn may là Đổng Ngạc quý phi xin cho……” Nói tới đây mới biết mình lỡ lời, liền im bặt. Sắc mặt có chút miễn cưỡng. Hoàng đế giả vờ như chưa nghe thấy, chuyển sang chuyện khác: “Cây cối trong vườn này của khanh cũng rất đẹp.”
Trước mắt là một cây tùng lớn, che hẳn một vách tường đá xanh. Cây tùng đó được trồng từ khi mới xây vườn, cũng đã được hơn hai mươi năm. Gió thổi qua, tiếng cành lá reo rào rào như tuyết rơi. Tuyết đọng trên từng cành cây rơi lả tả xuống đất. Bỗng nhiên thấy một khối gì đó như một bọc vải nhung, nhảy vọt từ trên cây xuống đất. Hoá ra là một chú sóc con, nó thấy có người liền vội vàng lủi mất. Hoàng đế nháy mắt ra lệnh: “Bắt lấy nó!”

Con sóc kia trốn rất nhanh, nhưng Hoàng đế vi hành xuất cung, cận vệ hộ tống đều là ngự tiền thị vệ giỏi nhất, ai ai cũng nhanh nhẹn. Hơn mười người chạy tản ra xa, vây quanh bốn phía nhằm dồn bắt con sóc.

Con sóc kia lúng túng, kinh hoảng, lập tức chạy về hướng ba người đang đứng. Nạp Lan nhanh mắt, tay tóm được cái đuôi lông nhung của nó. Nó kêu la ư ư một lúc cũng không thoát được bàn tay kia.

Phúc Toàn liền sai người đem chiếc lồng sắt tới. Tổng quản thái giám phủ Dụ thân vương – Quách Hưng Hải rất nhanh nhẹn, chỉ chốc lát đã mang tới một chiếc lồng vàng tinh xảo tới.

“Lồng nhỏ không có sẵn, may mà có cái lồng này, cũng đỡ phí phạm.” Phúc Toàn cười.

Hoàng đế thấy chiếc lồng chim rất khéo léo, bên ngoài còn chạm trổ hoa văn hình ảnh đồng cỏ được dát vàng, hắn nói: “Cái lồng này đúng là hảo hạng. Lồng nhỏ như vậy thì nhốt chim gì?”

Phúc Toàn vừa cười hì hì vừa đáp: “Nô tài có nuôi một con chim màu xanh thẫm. Cái lồng này là để lúc đi kiệu thì nhốt nó vào rồi mang theo. Hôm trước bọn người hầu thay thức ăn cho nó, không cẩn thận làm chim tước bay mất, làm nô tài buồn bã bao nhiêu, chỉ nghĩ thôi hết rồi, số nó là được phóng sinh đi, chỉ còn lại cái lồng không này… Không ngờ hôm nay nó lại hữu dụng với Vạn Tuế Gia, đúng là phúc của nô tài.”

Con sóc trong tay Nạp Lan vẫn đang kêu gào giãy dụa một cách liều mạng. Nó cào vào lòng bàn tay Nạp Lan khiến vài giọt máu chảy ra từ vết xước. Nạp Lan sợ nó giãy dụa thoát được liền rút cái đai lưng ra, quấn quanh mấy cái móng vuốt của con sóc rồi buộc thắt nút lại.

Con sóc không giãy được nữa, Nạp Lan bỏ nó vào trong lồng, Dùng cái khoá mạ vàng tinh xảo kia khoá lại. Phúc Toàn cầm lấy, tự mình đưa cho Lương Cửu Công. Trời có tuyết, âm u u ám, ngày đông lại ngắn, chỉ trong một lát sắc trời đã hơi tối. Vì Hoàng đế vi hành nên Phúc Toàn cứ thấp thỏm mãi không yên.

Hoàng đế hiểu tâm trạng hắn nên nói: “Trẫm hồi cung, đỡ cho khanh phải lo lắng trong lòng.”

“Trước mắt chỉ sợ lại có tuyết rơi lớn hơn, đường đi trơn trượt, một lúc nữa trời sẽ tối đen mất, Hoàng thượng vẫn nên hồi cung sớm một chút, cũng tránh cho Thái hoàng thái hậu, Thái hậu – hai vị lão nhân gia lo lắng. Hoàng thượng bảo trọng long thể, cũng là đã vì bề tôi như nô tài rồi.” Phúc Toàn cung kính nói.

Hoàng thượng cười: “Đuổi Trẫm đi thì là đuổi Trẫm đi, Trẫm đưa khanh cái bậc thang, khanh lại nói rõ hết cả ra.”

“Hoàng thượng thương cảm nô tài, đương nhiên nô tài phải thuận theo cái thang mà trèo lên.”

Vì đang vi hành nên tránh không quá rêu rao, Phúc Toàn vẫn tự mình tiễn Hoàng đế đi ra cổng chính, cùng Nạp Lan giúp Hoàng đế lên ngựa. Tuyết bay trên trời dày đặc, đại đội thị vệ vây quanh ngự giá, tiếng chuông leng keng, càng đi càng xa nhìn không rõ nữa. Chỉ nhìn thấy những bông tuyết kia, vẫn liên tiếp rơi từ trên xuống.

Hoàng đế về Tử Cấm Thành thì trời đã gần tối đen. Lúc hắn xuất cung cũng không ồn ào, hồi cung lại trong im lặng. Cung Càn Thanh vừa lên đèn, Hoạ Châu bỗng thấy hắn tiến vào, trên chiếc áo choàng đen phủ đầy tuyết trắng. Phía sau có Lương Cửu Công đi theo, cũng bị tuyết phủ lên cả người. Hoạ Châu giật mình, vội chạy tới giúp Hoàng đế cởi mũ, cởi áo choàng giao cho tên tiểu thái giám giữ lấy, mang ra ngoài phủi tuyết.

 

Trong noãn các vốn dĩ rất ấm áp. Lông mi, mặt mũi Hoàng đế còn vương mấy bông tuyết, trước cái ấm này, tuyết tan, khuôn mặt cứ trơn bóng. Thay y phục xong lại cầm khăn nóng tới lau mặt, xong xuôi mới truyền cơm tối và điểm tâm lên.

Lâm Lang dâng sữa nóng vào thì thấy Hoàng đế đang ăn tối liền lui xuống theo quy củ. Đợi Hoàng đế ăn xong, nàng mới đổi trà nóng dâng tới. Vì thời tiết giá lạnh, Hoàng đế đội tuyết đi một vòng quanh chín thành, chắc chắn cũng đã uống vài chén rượu. Tràng kỉ trong noãn các cực kì ấm áp, Hoàng đế chỉ mặc một y phục thường ngày mỏng manh.

 


Vì uống rượu nên trên mặt hắn hơi nóng. Cầm chén trà nóng hổi lên, không vội uống mà đem chén trà đặt xuống bàn. Hắn chợt nhớ ra một chuyện, cười nhẹ mà nói: “Có thứ này cho nàng.” Nhìn sang Lương Cửu Công, Lương Cửu Công hiểu ngay, vội đi lấy.

Trước mặt Lâm Lang là một chiếc lồng sắt mạ vàng tinh xảo. Trong đó có nhốt một con sóc nhỏ, đôi mắt đen nhánh to tròn, đang trừng mắt nhìn nàng. Nàng bật cười, nhẹ nhàng ôm lấy chiếc lồng. Trên má trái vừa cười đã thấp thoáng thấy má lúm đồng tiền.

Hoàng đế đứng dậy cầm lấy chiếc lồng: “Để Trẫm bắt ra cho nàng nhìn.” Lương Cửu Công thấy cảnh này đã yên lặng lui xuống từ lâu.


Con sóc đã vùng vẫy một lúc, hiện giờ nằm im re run rẩy trong lòng bàn tay Hoàng đế. Lâm Lang thấy nó dễ thương ngoan ngoãn, liền khẽ vuốt lớp lông nhung ở đuôi nó, bất giác nói: “Thật là thú vị.”


Hoàng đế thấy nàng cười xinh đẹp, dưới ánh đèn chỉ cảm thấy rực rỡ như ngọc sáng, đẹp đẽ rạng rỡ. Má lúm đồng tiền lộ ra như nụ hoa mai, hương thơm lan toả. Hoàng đế cười nói: “Cẩn thận nó cắn nàng đấy.” Nói xong liền nhẹ nhàng đặt con sóc vào bàn tay nàng.


Nàng thấy con sóc bị buộc bởi dây lưng, đáng thương vô cùng. Cái dây lưng vốn chỉ thắt hờ, nàng khẽ cởi ra, hai đầu dây lưng đều gắn ngọc, trước mặt còn có hình chữ triện vô cùng quen thuộc.

Trong nháy mắt, nụ cười trên khoé môi nàng cứng lại, cứ như bị đông giữa tuyết lạnh buốt, đến lục phủ ngũ tạng cũng lạnh buốt đến tận xương. Không để ý một chút, con sóc đã nhảy lên một cái rồi trốn mất.

Lúc này nàng mới giật mình hoàng hồn, khẽ kêu “ai” một tiếng, vội vàng bắt lấy. Con sóc kia lại nhảy lên, nháy mắt đã nhảy lên trên tràng kỉ rồi chui thẳng xuống phía dưới cái gối. Hoàng đế nhanh nhẹn, kịp thời nhấc cái gối lên. Con sóc nhỏ xíu, kêu chít chít một tiếng rồi nhanh như tên bắn chạy xuống dưới gầm thảm trên tràng kỉ. Lâm Lang vồ đến, nó thoát được mấy lần, vô cùng nhanh. Đuổi đuổi bắt bắt, nó lại lẻn tới dưới chân bàn trên tràng kỉ, ánh mắt trừng trừng nhìn hai người.


Tây Noãn Các vốn là phòng ngủ của Hoàng đế, Lâm Lang không dám sờ loạn vào đồ dùng của hắn. Hoàng đế vỗ nhẹ lên trên chiếc bàn, quả nhiên con sóc nhảy ra, Lâm Lang nóng lòng, nghiêng người vồ đến. Không ngờ Hoàng đế cùng lúc dang tay bắt con sóc. Nàng không kịp lùi lại, chỉ cảm thấy trời long đất lở, người đã ngã soài lên tràng kỉ. May là lớp thảm trên đó rất dày nên nàng không đau. Khuôn mặt Hoàng đế ở ngay bên cạnh, nghe thấy cả tiếng hô hấp của hắn. Trong hơi thở còn vương mùi rượu thơm. Nàng bối rối, theo bản năng xoay mặt sang một bên.

 

Cổ trắng mịn hiện lên dưới lớp áo xanh, Hoàng đế không tự chủ được mà hôn xuống. Cả người nàng lạnh run, như nhụy hoa run rẩy trước gió lạnh, thật khiến người ta thương yêu.

Trong đầu nàng trống rỗng, trước môi bỗng nóng bỏng. Bàn tay vẫn nắm chặt dải dây lưng kia. Lòng bàn tay lại đổ một lớp mồ hôi. Phía sau lưng thì lúc nóng lúc lạnh, từng trận từng trận dồn dập, giống như lúc bị ốm nặng vậy. Trong tai cứ ong lên từng hồi.

Gió tuyết bên ngoài vọng qua song cửa sổ, vang lên tiếng rào rào.
Đồng hồ phương tây đổ chuông báo 11 giờ, Lương Cửu Công thấy đã đến giờ tý, đợi không nổi nữa, hắn yên lặng đi vào Tây Noãn Các. Nhìn thấy giá cắm nến có 18 cây khắc hình rồng uốn lượn quanh thân, cây nào cây nấy to bằng bắp tay, đã cháy hơn phân nửa, sáp nến đỏ hồng đang chảy xuống dưới rồi dần đông lại. Mành màu vàng buông thõng, dải lụa buộc mành vứt bừa trên đất. Bốn phía yên lặng. Bất chợt nghe tiếng ư ư, hoá ra là con sóc kia. Không biết chạy ra từ chỗ nào, vừa thấy Lương Cửu Công nó lại nhảy ngay vào sau mành.

Lương Cửu Công liền đi nhẹ nhàng ra ngoài, thái giám Kính Sự Phòng – Phùng Tứ Kinh đứng ở hành lang, thấy hắn đi ra thì cất giọng hỏi nhỏ: “Giờ này rồi sao Vạn Tuế Gia vẫn chưa nghỉ ngơi?”

Lương Cửu Công đáp: “Vạn Tuế Gia đã đi nghỉ rồi, ngươi cũng về phòng nghỉ ngơi đi.” Phùng Tứ Kinh ngẩn người, líu lưỡi nói: “Nhưng… cung nữ hầu hạ trà nước – Lâm Lang vẫn đang ở trong Tây Noãn Các…” nói chưa hết câu đã tự hiểu ra. Hắn hít vào một hơi, càng lúc càng mông lung không biết nên làm thế nào. Hành lang bỗng có gió lớn, hắn lạnh đến run người, hai hàm răng va vào nhau, sau một lúc lâu mới nói: “Lương Am Đạt, việc ngày hôm nay nên ghi lại thế nào đây, như thế này không đúng quy củ.”

Lương Cửu Công tức giận: “Quy củ… Lúc này ngươi còn muốn nhắc quy củ với Vạn Tuế Gia?” Dừng một lúc rồi nói tiếp: “Đúng là đồ không có não, việc hôm nay bỏ qua, không được ghi lại. Sao ngươi không hiểu ý tứ của Vạn Tuế Gia gì cả vậy?”

Phùng Tứ Kinh cảm kích vô cùng, phủi hai tay áo xuống rồi quỳ trên đất, nói: “Đa tạ Am Đạt chỉ dạy.”

 

Đã gần đến tháng chạp, trong cung cũng rảnh rang hơn. Đồng Quý Phi nắm quyền cai quản lục cung nên càng đến ngày Tết lại càng bận rộn. Nàng phải quyết định đủ loại việc nhỏ nhặt, tặng phẩm các nơi, rồi yến tiệc năm mới… Đều là mấy chuyện khiến người ta đau đầu, hơn nữa, chúng đều liên quan tới quốc thể, không cho phép được sơ sẩy chút nào. Sau khi nghe người ở phủ Nội Vụ bẩm báo xong, nàng chỉ thấy cái huyệt Thái Dương kia lại đau nhức, cũng đau đầu nữa. Nàng gọi cung nữ bên người: “Đem chậu than kia để ra xa, khói than ám cả người rồi.”

Cung nữ vội vâng lệnh. Bọn tiểu thái giám đi tới nhấc chậu than đi. Bên ngoài có người tiến vào báo: “Chủ nhân, An chủ nhân tới.”


An Tần vẫn hay lui tới, cũng không câu nệ lễ nghi, chỉ quỳ gối nói: “Thỉnh an Quý Phi.”

Đồng Quý Phi vội sai người đỡ dậy, rồi bảo: “Muội muội mau ngồi đi.”

An Tần ngồi trên ghế phía đầu tràng kỉ. Đồng Quý Phi nghiêng người dựa trên chiếc gối, mặc một bộ áo gấm vàng thường ngày, cổ áo, tay áo đều có một lớp lông cáo trắng muốt, làm nổi lên khuôn mặt tái nhợt. An Tần nói: “Tỷ tỷ phải giữ gìn sức khoẻ, gần đây muội thấy tỷ đã gầy hẳn đi.”

Đồng Quý Phi khẽ thở dài: “Ai mà không muốn nghỉ ngơi cơ chứ. Hậu cung có mấy ngàn người trên dưới, mỗi ngày đều có hơn mười việc lớn nhỏ. Hôm kia Vạn Tuế Gia còn đến thăm tỷ, cười cười nói nói, bảo tỷ còn bận bịu hơn Vạn Tuế Gia ở trên triều.”

Trong lòng An Tần chua xót: “Hoàng thượng vẫn nhớ thương tới tỷ tỷ. Cứ ba năm ngày là lại đến thăm tỷ.”

Cung nữ dâng lên một bát ngọc, Đồng Quý Phi cầm thìa bạc múc lên, nhấp một chút rồi lại buông xuống không uống nữa. An Tần vội nói: “Canh tổ yến là bổ nhất, tỷ tỷ cố gắng uống một chút.”

Đồng Quý Phi nhẹ nhàng lắc đầu, An Tần thấy trên tường quanh tràng kỉ dán đầy những bức tranh nhằm giảm khí lạnh, nàng nói: “Năm nay thật lạnh, vừa vào tháng chín là tuyết rơi hết trận này đến trận khác không dừng. Ai da, ngày tháng trôi thật nhanh, lại đến cuối năm.” An Tần có vẻ nhớ lại: “Chắc là Nghi Tần sắp sinh rồi.”

Đồng Quý Phi đáp: “Có lẽ là trong tháng chạp, hôm trước Vạn Tuế Gia còn hỏi tỷ chuyện này, tỷ bẩm đã phái người đến đó hầu hạ rồi.”

An Tần tiếp lời: “Tiểu Thất nhà Quách Lạc La là người Vạn Tuế Gia thương yêu, nếu bây giờ còn hạ sinh một vị tiểu A Ca, không biết rồi Hoàng thượng sẽ sủng ái đến mức nào nữa.”

Đồng Quý Phi cười nhẹ: “Tuy Nghi Tần cũng rất mong muốn như vậy, nhưng tỷ thấy, Vạn Tuế Gia sẽ không quá thiên vị nàng ta đâu.” An Tần có câu nói sắp nói ra, nhưng lại rút lại, bày ra dáng vẻ nhàn nhã: “Không biết mấy ngày nay tỷ tỷ có nghe thấy chuyện long thể Hoàng thượng không khoẻ hay không?”

Đồng Quý Phi giật mình ngạc nhiên: “Sao cơ? Tỷ đâu có nghe thấy truyền ngự y? Muội muội nghe được những gì rồi?”

Mặt An Tần dần ửng hồng lên, đáp nhỏ: “Hoá ra là muội nghĩ lung tung. Vì ngày nọ bất ngờ nghe được người của Kính Sự Phòng nói hai mươi ngày gần đây Vạn Tuế Gia đều nói “Lui!”.

Đồng Quý Phi cũng đỏ bừng mặt. Tuy là nàng cũng cảm thấy chuyện này không bình thường, nhưng hai người đều đang trẻ trung, ngại ngùng, không dám mặt dày mà bàn luận chuyện phòng the. Nàng chỉ cười cười đáp “ừ” một tiếng rồi chuyển sang chuyện khác.

 

Đến tối, Đồng Quý Phi đi thỉnh an Thái hoàng thái hậu, ngồi lâu hơn hàng ngày một lúc. Đang lúc kể mấy chuyện hậu cung thú vị cho Thái hoàng thái hậu nghe đỡ buồn chán thì có cung nữ cười dịu dàng tiến vào báo: “Thái hoàng thái hậu, Vạn Tuế Gia tới rồi.” Đồng Quý Phi vội vàng đứng dậy.

Mỗi ngày vào buổi chiều Hoàng đế đều đi thỉnh an Thái hoàng thái hậu, vô cùng thân thiết. Thỉnh an xong đứng lên, Thái hoàng thái hậu nói: “Lên tràng kỉ ngồi, trên đó ấm áp.” Lại gọi Đồng Quý Phi: “Cháu cũng ngồi đi, đều là người một nhà, đóng cửa lại, không cần để ý quy củ.”

Đồng Quý Phi vâng lời, nghiêng mình ngồi xuống. Thái hoàng thái hậu nhìn chăm chú vào Hoàng đế: “Ngoài trời lại có tuyết à? Sao không bảo người đem ô? Trên mũ Hoàng thượng vẫn còn tuyết kìa.”
Hoàng đế cười đáp: “Tôn nhi (cháu) có đội mũ tránh tuyết (kiểu khăn quấn như người Ả rập), vào điện mới tháo xuống.” Thái hoàng thái hậu gật gật đầu, cười: “Dạo gần đây ta thấy sắc mặt Hoàng thượng rất tốt, chắc chắn là trong lòng đang vô cùng vui vẻ thoải mái.”

“Tổ mẫu sáng suốt. Đồ Hải đã vào Tứ Xuyên, Triệu Lương Đống, Vương Tiến Bảo cũng hạ được vài thành. Tình hình trước mắt thì tới mùa xuân sang năm, thành khó đánh nhất ở Tứ Xuyên cũng sẽ hạ được. Chúng ta có thể đánh thẳng tới Vân Nam, một đường dẹp yên Ngô Phiên.” Hoàng đế vui vẻ nói.

Quả nhiên Thái hoàng thái hậu vô cùng mừng rỡ, vừa cười vừa nói liên hồi: “Tốt quá, tốt quá!”

Đồng Quý Phi thấy câu chuyện liên quan đến việc triều chính thì chỉ ngồi một bên cười mà không nói gì.

Ba người tổ tôn (bà cháu) lại nói chuyện thêm một lúc nữa. Do nghe thấy tiếng gió tuyết rít mạnh bên ngoài cửa sổ nên Thái hoàng thái hậu bảo: “Trời tối, đường lại trơn, quanh co. Ta cũng mệt rồi, các cháu về đi. Nhất là Đồng Giai Thị, buổi tối có gió tuyết lạnh, thân thể lại không khoẻ, đừng để bị nhiễm gió lạnh.”

Hoàng đế cùng Đồng Quý Phi đã đứng dậy từ lâu, Đồng Quý Phi đáp: “Tạ Thái hoàng thái hậu quan tâm, cháu ngồi kiệu ấm đến đây nên không sao đâu.”, rồi cùng hành lễ với Hoàng đế xong xuôi mới cáo từ lui về.

 

Đồng Quý Phi khoác chiếc áo choàng hoa văn đẹp đẽ đang đứng run run ở hành lang, gió lạnh thổi đến khiến sắc mặt nàng nhợt nhạt. Hoàng đế xưa nay rất khách khí với vị biểu muội này của mình, hắn bảo: “Trời nhanh tối như hôm nay, thân thể nàng đã không khoẻ thì nên đến thỉnh an Thái hoàng thái hậu sớm hơn ngày thường, cũng tránh phải đội gió đội tuyết trở về.”

Đồng Quý Phi đáp nhỏ: “Tạ Hoàng thượng quan tâm.” Trong lòng vẫn còn chuyện muốn hỏi nhưng nàng chỉ cúi đầu yên lặng. Hoàng đế hỏi: “Có chuyện muốn nói sao?”

“Không có.” Nàng đáp, “Hoàng thượng bảo trọng, chính là phúc của thần thiếp.”

Hoàng đế thấy nàng không chịu nói, cũng bỏ qua. Hắn xoay người bước lên kiệu vàng ấm áp. Ánh mắt Đồng Quý Phi dõi theo nhóm thái giám vây quanh, cả đoàn người đi xa dần, lúc này nàng mới lên kiệu của mình.

 


Hoàng đế vẫn luôn rất tinh tế, về đến cung Càn Thanh, hắn xuống kiệu liền hỏi Lương Cửu Công: “Hôm nay Đồng Quý Phi có phái người qua không?”

Lương Cửu Công ngẩn người, đáp: “Bẩm Hoàng thượng, Đồng chủ nhân không hề phái người tới. Chỉ là chiều hôm nay bỗng nhiên có nghe nói chỗ Đồng Quý Phi có truyền thái giám Kính Sự Phòng qua hỏi vài việc.”

Hoàng đế nghe xong đã hiểu ra ít nhiều. Ngẩng đầu thấy Lâm Lang tiến vào, không kìm được mà nở nụ cười. Lâm Lang thấy hắn cứ nhìn chằm chằm vào nàng, mặt mũi không khỏi ửng hồng. Sau một lúc nàng mới bình thản ngẩng đầu lên, làm như không có chuyện gì.

Hoàng đế vô cùng dịu dàng, hỏi nàng: “Trẫm đi lâu như thế, nàng đã làm những gì?”

Lâm Lang đáp: “Không phải Vạn Tuế Gia nói muốn uống trà hạt sen sao? Lâm Lang đi bảo phòng ngự trà bóc hạt sen.”

Hoàng đế “ừ” một tiếng rồi nói: “Ngoài trời tuyết lại rơi.” Vì trên bàn ở tràng kỉ có đặt cam sành mới cống từ Quảng Tây đến, Hoàng đế liền cầm lấy một quả đưa cho nàng. Lâm Lang đang muốn lui xuống đi lấy con dao bạc thì hắn rút ra một con dao nhỏ tráng men khảm vàng từ thắt lưng ra, đưa cho nàng. Nàng cúi đầu nhẹ nhàng cắt vỏ cam.


Hoàng đế ngửi thấy hương cam ngào ngạt, lẫn với mùi hương nhẹ nhàng sâu kín quen thuộc kia. Hoàng đế nắm lấy tay nàng, bàn tay mềm mại trắng mịn khiến lòng hắn rung động, hắn vịnh một câu thơ: “Tịnh đao như thủy, ngô diêm thắng tuyết, tiêm thủ phá tân chanh.①”

Dưới ánh đèn thấy hai gò mà hồng hồng như say rượu của nàng, đôi mắt sáng lay động. Qua một lúc lâu mới thấy nàng khẽ đáp: “Mã hoạt sương nùng, bất như hưu khứ, trực thị thiểu nhân hành.②”

Hoàng đế cười nhẹ một cái, nhịn không được mà ôm nàng vào lòng. Vì noãn các ấm áp, nên nàng chỉ mặc chiếc áo có lông ấm ở cổ màu xám như lông chuột. Hoàng đế thấy eo nàng nhỏ nhắn, thừa sức nắm bằng một tay, xinh đẹp ngát hương làm say lòng người, hắn nói nhỏ: “Trẫm may mắn hơn Triệu quan gia* kia nhiều!”

* Chỉ Tống Thái Tổ – Triệu Khuông Dận
①, ②: Trích bài “Thiếu niên du – Cảm cựu” của Chu Bang Ngạn thời Tống. Tương truyền Tống Thái Tổ và Chu Bang Ngạn đều yêu thương Lý Sư Sư. Một hôm, Chu Bang Ngạn đang ở bên Lý Sư Sư thì Hoàng đế tới, hắn đành phải trốn xuống gầm giường, tận tai tận mắt nhìn thấy hai người kia tình cảm. Hoàng đế mang cam sành Giang Nam mới cống cho Lý Sư Sư, vừa ăn vừa nói nhau nghe những lời đường mật. Sau hôm đó Chu Bang Ngạn mới viết bài thơ “Thiếu niên du – Cảm cựu”:

“Tịnh đao như thủy, ngô diêm thắng tuyết, tiêm thủ phá tân chanh.
Cẩm ác sơ ôn, thú hương bất đoạn, tương đối tọa điều sanh.
Đê thanh vấn: “Hướng thùy hành túc, thành thượng dĩ tam canh. 
Mã hoạt sương nùng, bất như hưu khứ, trực thị thiểu nhân hành.”

Đoạn đầu là một không khí vô cùng ấm áp tình cảm, ngón tay thon của người con gái bóc vỏ cam, có con dao sắc và đĩa muối bên cạnh. Đoạn sau là lời khuyên đầy tình cảm của nàng, đã canh ba, đường trơn trượt, ngựa khó đi, chi bằng hãy ở lại đây đêm nay…

Mặt nàng đỏ bừng, nàng không đáp lời. Gió bắc rít bên ngoài, đập vào cánh cửa sổ, phát ra tiếng tạch tạch. Hắn nghe tiếng hô hấp nhẹ nhàng của nàng mà tim cũng đập thình thịch liên hồi. Tóc của nàng xoã xuống mặt hắn, hắn nguyện cứ để như thế mãi, thật lâu, thật lâu.


Lâm Lang nghe tiếng tách tách từ than cháy trong lò sưởi. Cánh tay ôm nàng của Hoàng đế rất ấm áp. Trong ống tay áo còn ngào ngạt mùi hương Long Tiên, lòng nàng dần bình lặng lại. Hoàng đế nói: “Trong cung đúng là không làm người ta yên ổn, đợi đến cuối năm ổn định, chúng ta đi Nam Uyển.” Giọng nói càng lúc càng nhỏ, dần dần biến thành tiếng thì thầm bên tai. Tiếng hô hấp của hắn vọng tới, hơi thở ấm áp vấn vít tới lui sau tai nàng, vừa nhẹ nhàng vừa yếu ớt. Giá nến bên sườn có hơn mười cây nến đang cháy sáng rực, chiếu sáng một hồi ái ân.
Mãi đến tháng 12 năm Đinh Mão, đại giá mới đi khỏi Vĩnh Định Môn, đi về hướng Nam Uyển. Ngày hôm đó hiếm khi mới được một ngày trời nắng đẹp, mặt trời chiếu xuống lớp tuyết dày, phát ra những tia sáng vàng kim loá mắt.

Hai bên đường đi đều được giăng bạt màu vàng. Sương thấm vào làm nó ướt đẫm rồi đông cứng lại từ lâu. Quan viên cùng ba doanh tướng sĩ, đại đội nhân mã hộ tống vây quanh một đoàn mười sáu người cùng ngự giá bằng gỗ, nước sơn đỏ thẫm, lăn bánh một cách đều đặn. Gió sáng sớm thổi vào những chiếc ô và lá cờ giữa hàng ngũ, làm nó bay phấp phới.


Pha Nhĩ Bồn lĩnh việc của Nội đại thần, cưỡi con ngựa đi theo sát phía sau ngự giá. Chợt thấy Hoàng đế vén màn xe lên, vẫy một cái, lại là vẫy hướng Nạp lan Dung Nhược. Nạp Lan vội phi ngựa đến gần, cách Hoàng đế một cái cửa sổ xe. Hoàng đế trầm ngâm một lúc rồi mới sai bảo hắn: “Khanh đi lo liệu cho xe phía sau.”


Nạp Lan lĩnh chỉ, xoay ngựa đi về phía sau hàng ngũ. Phía sau đều là xe ngựa của hậu cung, Nạp Lan thấy một chiếc xe màu xanh như màu y phục của cung nữ, bánh xe lớn sơn màu đỏ, không biết là xe của vị phi tần nào theo tùng, trong lòng hắn tuy cảm thấy kì lạ nhưng Hoàng đế phái hắn qua đây, hắn đành ghìm cương ngựa, đi bên sườn xe không nhanh cũng không chậm.


Vì thời tiết nắng ấm nên trên đường tuyết đang dần tan, cực kì khó đi. Dưới bánh xe và vó ngựa đều là bùn, tuyết bẩn, bắn lên tung toé. Ngự giá đi chậm nên xe ngựa cũng không đi nhanh được. Nạp Lan cầm cương đi lững thững, dường như có chút thất thần. Đúng lúc này thì trên đường có một hố sâu, vốn được lấp bởi đất đỏ rồi, nhưng khi đại đội nhân mã giẫm đạp lên nó cùng với nước tuyết tan khiến nó lõm xuống. Đến khi xe ngựa đi qua thì sa xuống một bên, bánh xe đỏ bị sà xuống đó. Thái giám điều khiển xe không ngừng hô, quát, nhưng sau vài lần cố gắng kéo xe của con ngựa, chiếc xe vẫn không thể kéo lên.


Nạp Lan vội nhảy xuống, gọi thêm mấy binh sĩ hộ tống ra đẩy xe. Hơn mười người dễ dàng nâng được chiếc xe la kia lên. Hắn vừa thả lỏng tâm tình, xoay người nhảy lên ngựa thì chợt có cơn gió thổi qua khiến mành trướng của xe ngựa bay lên, theo đó là một hương thơm mỏng manh. Là hương thơm hắn thương nhớ, quen thuộc đến mức vĩnh viễn cũng không quên được. Trong lòng vừa hoảng sợ vừa đau đớn, kinh ngạc quay đầu lại nhìn chiếc màn trướng của xe ngựa, dường như muốn nhìn xuyên thủng cái màn bằng vải xanh dày cộp kia.

Kể từ lúc đó, hắn cứ ngơ ngẩn theo sau xe ngựa. Tay cầm dây cương mà người như mất hồn. Chỉ nghe tiếng bánh xe lộc cộc và tiếng tuyết tan tạo ra âm thanh nho nhỏ ở hai bên đường. Hắn cảm giác trái tim hắn cũng đang tan chảy, đau đớn vô cùng, không có lấy một khắc bình yên.

 

Nam Uyển chật chội, tất nhiên là không so được với trong cung. Việc canh phòng cũng rất quan trọng, may mà có thân binh ngự doanh theo hộ tống thuộc đại doanh Phong Đài* được điều động đóng quân ở ngay cạnh. Pha Nhĩ Bồn lĩnh nhiệm vụ Nội đại thần, vừa nhậm chức chưa lâu đã phải lo liệu việc lần này, khó tránh có nhiều việc không kiểm soát hết. Nạp Lan vốn thường hộ tống, biết việc mấu chốt nên cũng đứng một bên giúp đỡ đôi ba viêc, cuối cùng thì mọi thứ cũng được lo liệu đâu vào đó.

* Đại doanh Phong Đài gồm các binh lính cận vệ tinh nhuệ tuyển chọn từ bát kỳ, được dùng binh khí tốt nhất bấy giờ, lương bổng nhiều nhất, đãi ngộ cũng tốt nhất. Đội quân này do chính Hoàng đế ra thánh chỉ lệnh chủ soái đại doanh Phong Đài điều binh. Nếu không có thánh chỉ cùng chỉ thị viết tay của chủ soái thì không ai có thể điều động binh lính.


Lúc này thời tiết âm u. Qua giờ ngọ, trời đổ tuyết, bông tuyết trong như hạt muối, như phấn như bột, từng hạt lặng lẽ rơi xuống. Pha Nhĩ Bồn tự mình dẫn lính đi tuần tra các tuyến phòng ngự, xong xuôi trở lại trong phòng. Đôi giày da nai của hắn đã ướt đẫm từ lâu, bàn chân bị nhiễm lạnh, buốt đến tận xương. Tên hộ vệ theo hầu hắn vội tiến lên giúp cởi giày, lại dời chậu than tới, vừa làm vừa nói: “Đại nhân, trong phòng không có lò sưởi chân, đại nhân xin tạm hơ một lúc vậy.”


Pha Nhĩ Bồn cảm thấy cái giày ướt sũng kia dính vào chân hắn khiến chân cũng đông cứng mất cả tri giác, hắn duỗi chân lên trước than hồng, sau một lúc mới dần cảm nhận được hơi nóng. Bỗng thấy mành hơi vén lên, có người đi vào, chính là thống lĩnh ngự tiền thị vệ chính điện Nam Cung (cung điện ở Nam Uyển), trên người khoác một chiếc áo choàng cũng đã bị ướt thẫm, khuôn mặt chỗ trắng chỗ hồng, hoảng hốt lo lắng cố sức bẩm báo với hắn: “Quan đại nhân, đã xảy ra chuyện rồi.”

Lòng hắn chùng xuống, hỏi ngay lập tức: “Chuyện gì?” Vị thống lĩnh kia liếc mắt nhìn về phía tên hộ vệ đang đứng sau lưng hắn, Pha Nhĩ Bồn nói: “Không sao, đây là tâm phúc của ta.” Tên thống lĩnh vẫn do dự như trước, Pha Nhĩ Bồn đành vẫy vẫy tay ra ý bảo tên hộ vệ lui xuống. Lúc này thống lĩnh mới mở miệng, giọng nói có chút bối rối: “Quan đại nhân, không thấy Hoàng thượng đâu cả.”

Pha Nhĩ Bồn như bị sét đánh trúng đầu, hắn vô cùng hoảng sợ, miệng bật thốt lên trách mắng: “Vớ vẩn! Sao lại không thấy Hoàng thượng được?” Tại cung điện Nam Uyển này, tuy không thể so với cấm cung được nhưng cũng được bảo vệ nghiêm ngặt, trong ba tầng, ngoài ba lớp. Đến một con ruồi cũng không bay ra được. Hơn nữa, ngự giá Hoàng đế, bình thường có mấy chục thái giám, cung nữ vây quanh, cứ coi như là đang đi lại ở trong cung đi, thì cũng có mười người hầu hạ, sao có thể “không thấy” được?

 

Vị thống lĩnh kia đáp: “Hoàng thượng muốn ngắm tuyết nên đi khỏi chính điện, đi dạo ở bên bờ hồ nước. Xong lại bảo chuẩn bị ngựa. Lương công công đã bẩm với người là muốn có thị vệ ngự tiền đi theo hầu hạ, nhưng Hoàng thượng bảo không cần, rồi còn nói không cho ai đi theo. Hoàng thượng cưỡi ngựa dọc theo bờ hồ lên phía trên, bây giờ Lương công công cũng lo lắng đến phát điên rồi.”

Pha Nhĩ Bồn vừa sợ hãi vừa hoang mang, hắn nói: “Còn không mau phái người đi tìm đi?”

“Thị vệ Nam Cung đã được phái hết đi, lúc này vẫn chưa có tin tức gì, tình hình có vẻ không ổn cho nên nô tài mới vội vàng chạy đến bẩm báo Quan đại nhân.”
Pha Nhĩ Bồn biết hắn phải chịu trách nhiệm, nhưng cái trách nhiệm này quá lớn, đừng nói chỉ mình hắn, chỉ sợ đến tất cả các đại thần ngự tiền hộ tống chuyến đi lần này cũng khó mà gánh nổi. Hắn nói: “Mau mau đi gọi người Loan Nghi Vệ* (tên cũ của Cẩm Y Vệ), Thượng Ngu Bị Dung Sở, tất cả cùng chạy đi tìm!” Hắn cũng vội vã đi ra ngoài, chợt nghe thấy tiếng tên hộ vệ đuổi theo mình mà hô: “Đại nhân! Đại nhân! Giày!” Lúc này mới thấy dưới chân lạnh cóng, hoá ra là không đi giày, chân trần giẫm lên nền đá. Đi giày trong tâm trạng nóng như lửa đốt, quay lại dặn hộ vệ: “Nhanh đi bẩm báo Sách đại nhân! Bảo là có chuyện gấp, mời ngài ấy đến ngay!”

 

Tất cả thái giám cận vệ hầu hạ bên người của Hoàng đế đều đang ở bên hồ. Gió bắc thổi mạnh, thổi từ trên mặt nước hồ thổi lên, mang theo những bông tuyết trắng muốt phả vào mặt, đau rát tới mức nước mắt chảy ra không ngừng. Thị vệ được phái đi từng tốp một. Lúc này Pha Nhĩ Bồn mới bình tĩnh lại, an ủi Lương Cửu Công đang vô cùng lo lắng: “Lương tổng quản, nơi này là hành cung*, bốn mặt đều có tường cung bao quanh, bên ngoài còn có binh lính của Tiên Phong doanh, Hộ Quân doanh, Hoả Khí doanh, bên trong là ngự tiền thị vệ hộ tống. Người ngoài không thể vào được đây. Chúng ta nhất định sẽ tìm thấy Hoàng thượng thôi.” 
* Cung điện Hoàng đế ở khi đi khỏi kinh thành

Tuy là nói như vậy nhưng hắn vẫn hơi bất an trong lòng, lời nói đó cũng như đang an ủi chính bản thân hắn vậy. Lại nói tiếp: “Vườn ngự uyển rộng, tuy trong rừng, tứ phía đều có người đi tuần tra, nhưng sao Lương công công có thể để Hoàng thượng đơn thương độc mã đi như vậy?” Cuối câu nói đã không giấu được sự tức giận.


Lương Cửu Công cười khổ, sau một lúc lâu mới đáp lại: “Quan đại nhân, Vạn Tuế Gia không đi một mình… nhưng cũng chẳng khác gì đi một mình.”

Pha Nhĩ Bồn càng khó hiểu hơn, hỏi: “Tức là có người đi cùng?” Lương Cửu Công gật đầu, cũng chẳng nói nữa, Pha Nhĩ Bồn lại thêm mông lung, đang định hỏi cho rõ ràng thì chợt nghe một hồi leng Keng từ x 3a25 a loáng thoáng vọng tới. Tiếng vó ngựa lộp cộp, phi về hướng này.

Dưới những bông tuyết rơi lả tả, con ngựa kia càng hiện lên vẻ to lớn dũng mãnh cũng không kém phần đẹp đẽ, đúng là ngự mã của Hoàng đế. Càng đến gần, càng nhìn thấy rõ người mặc áo choàng chồn tía rồi, gió thổi vào chiếc áo choàng bay bay, lộ ra lớp vải vàng lót trong. Từ xa xa Pha Nhĩ Bồn đã thấy màu vàng của y phục Hoàng đế, hắn nhẹ nhàng thở ra, vuốt hết những bông tuyết rơi trên mặt hắn, lúc này mới nhìn rõ hơn, là hai người cùng cưỡi một con ngựa. Người ngồi trước khoác chiếc áo choàng của Hoàng đế, mũ tránh tuyết bằng lông bạc che mất hơn nửa khuôn mặt. Hắn nhìn thân hình nhỏ nhắn yêu kiều kia, hình như là nữ tử.


Hoàng đế mặc áo gấm đỏ thẫm, cổ tay là ống tay áo màu vàng, gấp lên hình móng ngựa, sắc mặt thoải mái vui vẻ. Mọi người vội vàng hành lễ, Hoàng đế cười mỉm: “Đang cưỡi ngựa bỗng có hứng thú muốn đi xa một chút, nhưng sợ các khanh lo lắng nên đến bờ phía nam liền phi quay lại… Xem ra lần này Trẫm lại khiến các khanh lo sợ rồi, đứng dậy hết cả đi.”

Đã có người giữ chắc dây cương từ lâu. Hoàng đế xoay người xuống ngựa, xong lại vươn lên hai tay. Nữ tử kia có dáng điệu uyển chuyển nhẹ nhàng, dường như Hoàng đế chỉ cần khẽ nắm lấy, đã mang nàng đứng duyên dáng trên nền đất.

Pha Nhĩ Bồn cùng mọi người tạ ơn đứng lên, hắn thầm đoán người này chắc là phi tần hậu cung, vốn nên tránh gặp nhưng hiện tại đã đối mặt thế này, không kịp tránh nữa rồi. Hắn không dám ngẩng đầu, vội vàng phủi hai tay áo xuống rồi gập người quỳ xuống: “Nô tài xin thỉnh an chủ nhân!”

 

Vị nữ tử kia vội tránh sang một bên, hoàn toàn không nhận hành lễ của hắn mà lùi về sau một bước. Hoàng đế cũng không để ý. Ngẩng đầu thấy Nạp Lan đang đứng phía xa, trên mặt trắng bệch như tuyết đọng trên mái nhà, không có lấy một tia máu. Hoàng đế cười, ra ý gọi hắn đến gần: “Hôm nay là Trẫm sai, ngươi cũng không nên bị doạ thành thế này. Nơi này là trong hành uyển (ngự uyển ngoài kinh thành), lẽ nào Trẫm có thể biến mất hay sao?”

Nạp Lan đáp: “Nô tài hộ giá không chu toàn, xin Hoàng thượng trách tội.”

Hắn mặc áo xanh của thị vệ, đứng một bên theo quy củ, tiếng nói lại hơi run run, cũng không biết là do thời tiết lạnh giá, hay là do vừa rồi quá lo lắng nên lúc này buông lỏng tâm tư nên thế? Hoàng đế hiện đang vui vẻ, cũng không suy nghĩ quá sâu xa, chỉ cười nói: “Trẫm đã biết là không nên nữa rồi, các khanh còn không tha thứ hay sao?”

Có tên thái giám chạy tới bẩm báo: “Vạn Tuế Gia, Sách đại nhân xin yết kiến.”

Hoàng đế hơi nhăn mặt chau mày, chỉ một giây rồi lại giãn ra như cũ, cười một cái: “Lần này Trẫm thật sự phải nghe dạy bảo rồi. Sách đại nhân chắc lại muốn khuyên răn đây, mấy cái gì mà ‘Thiên kim chi tử tọa bất thùy đường…’

Nạp Lan hoảng hốt, hắn nghe loáng thoáng trong tai, là những câu trong bài “Sử kí”, từ nhỏ hắn đã đọc thuộc làu làu, lúc này Hoàng đế đọc lên, từng câu từng chữ phảng phất như sấm rền giữa ngày hè, từng tiếng sét đánh ầm ầm bên tai. Hắn hoàn toàn không hiểu sao mấy chữ này lại gợi cho hắn ý nghĩ đó, gió mang theo bông tuyết phả vào mặt hắn, đau đớn đến chết lặng, tê dại.

 

Hoàng đế truyền Sách Ngạch Đồ ở ngay chính điện của Nam Cung. Sách Ngạch Đồ hành đại lễ, quả nhiên nói chưa hết ba câu đã nói tới: “Hoàng thượng vạn thừa chi tôn (chỉ người cao quý nhất), thân thể liên quan tới an nguy xã tắc. Viên Áng viết: ‘ Thiên kim chi tử tọa bất thùy đường, bách kim chi tử bất kỵ hành, thánh chủ bất thừa nguy nhi kiếu hạnh…’ (Người có thân phận cao quý phải trân trọng tính mạng của chính mình…) Nói xong câu mở đầu liền khuyên can thao thao bất tuyệt. Hoàng đế thấy mình đoán đúng hết thảy, không nhịn được mà cười cười. Tâm trạng hắn lúc này đang vui, cũng đáp lại vị trọng thần kia vài câu.
Đợi đến khi Sách Ngạch Đồ lui xuống, Hoàng đế mới trở về noãn các. Lâm Lang đang ngồi ở chiếc ghế nhỏ trước tràng kỉ khâu chiếc túi nho nhỏ, vẻ mặt có chút hoảng sợ cùng bất an, ngay cả Hoàng đế đi vào cũng không hay biết. Đột nhiên thấy tay áo màu vàng nhẹ phẩy qua chiếc túi, giọng Hoàng đế vui vẻ: “Khâu thứ này làm gì?”, làm nàng giật mình hết hồn, vội vàng đứng phắt dậy, miệng hô: “Vạn Tuế Gia!”


Hoàng đế nắm tay nàng, hỏi: “Sao lại lạnh thế này? Có phải lúc nãy nhiễm gió lạnh rồi?” Nàng nhẹ nhàng lắc đầu, đáp nhỏ: “Lâm Lang đang hối hận…” ngữ khí có phần ảm đạm: “Không nên xin Vạn Tuế Gia mang theo Lâm Lang cưỡi ngựa, khiến các đại thần lo lắng. ‘Tam đại mạt chủ nãi hữu bế nữ’*, là Lâm Lang liên luỵ đến thánh đức của Vạn Tuế Gia.”

Hoàng đế ừ một tiếng rồi bảo: “Là Trẫm muốn đưa nàng đi, không trách nàng. Vừa nãy Sách Ngạch Đồ có dẫn sách sử, giờ lại đến lượt nàng… ‘Tam đại mạt chủ nãi hữu bế nữ, kim dục đồng đắc vô cận tự chi hồ?’* Vương thái hậu nói: ‘Cổ có Phàn Cơ, nay có Ban Tiệp Dư’**, Trẫm lại thêm một câu: Hiện giờ có Vệ thị Lâm Lang.” Nụ cười của nàng hiện lên trong giây lát, nàng nói: “Vạn Tuế Gia cần đến chính là phúc của Lâm Lang, Lâm Lang đâu thể so sánh với các vị hiền phi nọ, huống hồ Thành đế kia sao sánh được một phần vạn của Vạn Tuế Gia.”

* Trích trong “Hán thư · Ngoại thích truyện hạ · Hiếu thành ban tiệp dư”:
“Thánh hiền chi quân giai hữu danh thần tại trắc,
Tam đại mạt chủ nãi hữu bế nữ.
Kim dục đồng liễn, đắc vô cận tự chi hồ?” 
Các vị thánh hiền đều có các đại thần sáng suốt và người tài đức ở bên người.
Tam đại là chỉ ba triều đại Hạ Thương Chu, ba triều đại này đều có hôn quân, bên cạnh lại có thê thiếp phi tần nhiều vô kể.

** Ban Tiệp Dư: Thành đế thời Hán vô cùng sủng ái Ban Tiệp Dư. Thời đó, Hoàng đế hay ngồi trong một kiểu xe vô cùng hoa lệ, có hai người kéo. Còn các phi tần hậu cung thì chỉ có một người kéo. Vì yêu thích Ban Tiệp Dư nên Hoàng đế hạ lệnh chế tạo một kiểu xe đặc biệt, hai người có thể cùng ngồi. Thế nhưng Ban Tiệp Dư lại từ chối, nàng nói: “Trong những bức hoạ lưu lại từ thời cổ, minh quân đều được vây quanh bởi danh thần; Ba hôn quân thời Hạ, Thương, Chu – Hạ Kiệt, Thương Trụ, Chu U Vương lại ngồi giữa vô vàn phi tần mỹ nữ, cuối cùng dẫn đến hoạ mất nước, diệt vong. Nếu như thiếp cùng Hoàng thượng cùng ngồi một chiếc xe, vậy đâu khác gì ba vị kia?” Hoàng đế nghe nàng nói cũng có lý, liền bỏ luôn dự định xe đôi. Vương thái hậu nghe được, càng thêm yêu thích vị con dâu này, vui mừng nói: ‘Cổ có Phàn Cơ, nay có Ban Tiệp Dư.’

Phàn Cơ là phi tần của Sở Trang Vương. Lúc Sở Trang Vương mới lên ngôi, cực kì thích săn thú mà không quan tâm việc triều chính. Phàn Cơ khuyên bảo không được, nàng liền không ăn thịt động vật. Cuối cùng Sở Trang Vương cũng cảm động mà hối cải, ít đi săn hơn mà chuyên tâm vào triều chính.

Hoàng đế không khỏi cười nói: “Tuy là nịnh nọt nhưng thật khiến người ta thấy thoải mái. Trẫm cảm thấy rất kì lạ, cuối cùng thì nàng hiểu biết đến bao nhiêu, đến kinh, sử, tử, tập nàng cũng từng đọc qua. Từ trước lúc khi quân phạm thượng, Trẫm cứ tưởng nàng không biết chữ.”

Mặt nàng hơi ửng hồng, cúi mặt đáp: “Không dám giấu Vạn Tuế Gia. Nữ tử vô tài vô đức. Thái Tông hoàng đế từng dạy, cung nữ không được biết chữ.” Hoàng đế im lặng một lúc, rồi khẽ thở dài: “Các vị chủ nhân của lục cung cũng có nhiều người không biết chữ. Có lần trở về, muốn nói cười vài câu, các nàng ấy cũng không hiểu được.”


Lâm Lang thấy ánh mắt dịu dàng của hắn, đôi mắt trong trẻo, dường như có thể thấy được chính nàng trong đó, như có thể nhìn thấu đến tâm can. Lòng nàng rối như tơ vò, như có ngàn vạn nút thắt. Nàng không dám nhìn thẳng vào hắn, quay mặt đi mà tim đập thình thịch. Hoàng đế nắm tay nàng, dần dần nắm chặt hơn, khoảng cách giữa hai người ngày càng gần. Mùi hương Long Tiên phả ra từ ống tay áo của hắn khiến nàng hơi mê muội, gần như không thở được. Khoảng cách gần như không còn, ngẩng mặt lên thấy khuôn mặt thanh tú của hắn, giữa ánh mắt xuất hiện một chút phức tạp rắc rối. Nàng không hiểu, cũng không muốn suy diễn.


Vì dựa vào hắn nên giọng hắn cứ như phát ra từ trong lồng ngực: “Lần đầu tiên gặp nàng, nàng đang đứng hát ở trong làn nước. Đêm đó, ánh trăng đẹp như vậy, chiếu lên cả rừng lau sậy chung quanh… đẹp như trong mộng. Ngày Trẫm còn nhỏ, ma ma cũng hát Du xa ca ru Trẫm ngủ, cứ hát mãi tới khi Trẫm ngủ say, vì vậy mới cho rằng mình đang ở trong mơ.”

Nàng không nói nên lời, khoé môi hơi run rẩy, Hắn lại ôm nàng chặt hơn: “Mấy ngày nay Trẫm cứ luôn muốn, giá như nàng sinh cho Trẫm một đứa con, mỗi ngày hát Du ca xa ru nó ngủ thì nó nhất định sẽ là đứa bé may mắn nhất trên đời.”


Trong lòng nàng tâm tư cuồn cuộn quay cuồng, nghe hắn thủ thỉ bên tai, nước mắt nàng đã sắp trào ra. Đem mặt áp vào ngực áo của hắn. Trên áo có thêu hoa văn rồng vàng, nhìn qua lớp sương mù trong mắt chỉ thấy một cái đầu rồng dữ tợn, một đôi con ngươi đen tuyền, tất cả đều hoà lẫn vào giọt lệ trong mắt nàng. Nàng chỉ nghe thấy tiếng tim hắn đập, ổn định từng nhịp. Nhất thời có hàng ngàn lời muốn nói, trong lòng không biết là vui hay là buồn, là khổ đau hay là hạnh phúc, là chán nản hay là hận, là kinh sợ hay là đau đớn. Nơi sâu nhất trong tim nàng lại dấy lên sự đau xót vô tận. Ruột như thắt lại, suy nghĩ rối rắm, hận không thể biến thành bột mịn để khỏi phải chịu sự dày vò như ngày hôm nay.


Hoàng đế cũng không nói gì, chỉ ôm nàng thật lâu, khuôn mặt áp lên tóc nàng. Sau một hồi mới nói: “Hôm đó nàng vẫn chưa hát xong, hôm nay hát lại một lần từ đầu đi.”

Nàng nghẹn ngào, khó nói nên lời. Cố gắng điều hoà hơi thở, dần dần, hương Long Tiên trên người Hoàng đế, mùi hương đặc biệt của lông chồn tía, rồi cả trăm loại hương toả ra từ chiếc lò hương phía sau, tất cả trộn lẫn, nàng dần cảm nhận được hết. Móng tay ghim chặt vào lòng bàn tay, đau lâm râm. Nàng buông lỏng tay, lại qua một lúc lâu mới nhẹ nhàng mở miệng hát:

“Du du trát, ba bố trát, sói đến rồi, hổ đến rồi, sắp nhảy tường tới rồi.
Du du trát, ba bố trát, tiểu a ca, mau ngủ thôi, a mã xuất mã chinh phạt rồi…
Đại hoa linh tử, nhị hoa linh tử, tránh hạ công lao thị nhĩ gia lưỡng đích.
Tiểu a ca, mau ngủ thôi, tránh hạ công lao thị nhĩ gia lưỡng đích.
Du du trát, ba bố trát, đêm khuya rồi, đêm khuya rồi, xuân ấm cỏ nồng rồi
Du du trát, ba bố trát, tiểu a ca, mau ngủ thôi…
Du du trát, ba bố trát, tiểu a ca, mau ngủ thôi…”

Giọng nàng ngân nga trong trẻo, bay quanh điện. Gió bắc rít ngoài cửa sổ, bông tuyết rơi lả tả như đang múa. Tuyết rơi càng ngày càng nhanh, như một chiếc mành bằng tuyết khổng lồ đang muốn bao phủ cả đất trời trong nó.

(Du du trát, ba bố trát: chỉ là từ tượng thanh, có thể hiều như “À ơi ơi à…”)

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/91746


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận