Trên Biển Khơi Dưới Đá Thẳm Chương 6


Chương 6
Bọn mình phải đi tìm ông Gumerry thôi. Simon sẽ cần được giúp đỡ đấy.

Đi nào," Ông Merry vừa nói vừa sải bước xuống dưới đồi về phía bến cảng. "Buổi chiều hôm nay mà đi bộ sẽ rất tuyệt đây. Thế bây giờ các cháu thích đi đâu nào?"

"Đến nơi nào thật vắng vẻ ấy ạ."

"Đến nơi nào cách đây hàng dặm ấy ạ."

"Đến nơi nào mà chúng ta có thể nói chuyện riêng được ấy ạ."

Ông Merry nhìn xuống bọn trẻ, từ khuôn mặt căng thẳng này sang khuôn mặt căng thẳng khác. Nhưng vẻ mặt bình thản dửng dưng của ông vẫn không thay đổi và ông chỉ trả lời ngắn gọn, "Được thôi," rồi sải bước dài hơn đến nỗi bọn trẻ phải chạy mới theo kịp. Ông không hỏi gì, mà chỉ im lặng bước đi. Mấy ông cháu leo qua con phố nhỏ ngoằn ngoèo bên cạnh bến cảng đối diện với Đỉnh Kemare và Ngôi nhà Xám, men theo con đường dọc mỏm đá nhô ra biển, qua những căn nhà cuối làng nằm rải rác, cho đến khi một dải xanh tím hùng vĩ của mũi đất đối diện hiện ra trước mắt họ.

Bốn ông cháu ì ạch leo lên dốc, vượt qua những bụi cây thạch nam và cây kim tước đầy gai, qua những tảng đá xám gồ ghề, loang lổ những mảng vàng của đám địa y đang nằm phơi trong nắng gió. Khi ở dưới bến cảng thì chẳng có lấy một hơi gió nào, nhưng ở đây gió thổi lồng lộng bên tai họ.

"Ôi trời ơi," Barney dừng lại, quay ra phía ngoài, nhìn xuống và reo lên: "Xem kìa!" Mọi người quay đầu nhìn theo hướng nó chỉ và thấy bến cảng xa tít ở phía dưới còn Ngôi nhà Xám thì nhỏ xíu trên con đường mảnh như một sợi chỉ tơ. Mấy ông cháu đã đứng cao hơn cả mũi đất nơi họ ở, vậy mà sườn dốc đá lởm chởm phía trên vẫn tiếp tục vươn đến tận trời xanh.

Họ quay đi và tiếp tục trèo lên dốc, cuối cùng thì cũng lên được đỉnh cao nhất của mũi đất, phía dưới, mép sóng trải dài tựa như một tấm bản đồ sống động ở hai bên, và phía sau đó là mặt biển xanh mênh mông. Có một tảng đá granite nằm nghiêng nhưng nhô cao hơn tất cả những tảng đá khác trên đường họ trèo lên, và Ông Merry ngồi dựa lưng xuống đó, đôi chân co lên vừa dài vừa khẳng khiu dưới lớp quần nhung kẻ màu nâu bay lật phật. Bọn trẻ đứng xúm lại, nhìn xuống. Dải đất trước mắt chúng trông lạ hoắc; một thế giới tĩnh mịch và huyền bí với những đỉnh đồi nhỏ và những thung lũng vô hình, màu sắc của chúng hòa quyện vào nhau trong hơi nóng mờ ảo của mùa hè.

"Hic incipit regnum Logri..." Ông Merry nói, mắt nhìn ra xa cùng ba đứa trẻ, cứ như ông đang đọc những dòng chữ khắc ở đâu đó vậy.

"Thế có nghĩa là gì hả ông?"

"Nơi đây bắt đầu Vương Quốc Lorges... Nào, ba cháu, lại đây và ngồi xuống."

Chúng quây quần ngồi xuống cạnh ông, thành một vòng bán nguyệt phía trước tảng đá lớn. Ông Merry ngắm bọn trẻ tựa như một vị vua ngự trên ngai vàng. "Nào," ông nhẹ nhàng hỏi, "ai sẽ là người nói cho ông nghe đang có chuyện gì?"

Trong bầu không khí yên tĩnh chỉ có tiếng gió thổi vi vu, Jane và Barney cùng nhìn về phía Simon. "Dạ, đó là về bọn trộm ạ," nó ngập ngừng nói. "Chúng cháu sợ là..." và thế rồi cả ba đứa bắt đầu tranh nhau kể với ông.

"Tối hôm nọ khi cô Withers đến chơi cô ấy cứ hỏi bọn cháu về Ngôi nhà Xám, và liệu rằng bọn cháu có tìm thấy cái gì không."

"Trên thuyền chú Withers cũng vậy, chú ấy cứ hỏi cháu về những quyển sách cổ."

"Đêm qua ấy, dù là ai đi chăng nữa thì rõ ràng bọn chúng chỉ lục lọi đống sách và những tấm bản đồ cổ thôi..."

"... chúng đang tìm kiếm tấm bản đồ đấy, chắc bọn chúng đã..."

"... chỉ vì bọn chúng không biết phải tìm ở đâu thôi, và chúng không biết rằng chúng cháu đang giữ nó rồi."

"Giả sử lũ ấy mà biết bọn cháu có nó thì chúng sẽ bám theo bọn cháu liền..."

Ông Merry giơ một cánh tay lên, nhưng cả người ông vẫn bất động. Cằm ông nghếch lên. Trông ông có vẻ như đang chờ đợi một điều gì đó. "Từ từ đã nào," ông nói. "Nếu đúng các cháu đã tìm thấy thứ gì đó trong Ngôi nhà Xám thì nó là cái gì vậy?"

Simon sờ soạng bên trong balô. Nó lấy hộp kính viễn vọng ra và đưa cuộn giấy cho Ông Merry. "Chúng cháu tìm thấy cái này."

Không nói một lời, Ông Merry cầm lấy cuộn giấy và từ từ trải ra trên đầu gối. Ông yên lặng săm soi tấm da một lúc lâu, và bọn trẻ có thể thấy mắt ông đang di chuyển theo những con chữ.

Cơn gió trên mũi đất khe khẽ rên rỉ quanh mấy ông cháu, và mặc dù lúc bọn trẻ quan sát thì vẻ mặt Ông Merry chẳng mảy may thay đổi, bỗng nhiên chúng hiểu ra rằng một cảm xúc mãnh liệt nào đấy đang trào lên trong lòng ông. Như một luồng điện, nó phóng qua không khí, vừa phấn khích vừa đáng sợ; mặc dù chúng không thể hiểu được đó là cảm xúc gì. Cuối cùng rồi ông cũng ngẩng đầu lên, phóng tầm mắt bao quát những ngọn đồi vùng Cornwall trải dài ở đằng xa; và ông thở phào một hơi thật dài như đã giũ sạch được mọi muộn phiền của cả nhân gian.

"Các cháu tìm thấy nó ở đâu vậy?" ông hỏi, và bọn trẻ giật mình trước giọng nói nhẹ nhàng quen thuộc, như thể giọng nói ấy đã kéo chúng ra khỏi một thứ bùa mê.

"Trên gác xép ạ."

"Có một cái gác xép rộng lắm, đầy bụi bặm và lỉnh kỉnh đồ đạc, chúng cháu đã tìm thấy cánh cửa đằng sau tủ quần áo trong phòng, và có một thang gác để đi lên đó."

"Cháu tìm thấy nó đấy ạ," Barney lanh chanh. "Cháu vứt cái lõi táo đi, nhưng lại phải tìm nhặt lên vì sợ đám chuột bò ra, và cháu đã ngẫu nhiên tìm thấy bản viết cổ này trong một hốc nhỏ bên dưới sàn nhà."

"Nó là cái gì, hả ông Gumerry?"

"Nó viết gì ạ?"

"Nó rất rất cổ phải không ông?"

"Nó có quan trọng không ạ? Có phải nó viết về kho báu bí mật không ạ?"

"Cũng gần như vậy," Ông Merry trả lời. Đôi mắt ông như mờ đi, không tập trung vào một điểm nào nhất định, nhưng khóe miệng ông giật giật. Không hiểu sao, dù không cười, trông ông vẫn vui sướng hơn bao giờ hết. Jane nhìn ông ngẫm nghĩ: bình thường khuôn mặt ông lúc nào cũng buồn bã, thế nên bây giờ trông ông mới khác đến thế.

Ông đặt tấm bản đồ cổ vào lòng, nhìn đi nhìn lại từ Jane sang Simon rồi đến Barney. Dường như ông đang tìm từ để giải thích cho bọn chúng.

"Các cháu đã tìm thấy một thứ có lẽ còn quan trọng hơn các cháu tưởng rất nhiều," cuối cùng ông cũng nói.

Chúng chăm chú nhìn ông. Ông Merry lại đưa mắt về phía những quả đồi.

"Các cháu có nhớ những câu chuyện cổ tích mà các cháu đã được nghe kể khi còn nhỏ không - 'ngày xửa ngày xưa...' Các cháu có biết tại sao các câu chuyện luôn được bắt đầu như thế không?"

"Bởi vì những câu chuyện đó không có thật," Simon nhanh nhảu trả lời.

Bị lôi cuốn bởi sự huyền hoặc của mũi đất cao hẻo lánh ấy, Jane nói, "Có lẽ do chúng đã từng là chuyện thật, nhưng không còn ai nhớ rõ là khi nào nữa."

Ông Merry quay về phía Jane, mỉm cười. "Đúng rồi đấy. Ngày xửa ngày xưa... cách đây đã lâu lắm rồi... những điều đó có thể đã xảy ra, nhưng được kể đi kể lại nhiều quá đến nỗi không còn ai biết chính xác nữa. Và ẩn sâu đằng sau những gì mọi người thêm thắt vào, những thanh kiếm thần hay những cây đèn thần, tất cả đều nói lên một điều - người anh hùng thiện chống lại tên khổng lồ, mụ phù thủy hay là ông bác xấu xa. Cái thiện chống lại cái ác. Thiên thần chống lại quỷ dữ."

"Như truyện Cô bé Lọ lem ông nhỉ."

"Như truyện Aladdin."

"Truyện Jack Người tiêu diệt Gã khổng lồ."

"Và tất cả những truyện khác nữa." Ông lại nhìn xuống, những ngón tay vuốt vuốt cái mép cong lên của tấm giấy da. "Các cháu có biết bản viết cổ này nói về cái gì không?"

"Về vua Arthur ạ," Barney trả lời ngay. "Và vua Mark nữa. Anh Simon đã đọc được những tên đó, bằng tiếng Latinh."

"Thế các cháu biết gì về vua Arthur nào?"

Barney khoái chí nhìn các khán giả bất đắc dĩ của mình, hít một hơi thật dài để chuẩn bị tuôn ra hàng tràng, nhưng không hiểu sao tự nhiên nó lại lắp bắp: "À, ờ... ngài là vua nước Anh, ngài có rất nhiều hiệp sĩ phụng sự cho ngài trong Hội Bàn Tròn, ví dụ như Lancelot, Galahad, Kay và các hiệp sĩ khác nữa. Họ tham gia vào những trận đấu thương trên ngựa và cứu sống nhiều người từ tay những hiệp sĩ xấu xa. Và vua Arthur đã chiến thắng trong tất cả các trận đấu với thanh kiếm Excalibur của mình. Cháu nghĩ đó chính là cuộc chiến của cái thiện chống lại cái ác, như trong các câu chuyện cổ tích ông vừa nói đấy ạ. Chỉ có điều nhà vua là có thật thôi."

Nụ cười lặng lẽ đầy vẻ hài lòng của Ông Merry lại một lần nữa hiện lên. "Và Arthur làm vua nước Anh khi nào?"

"Dạ..." Barney lơ đãng phẩy phẩy bàn tay. "Cách đây đã lâu lắm rồi..."

"... giống như trong truyện cổ tích ấy," Jane nói nốt hộ nó. "Chị hiểu rồi. Nhưng ông Gumerry ơi, ông đang định nói gì với bọn cháu ạ? Có phải vua Arthur cũng chỉ là truyền thuyết thôi không ạ?"

"Không phải!" Barney tức tối phản bác.

"Đúng rồi đấy," Ông Merry nói. "Vua Arthur là người có thật. Nhưng chuyện tương tự lại xảy ra, các cháu thấy không - nhà vua đã sống cách đây quá xa đến nỗi giờ chẳng còn chứng cứ gì về sự tồn tại của ngài nữa. Và vì vậy nhà vua chỉ còn là một câu chuyện, một huyền thoại mà thôi."

Simon mân mê nghịch quai balô. "Nhưng cháu vẫn chưa hiểu bản viết cổ này thì có dính dáng gì chứ."

Những cơn gió từ mũi đất thổi tung mái tóc bạc của Ông Merry đang in hình trên nền trời, và khi ông nhìn xuống, trông ông đầy vẻ nghiêm trang và uy nghi.

"Hãy kiên nhẫn một chút. Và lắng nghe cho kỹ đây, vì có thể các cháu sẽ thấy câu chuyện này khá là khó hiểu đấy.

"Trước tiên, các cháu đã nghe ông kể về Logres rồi phải không. Đó là một cái tên cổ của vùng đất này, cách đây hàng nghìn năm; trong những ngày đó, cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác diễn ra quyết liệt và công khai hơn bây giờ nhiều. Cuộc chiến ấy luôn diễn ra ở quanh chúng ta, giống như hai đội quân đang chiến đấu trên chiến trường vậy. Có lúc dường như bên này giành lợi thế, có lúc lại là bên kia, nhưng nói chung chẳng có bên nào giành thắng lợi tuyệt đối. Và sẽ chẳng bao giờ có chiến thắng," ông hạ giọng như nói với chính mình, "vì trong mỗi con người chúng ta đều có cả cái thiện và cái ác.

"Đôi khi, qua nhiều thế kỷ, cuộc chiến nghìn đời này đi đến hồi gay cấn. Cái ác trở nên lớn mạnh và gần như chiến thắng. Nhưng cùng lúc trên thế giới luôn xuất hiện một người chỉ huy, một con người vĩ đại, đôi khi còn hơn cả một con người, dẫn dắt cái thiện giành giật lại đất đai và những con người tưởng như đã mất."

"Đó là vua Arthur," Barney chen vào.

"Vua Arthur là một trong những người đó," Ông Merry nói. "Ngài đã chiến đấu chống lại những kẻ muốn chiếm lấy Lorges, những kẻ đã cướp bóc, tàn sát và phá vỡ mọi quy luật của cuộc chiến. Ngài là một người nhân từ và mạnh mẽ, ngày đó ai ai cũng tin tưởng ngài tuyệt đối. Với niềm tin vững chắc ấy hậu thuẫn, quyền lực vua Arthur lớn vô cùng - đến nỗi trong những câu chuyện về sau, người ta đồn rằng ngài được phép thần giúp sức. Nhưng phép thần chỉ là một cách nói mà thôi."

"Cháu đoán là ngài đã không chiến thắng," Jane nói, cả quyết một cách bất ngờ, "không thì từ bấy đến nay đã chẳng xảy ra chiến tranh nữa rồi."

"Đúng, ngài đã không chiến thắng," giọng Ông Merry nghe như xa dần, và ngay cả trong ánh nắng chiều rực rỡ, theo mỗi lời thốt ra ông lại càng trở nên tách biệt hơn, cổ xưa hơn tựa như tảng đá sau lưng ông, tựa như thế giới xa lắc mà ông đang nói đến vậy.

"Nhà vua không bị đánh bại hoàn toàn nhưng ngài cũng không thắng lợi hoàn toàn. Chính vì thế cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác vẫn không ngừng tiếp diễn kể từ ngày đó. Nhưng cái thiện đã trở nên lúng túng, và từ thời xứ Logres cổ đại, cái thiện cố gắng khôi phục sức mạnh do vua Arthur truyền lại. Nhưng chưa bao giờ làm được. Quá nhiều thứ đã bị lãng quên.

"Nhưng những người còn nhớ đến thế giới xa xưa vẫn tiếp tục săn lùng cái bí mật ấy từ bấy đến giờ. Và còn có một thế lực khác cũng đi săn lùng - đó là kẻ địch, những kẻ độc ác với trái tim giá lạnh đầy lòng tham, giống như những kẻ mà vua Arthur đã chiến đấu chống lại."

Ông Merry nhìn ra xa xăm, mái đầu ông tạc lên bầu trời như đầu một pho tượng đầy kiêu hãnh, cổ kính hàng nghìn năm, nhưng vẫn không hề khác trước. "Ông cũng không ngừng săn lùng," ông nói. "Từ rất, rất nhiều năm rồi."

Đám trẻ trố mắt nhìn ông, với lòng kính trọng pha chút sợ hãi. Trong giây lát ông trở nên lạ lẫm, một người mà chúng chưa từng quen biết. Trong lòng Jane bỗng dấy lên một cảm giác kỳ lạ như Ông Merry không hề tồn tại và sẽ biến mất nếu chúng thở mạnh hay cất tiếng.

Ông lại cúi xuống nhìn đám trẻ. "Ông vừa mới biết được rằng khu vực này của Cornwall có thứ mà ông đã cố công tìm kiếm," ông nói tiếp. "Ông chỉ không biết rằng chính mấy đứa trẻ các cháu lại là người phát hiện ra nó. Và ông cũng không biết các cháu đang tự đặt mình vào hoàn cảnh nguy hiểm gì đây."

"Nguy hiểm ạ?" Simon nghi ngờ.

"Vô cùng nguy hiểm," Ông Merry đáp, nhìn thẳng vào nó. Simon nuốt nước bọt một cách khó khăn. "Tấm bản đồ cổ này, Simon ạ, đã đẩy tất cả các cháu vào giữa trận chiến. Ồ, sẽ không có ai thọc dao vào lưng các cháu đâu - mưu mô của chúng xảo quyệt hơn thế nhiều. Và cũng nhiều khả năng thành công hơn." Ông lại ngó xuống tấm bản đồ cổ lần nữa. "Đây," ông nói, giọng bình thản hơn, "chỉ là một bản sao."

"Một bản sao ạ?" Barney thắc mắc. "Trông nó cũ kỹ thế cơ mà."

"Ừ, đúng thế, đúng là nó rất cổ. Nó đã có cách đây chừng sáu trăm năm. Nhưng nó chỉ là một bản sao từ một cái gì đó thậm chí còn cổ hơn nhiều - được viết cách đây hơn chín trăm năm rồi. Đoạn đầu tiên được viết bằng tiếng Latinh."

"Thấy chưa, em đã bảo mà," Jane nói vẻ tự đắc.

Simon trề môi. "Ừ, thì anh cũng đã dịch được một ít, đúng không nào? Mặc dù không được nhiều lắm," Nó thú nhận với Ông Merry. "Cháu không sao nhận ra từ nào với từ nào cả."

"Ông không nghĩ cháu có thể đọc được. Đây là tiếng Latinh thời Trung cổ, không giống như tiếng Latinh mà các cháu học ở trường... nó do một thầy tu viết ra, người này chắc chắn đã từng sống quanh đây, và ông nghĩ chắc khoảng sáu trăm năm trước, mặc dù không thấy có ngày tháng gì. Đại khái ông ấy viết rằng người ta đã tìm thấy một bản viết cổ của người Anh ở gần tu viện của ông. Ông ta nói bản viết đó kể về một truyền thuyết cổ xưa thời vua Mark và vua Arthur, và rằng ông ta đã sao chép lại câu chuyện để phòng khi bị mất vì bản viết gốc sắp nát ra từng mảnh. Ông ta nói ông ta cũng chép lại một bản đồ đi kèm theo bản viết đó. Tất cả phần còn lại dưới đây là câu chuyện mà ông ta đã chép lại - và các cháu có thể nhìn thấy cả bản đồ ở ngay phía dưới."

"Nếu bản viết gốc quá cũ đến nỗi suýt rách nát ra từ cách đây sáu trăm năm thì...." Barney sửng sốt nói.

Simon hấp tấp cắt ngang. "Ông Gumerry à, ông có hiểu bản chép lại này không? Đó không phải là tiếng Latinh phải không ông?"

"Ừ, không phải đâu," Ông Merry trả lời. "Đó là một thứ tiếng địa phương trong hệ thống tiếng Anh sơ kỳ(1), loại ngôn ngữ cổ được dùng cách đây nhiều thế kỷ. Nhưng bản viết này dùng loại rất cổ, nhiều từ là tiếng Cornwall cổ, thậm chí có cả một số từ tiếng Brittany nữa. Ông không biết - nhưng ông sẽ cố gắng hết sức để đọc. Có thể ông sẽ dịch nó ra thành một thứ tiếng Anh nghe rất lủng củng, cũng có thể ông sẽ đành chịu..."

Ông chăm chú xem lại bản viết cổ một lần nữa. Rồi ông bắt đầu đọc bằng một giọng trầm lắng, xa xăm, thỉnh thoảng lại bị vấp, lúc lúc lại phải dừng lại giơ ra phía ánh sáng để nhìn cho rõ, hay suy nghĩ dò dẫm từng từ. Bọn trẻ ngồi chăm chú lắng nghe, mặc cho cái nóng của nắng hắt lên mặt và những cơn gió vẫn xào xạc bên tai.

 

"Tôi viết điều này, để khi thời khắc điểm, người được lựa chọn sẽ tìm ra nó. Và tôi để nó lại trong sự che chở của mảnh đất cổ xưa này, mảnh đất có lẽ sẽ sớm không còn dấu vết.

"Ở địa hạt Cornwall, vương quốc của vua Mark, vào thời kỳ xa xưa của ông cha tôi, có một hiệp sĩ kỳ lạ trốn chạy về phía Tây. Hồi đó rất nhiều người phải lẩn trốn về phía Tây, khi vương triều cũ rơi vào tay quân xâm lược và vua Arthur thất bại trong trận chiến cuối cùng. Bởi chỉ có ở miền đất phía Tây này con người vẫn tôn thờ Chúa và lưu giữ những giá trị cổ xưa.

"Vị hiệp sĩ kỳ lạ đã đến vùng của tổ tiên tôi ấy tên là Bedwin, ông mang theo mình niềm hy vọng cuối cùng của thành Logres, một cái chén được làm theo khuôn mẫu của chén Thánh(1) linh thiêng, trên đó ghi lại tất cả những câu chuyện có thật về vua Arthur, những câu chuyện sẽ nhanh chóng bị lãng quên trong tâm trí người đời. Mỗi một mặt chén kể về một thế lực xấu mà vua Arthur đã chiến thắng với sức mạnh Chúa ban cho, cho đến khi thế lực xấu thắng thế. Và mặt cuối cùng là lời nguyện và minh chứng về sự quay trở lại của vua Arthur.

"Ông xem đây, hiệp sĩ Bedwin đã nói với ông cha tôi, bây giờ những thế lực đen tối đang lấn át chúng ta, và chúng sẽ còn tiếp tục như thế lâu dài quá sức tưởng tượng của chúng ta. Dù vậy, một khi cái chén này, vốn là niềm hy vọng cuối cùng của thế giới xa xưa, không bị mất đi, thì đến thời điểm chín muồi, Pendragon sẽ quay trở lại. Cuối cùng, tất cả sẽ được bình an, thế lực đen tối sẽ bị đánh đuổi và không bao giờ trở lại được nữa.

"Và vì thế niềm hy vọng này phải được giữ gìn, ông nói, ta trao nó cho ông, cho con trai của ông, và con trai của con trai ông, cho tới khi ngày đó đến. Bởi vì ta đã bị thương cận kề cái chết sau trận chiến cuối cùng, nên không còn có thể làm gì hơn được nữa.

"Và chẳng bao lâu sau ông qua đời, và người ta chôn ông trên biển khơi, dưới đá thẳm. Ở đó ông đã yên nghỉ cho tới ngày thiêng liêng ấy.

"Và từ đó chiếc chén Thánh đã được giao cho tổ tiên tôi giữ gìn, họ đã canh giữ nó ở tại vùng đất Cornwall, nơi mà con người vẫn tranh đấu để giữ gìn những giá trị truyền thống, trong khi ở phía Đông, thế lực đen tối ngày càng trở nên đông đảo và vùng đất Logres ngày càng u ám. Vua Arthur đã ra đi, vua Mark đã băng hà và những vị vua mới không được như các bậc tiền bối. Năm tháng cứ qua đi, nhiệm vụ gìn giữ chén Thánh đã được truyền từ trưởng tộc này sang trưởng tộc khác và cuối cùng đến lượt tôi.

"Và từ khi cha tôi mất, tôi đã giữ nó sao cho an toàn nhất mà tôi có thể, trong bí mật và với đức tin; nhưng giờ tôi đã già, lại không có người nối dõi, trong khi những thế lực đen tối nhất đã tràn đến mảnh đất của chúng ta. Những kẻ ngoại đạo xấu xa, những kẻ đã từng đến xâm lấn vùng đất phía Đông ngày trước, tàn sát người Anh và chiếm đất đai của họ, nay đang tiến về phía Tây, và chúng ta sẽ chẳng còn sống yên bình được lâu nữa.

"Thế lực đen tối tràn về Cornwall, những con tàu lớn trườn tới bờ biển của chúng ta, và trận chiến đang đến gần, trận chiến sẽ dẫn tới thảm bại cuối cùng và chấm hết cho tất cả những gì chúng ta đã từng biết. Chẳng còn một người nào để nhận sứ mệnh giữ gìn chén Thánh nữa, bởi vì đứa con trai của em tôi mà tôi hằng yêu như con đẻ đã đi theo phe những kẻ ngoại đạo, rồi dẫn chúng về phía Tây này. Để tự cứu lấy chính mình và bí mật về chén Thánh mà chỉ những người có sứ mệnh giữ gìn nó mới được biết, tôi đã phải chạy trốn giống như vị hiệp sĩ kỳ lạ Bedwin năm xưa. Nhưng trên khắp vùng đất Logres này không còn nơi trú ẩn nào nữa, vì vậy tôi phải vượt biển tới nơi mà người ta thường nói người Cornwall luôn tìm đến mỗi khi bị đe dọa.

"Nhưng chén Thánh không thể rời xa mảnh đất này, mà phải đợi Pendragon, cho đến ngày thiêng liêng ấy.”

"Vì thế tôi phó thác nó cho mảnh đất này, trên biển khơi và dưới đá thẳm; và tôi sẽ lưu lại đây những dấu hiệu để người được lựa chọn, khi đến nơi thích hợp, có thể biết được nó nằm ở đâu: những dấu hiệu khi ẩn khi hiện nhưng không bao giờ mất. Điều bí mật về sứ mạng ấy tôi không thể viết ra mà sẽ mang theo xuống mồ. Dù vậy người tìm thấy chiếc chén Thánh này và có được những lời nhắn nhủ khác của tôi, nhờ thế, sẽ tự mình biết được bí mật ấy. Và đối với người đó sẽ là sứ mệnh, lời nguyện và bằng chứng, rằng vào thời của người ấy Pendragon sẽ quay trở lại. Ngày ấy sẽ chứng kiến một vùng đất Logres mới, không còn bóng dáng của thế lực đen tối; khi thế giới xa xưa sẽ chỉ còn lại như một giấc mơ."

 

Ông Merry ngừng đọc; nhưng bọn trẻ vẫn ngồi im phăng phắc không nói một lời, như thể tiếng ông vẫn đang vang lên. Câu chuyện hợp với dải đất xanh trải dài dưới chân chúng đến nỗi chúng tưởng như đang sống trong thời xa xưa ấy. Chúng như nhìn thấy, từ dưới sườn dốc, vị hiệp sĩ kỳ lạ Bedwin cưỡi ngựa tiến về phía chúng, và ngoài khơi, những con tàu lớn của bọn xâm lược đang lẩn lút phía bên kia mũi đá granite xám xịt với những diềm sóng trắng xóa.

Cuối cùng Simon lên tiếng: "Pendragon(1) là ai?"

"Là vua Arthur," Barney nói.

Jane không nói gì, ngồi trầm tư suy nghĩ về người Cornwall bất hạnh đã phải vượt biển khơi rời bỏ mảnh đất đang bị đe dọa của ông ta. Em nhìn Ông Merry. Ông đang nhìn vô định xuống biển và mũi đất phía bên kia Trewissick, những nếp nhăn căng thẳng trên khuôn mặt ông giờ giãn ra thư thái và đăm chiêu. "... khi thế giới xa xưa," ông lẩm bẩm khe khẽ như nói với chính mình, "... sẽ chỉ còn lại như một giấc mơ..."

Simon dịch lại gần, nép mình bên cạnh ông, chăm chú nhìn vào bản viết cổ đang đặt trên đầu gối ông. "Nếu vậy thì bản đồ này chắc chắn sẽ chỉ đường đến chỗ giấu chén Thánh. Thử tưởng tượng xem, giả sử chúng ta tìm được nó! Thế thì nghĩa là sao nhỉ?"

"Là rất nhiều ý nghĩa," Ông Merry nghiêm nghị trả lời. "Nhưng có lẽ không tốt đẹp hết đâu."

"Không biết trông nó thế nào? Chén Thánh là gì ạ?"

"Một đồ dùng đựng nước uống. Một cái cốc đựng rượu lễ. Một loại chén. Nhưng không giống một cái chén thường đâu." Ông Merry nghiêm mặt nhìn bọn trẻ. "Giờ hãy nghe ông nói đây. Tấm bản đồ các cháu đã tìm thấy đây sẽ chỉ cho chúng ta một dấu hiệu mà bao người đã và đang tìm kiếm nhiều thế kỷ nay. Ông đã nói rằng ông cũng đang đi tìm kiếm nó. Nhưng hẳn các cháu còn nhớ ông đã nói là có những kẻ khác cũng đang tìm kiếm nó - đó là phe địch, tạm gọi thế cũng được. Những kẻ này rất xấu xa và chúng có thể rất, rất nguy hiểm." Ông Merry nói với vẻ vô cùng nghiêm nghị, người cúi về phía trước, và bọn trẻ lo lắng nhìn lại ông.

"Chúng đã ở rất gần ông trong suốt quãng thời gian dài vừa qua," ông nói. "Và ngay tại đây, ở Trewissick, chúng cũng đã mò tới gần các cháu. Một người trong bọn chúng chính là Norman Withers. Kẻ nữa là cô gái tự xưng là em gái của gã. Có thể còn có nhiều tên khác nữa, nhưng ông chưa biết."

"Còn vụ trộm nữa ạ." Bọn trẻ nhìn ông chăm chăm và Jane đoán, "Có phải là bọn chúng không ạ?"

"Chắc chắn rồi," Ông Merry nói. "Có thể không phải chính chúng làm. Nhưng chắc chắn là chúng đứng đằng sau tất cả mọi việc - giá sách bị lục soát, bản đồ bị đánh cắp, cố gắng tìm kiếm những chỗ cất giấu bí mật dưới nền nhà. Chúng đã rất gần rồi, các cháu hiểu không, thậm chí còn gần hơn cả ông nữa. Khi thuê Ngôi nhà Xám, ông như người mò kim đáy bể. Ông đã thu hẹp cuộc tìm kiếm xuống chỉ còn trong vùng Trewissick, nhưng tất cả chỉ mới đến thế thôi. Ông không biết chính xác là ông phải tìm kiếm cái gì. Nó có thể là bất cứ thứ gì đó. Nhưng bọn chúng thì biết. Bằng cách nào đó, một cách ám muội nào đó, chúng đã biết được về bản viết cổ này và tối hôm qua chúng đã đến để lùng bằng được nó. Chỉ có điều chúng không thể ngờ được rằng các cháu đã ngẫu nhiên tìm thấy trước." Ông khẽ mỉm cười. "Giá mà hôm nay ông được nhìn bộ mặt của nhà Withers nhỉ."

"Bây giờ thì mọi việc mới hóa ra có lý," Simon chậm rãi lần lại sự việc. "Cái cách mà gã kết bạn với bố quá nhanh, rồi bỗng nhiên mời chúng ta đi thuyền ngắm cảnh vịnh..." Trong một thoáng thót tim, nó như lại nghe thấy tiếng Ông Merry vang lên rõ từng chữ: "Chúng có thể rất, rất nguy hiểm..."

Barney thắc mắc: "Nhưng ông Gumerry ơi, ông có biết là chúng cháu có thể tìm ra được cái gì đó đấy không? Cháu muốn nói là anh Simon, chị Jane và cháu ấy."

Ông nghiêm mặt nhìn nó. "Sao cháu lại nói thế?"

"Dạ... cháu cũng không biết nữa..." Barney luống cuống. "Hẳn trước khi chúng cháu đến, ông cũng đã tự mình đi tìm rồi nhưng không tìm thấy gì cả. Rồi khi chúng cháu đến, thì ông chẳng bao giờ có mặt ở nhà. Ông cứ biến đi đâu ấy, cứ như thể ông để nhà cho bọn cháu lùng sục lấy vậy."

Ông Merry mỉm cười: "Đúng đấy, Barney ạ," ông nói. "Đúng là ông đã có ý nghĩ rằng có lẽ các cháu sẽ tìm ra nó, bởi vì ông hiểu rõ cả ba đứa. Ông đã nghĩ ra điều đó trước mấy ông bạn của chúng ta, vì thế mặc dù chúng rất để ý tới Ngôi nhà Xám nhưng vẫn phân tâm xem ông đang làm gì. Và ông đã dẫn dắt chúng chạy lung tung khắp phía Nam Cornwall trong khi các cháu ở nhà. Các cháu có thể nói ông chính là con chim mồi đấy."

"Nhưng cái gì..." Barney nói.

"Ôi, đừng bận tâm nữa," Simon ngắt lời. Từ nãy đến giờ, nó cứ lượn quanh Ông Merry mãi không thôi. "Bây giờ mọi thứ đã rõ ràng. Điều quan trọng là tấm bản đồ kia thì sao?"

"Cháu nói rất đúng đấy." Nói rồi Ông Merry lại ngồi xuống bên tảng đá. "Chúng ta không được lãng phí thời gian."

"Đó là bản đồ vẽ Trewissick," Simon hăm hở nói. "Jane đã phát hiện ra. Chỉ có đường bờ biển hình như đã thay đổi..."

"Cháu đã so sánh nó với bản đồ trong cuốn sách chỉ dẫn về Trewissick trong Ngôi nhà Xám," Jane nói. Có lẽ chẳng nên đề cập tới chuyến viếng thăm của em tới nhà cha xứ để làm gì. "Lạ một cái là mặc dù đường bờ biển trông khác nhau nhưng lại có cùng một tên. Nếu mọi người nhìn kỹ hơn vào bản viết cổ thì sẽ thấy một mũi đất có tên là Mũi Vua Mark, chỉ đánh vần sai thôi. Và cái tên đó cũng được ghi trong cuốn sách chỉ dẫn ở chỗ Mũi Kemare. Do đó chắc chắn là bản viết cổ này nói về Trewissick."

"Đúng thế," Ông Merry nói, cúi người xuống tấm da. "Đơn giản là lỗi sai do sao chép, bỏ mất phụ âm..." Ông ngẩng đầu lên. "Cháu vừa nói cái gì ấy nhỉ?"

Jane bối rối không hiểu. "Dạ?"

"Có phải cháu nói là trong cuốn sách chỉ dẫn nó được gọi là Mũi Vua Mark không?"

"Dạ, đúng. Thế thì sao ạ?"

"Không sao." Vẻ xa vắng thường ngày lại trùm lên khuôn mặt Ông Merry như một tấm mạng. "Chỉ có điều là cái tên đó đã bao lâu nay người ta không dùng nữa, hầu như mọi người đã quên mất rồi. Chắc ông nên xem qua cuốn sách chỉ dẫn của cháu xem sao."

"Cháu không hiểu," Simon chăm chú nhìn tấm bản đồ. "Kể cả có đúng là Trewissick đi nữa thì cũng giúp gì được cho ông đâu? Đây là tấm bản đồ kho báu vô dụng nhất mà cháu từng thấy, đủ thứ ký hiệu kỳ lạ nhưng chẳng cái nào có chút ý nghĩa gì. Chẳng chỉ dẫn đến nơi nào cả, vậy thì làm sao mà nó cho chúng ta biết chén Thánh ở đâu cơ chứ?"

Ông Merry chỉ tay vào bản viết cổ. "Cháu nhớ đoạn này nói gì chứ - để người được lựa chọn, khi đến nơi phù hợp, có thể biết..."

"Có lẽ nó giống như một trong những mê cung mà thỉnh thoảng ta vẫn thấy trong sách ấy," Jane chêm vào, cô bé đang suy nghĩ rất lung. "Chúng chỉ trở nên đơn giản một khi anh biết hướng đi, nhưng khó nhất là tìm ra điểm bắt đầu. Đó có thể chính là ngụ ý của ông ấy khi viết 'đến nơi phù hợp.' Nếu anh cầm bản đồ này đến đúng điểm bắt đầu thì nó sẽ chỉ cho mình biết cần phải đi tiếp về hướng nào."

Simon rền rĩ, "Nhưng làm thế nào mình tìm được chỗ mà bắt đầu bây giờ?"

Đứng bên cạnh Ông Merry, Barney không nghe thấy gì. Nó đã chìm vào một trong những khoảng lặng mơ mộng của mình, hai mắt mở to nhìn ra bến cảng và thỉnh thoảng lại quay lại ngó xem tấm bản đồ. "Mình biết là nó gợi cho mình về cái gì rồi," nó lẩm bẩm.

Nhưng không ai để ý. Barney tiếp tục tự nói vẩn vơ với chính mình, "Giống như một trong những bức vẽ của mẹ, những bức mà mẹ thường gọi là tranh phác họa phối cảnh. Nó trông giống như một bức tranh, thực sự không giống bản đồ một tí nào. Có một quả đồi nhô lên bên rìa bến cảng khi nhìn từ trên xuống và như thế mũi đất sẽ cong như thế này" - nó đưa ngón tay vẽ lên khoảng không trước mặt - "và những tảng đá trên đỉnh đồi tạo thành những cái bướu nhỏ kỳ cục như thế này ở bên rìa bản đồ..."

"Trời ạ, nó nói đúng rồi!" Simon hét lên, kéo tuột Barney khỏi cơn mơ. "Chính là nó đấy, nhìn kìa! Đó đúng là một bức tranh chứ không phải là bản đồ, và vì thế hình dáng của nó mới khác hẳn so với cuốn sách chỉ dẫn. Nhìn xem, mọi người thấy chưa..." Nó cẩn thận cầm lấy bản viết cổ từ tay Ông Merry và giơ thẳng lên trước mặt mọi người, đối diện với dãy đá dài lởm chởm của Mũi Kemare. Và khi ai nấy đứng quan sát mũi đất rồi nhìn trở lại tấm bản đồ thì bỗng nhiên người ta sẽ thấy những nét vẽ nguệch ngoạc ấy chính là một bức tranh vẽ phong cảnh ngay trước mắt họ, rõ ràng đến nỗi họ không thể hiểu nổi sao họ lại có thể nghĩ rằng đó là một tấm bản đồ.

"Thôi đúng rồi," Jane nhìn từng người một, mặt em đầy vẻ kinh ngạc, "đây chính là nơi phù hợp đó rồi. Là điểm bắt đầu của mê cung. Từ nãy tới giờ mình đã đứng đúng ở chỗ mà người vẽ bức tranh này đã từng đứng mà chẳng biết gì cả. Thử tưởng tượng xem!" Em nhìn vào bản viết cổ với vẻ kính sợ.

"Chị nghĩ tiếp đi," Barney giục, mặt rạng rỡ vì sung sướng với những gì nó vừa khám phá ra. "Mình đã biết ông ấy bắt đầu từ đâu. Thế làm thế nào để biết được sau đó ông ta đi về hướng nào nhỉ?"

"Nhìn vào bức tranh mà xem. Có một dấu gì đó ở ngay trên mũi đất đây này."

"Ở trên này có đầy dấu như thế. Một nửa là dấu do mực dây vào, còn lại là vết bẩn."

"Những dấu vết của thời gian," Ông Merry nói giọng sầu muộn.

"Không, nhưng dấu này là có chủ ý," Simon khăng khăng. "Đúng rồi, ngay đây này - ôi trời ơi! Chính là tảng đá mà ông đang dựa vào đấy, ông Gumerry!"

Ông Merry nghiêm nghị nhìn quanh. "Ừ, cũng có thể là như vậy. Đúng, rất có thể là nó đây. Một tảng đá lộ thiên tự nhiên, ông nghĩ không phải do bàn tay con người dựng lên."

Barney đứng dậy, đi một vòng quanh tảng đá, gí sát mắt nhìn thật kỹ từng vết nứt phủ đầy cây địa y vàng nhạt, kể cả những khe kẽ nhỏ, nhưng chẳng phát hiện được điều gì khác thường. "Trông hoàn toàn bình thường," nó ló ra ở phía bên kia tảng đá, thở dài thất vọng.

Jane phì cười. "Trông em cứ như con Rufus đang đánh hơi tìm thỏ rồi rốt cuộc chả tìm thấy cái gì hết ấy."

Barney vỗ đùi. "Em biết đáng nhẽ mình nên mang theo con Rufus mà. Nó mà đi săn và đánh hơi tìm kiếm thì sẽ cực kỳ hữu ích."

"Ngốc ạ, nó làm sao mà đánh hơi tìm thấy được những thứ đã giấu kín cách đây hàng thế kỷ."

"Tại sao lại không chứ. Chị đợi đấy, em cược là nó sẽ giúp được cho mà xem."

"Đừng hy vọng hão huyền."

"À mà nó đang ở đâu ấy nhỉ?"

"Chỗ bà Palk. Chắc đang bị nhốt ở đâu đó, khổ thân. Em biết là tối hôm nọ bố cáu điên lên và tuyên bố sẽ không để nó trong nhà nữa mà."

"Tối nào bà Palk cũng dắt nó về nhà."

"Nếu bà ấy không dắt nó về nhà tối hôm qua thì có lẽ nó đã bắt được trộm rồi đấy."

"Ôi trời, đúng thế." Phút chốc tất cả đều yên lặng theo đuổi suy nghĩ đó.

"Cháu không thấy tin bà Palk lắm," Jane ủ rũ nói.

"Các cháu à, thôi đừng nghĩ về chuyện đó nữa," Ông Merry dịu giọng phá tan sự căng thẳng. "Theo những gì mà ông biết về Rufus thì nó sẽ chỉ đến liếm tay bọn chúng và mặc cho chúng muốn làm gì thì làm thôi."

"Nó không thích gã Withers đâu," Barney nói. "Hôm qua nó ra đón mọi người từ dưới thuyền lên, vẫy đuôi mừng rỡ, nhưng khi nhìn thấy gã Withers đuôi nó cụp xuống ngay lập tức và sủa ầm ĩ. Khi đó tất cả mọi người đều cười mãi," nó tư lự nói thêm.

"Được rồi, ngày mai mình sẽ mang nó theo. Nhưng giờ mình sắp phải về rồi mà vẫn chưa cả bắt đầu nữa. Ông Gumerry, tảng đá này có thể thực sự có ý nghĩa gì đó không hả ông?" Simon nghi ngờ xoa tay lên bề mặt xám xịt của tảng đá.

"Có thể là nó sẽ nằm thẳng hàng với một cái gì đó," Jane hy vọng. "Như hướng chỉ của la bàn chẳng hạn. Nhìn lại bản đồ xem thế nào, à quên, ý em là bức tranh ấy."

"Chẳng ích gì đâu. Nó có thể thẳng hàng với bất kỳ vết nào trong những vết trên tấm da này."

"Nếu vậy thì mình phải tìm ra vị trí của tất cả những vết này là ở đâu và đến tận nơi xem liệu có gì hay ở gần đó không."

"Làm thế có mà mất hàng tháng."

"Ôi trời!" Barney nóng ruột giậm chân. "Tệ quá rồi. Mình phải làm gì đây?"

"Cứ kệ nó đi," Ông Merry bất ngờ nói.

"Cứ kệ nó đi?" Bọn trẻ quay lại nhìn chằm chằm vào ông.

"Cứ kệ đến mai. Khi nào đầu óc sáng suốt hãy quay trở lại. Chúng ta không có nhiều thời gian, và cuộc đua đã sắp đến giai đoạn nước rút, nhưng lúc này chúng ta đang đi đúng hướng. Phe kia không hề biết chúng ta đã tìm được gì. Chúng luôn theo dõi ông như một lũ diều hâu nhưng lại chẳng hề nghi ngờ các cháu, và nếu may mắn thì chúng sẽ không nghĩ đến điều ấy. Tối nay các cháu có thể đi xem và suy nghĩ thêm."

"Chúng sẽ không quay trở lại và ăn trộm nhà ta nữa chứ ạ?" Jane lo lắng hỏi.

"Bọn chúng sẽ không dám đâu. Chắc chắn là không, vì bọn chúng đã hết cơ hội rồi - lần trước chúng đã lục tung mọi thứ để có thể tìm ra manh mối ngay lập tức, nhưng chúng đã thất bại. Bây giờ chúng sẽ thử cách khác."

"Giá mà mình biết được bọn chúng sẽ làm gì nhỉ."

"Ông Merry," Simon hỏi, "tại sao chúng ta không thể báo cảnh sát bọn chúng chính là lũ trộm? Khi đó chúng sẽ không thể nào rình mò mình được nữa."

"Đúng rồi," Jane hùa theo. "Tại sao lại không ạ?"

"Mình không thể làm thế được," Barney ra vẻ chắc chắn.

"Tại sao lại không?"

"Em không biết."

Bọn trẻ cùng nhìn Ông Merry.

Ông Merry không trả lời thẳng vào câu hỏi, "Tại sao từ đầu các cháu không nói với cảnh sát rằng các cháu biết những tên trộm đang tìm kiếm cái gì?"

"Ơ... họ sẽ chỉ cười khẩy thôi. Họ sẽ cho rằng đó chỉ là một mảnh giấy cũ kỹ vớ vẩn."

"Và nếu như chúng ta trình báo với cảnh sát thì sẽ chẳng còn gì là bí mật nữa và chúng ta sẽ khó có thể tìm kiếm theo chỉ dẫn của tấm bản đồ này."

"Với lại," Jane nói tiếp khi lại cảm thấy áy náy, "ngay từ đầu bọn mình cũng đã không nói cho bố mẹ biết là bọn mình tìm thấy nó còn gì."

"À," Ông Merry nói, "đáng nhẽ cháu đã định nói rằng 'chúng con tìm thấy một tấm giấy da cũ ở trên gác xép và con nghĩ rằng đó chính là cái mà lũ trộm đang đi tìm nên chúng mới lục tung cả nhà lên.' Ngài trung sĩ đáng kính của chúng ta, vốn đã thỏa mãn với cái ý nghĩ rằng thủ phạm chính là bọn côn đồ quậy phá, sẽ mỉm cười bao dung và bảo các cháu hãy đi ra ngoài chơi đi."

"Đúng rồi, chính là thế đấy. Đấy là lý do tại sao chúng ta không nói ra."

Ông Merry cười tủm tỉm. "Nào, bây giờ ông có thể đến gặp anh ta và nói rằng tấm giấy da cổ này là manh mối để tìm ra một loại chén cổ, được gọi là chén Thánh, và rằng nó đang được cất giấu ở Trewissck. Cái chén ấy kể lại câu chuyện có thực về vua Arthur. Và rằng gã đàn ông trên chiếc du thuyền Phu Nhân Mary muốn có nó nên đã đột nhập vào ngôi nhà, và rằng gã đã theo dõi ông cả ngày lẫn đêm chỉ để xem xem liệu ông có tìm ra được chén Thánh trước gã hay không. Và rồi điều gì sẽ xảy ra nào?"

"Ngài trung sĩ sẽ đi bắt gã Withers," Simon nói đầy hy vọng nhưng giọng nó nghe đã không còn chắc chắn như trước.

 "Viên trung sĩ sẽ đến gặp gã Withers và tất nhiên gã sẽ có những chứng cứ ngoại phạm hoàn hảo trong cái đêm xảy ra vụ trộm, và viên trung sĩ sẽ hỏi gã với giọng đầy vẻ hối tiếc về câu chuyện nghe rất hão huyền của chúng ta. Gã Withers sẽ tỏ ra là một người buôn đồ cổ quyền quý lịch sự đang có chuyến đi nghỉ mát vô hại cùng với cô em gái xinh đẹp của gã."

"Đó chính là những gì mà chúng ta đã từng nghĩ về gã," Barney nói.

"Viên trung sĩ biết về ông," Ông Merry nói tiếp, "và biết rằng ông thường làm những việc đôi khi dường như là," - ông khẽ bật cười - "hơi kỳ quặc. Anh ta sẽ nghĩ đi nghĩ lại, và anh ta tự nhủ: Tội nghiệp ông Giáo Sư già, hẳn là ông lão không còn chịu lổi lữa. Tất cả cái đám sách vở ấy rõ ràng đã làm ông lão bị tẩu hỏa nhập ma mất rồi."

"Ông nói đúng hơn cả anh Simon," Jane kêu lên đầy ngưỡng mộ.

"Bây giờ cháu hiểu rồi," Simon nói. "Chuyện đó nghe có vẻ không tưởng. Và nếu chúng ta kể cho ngài trung sĩ biết gã Withers và em gái gã hỏi han về những cuốn sách cổ thì ông ta cũng chỉ thấy đó là những câu hỏi rất bình thường, chẳng có gì đáng ngờ cả."

Nó ngước nhìn lên rồi nhe răng cười. "Đúng rồi đấy ạ, chúng ta không thể báo cảnh sát được. Cháu xin lỗi. Cháu không nghĩ ra."

"Ờ, các cháu phải suy nghĩ, suy nghĩ nghiêm túc," Ông Merry vừa nói vừa đưa cặp mắt đen nghiêm nghị lần lượt nhìn từng đứa. "Ông sẽ nói cho các cháu nghe điều này và ông sẽ không nhắc lại nữa. Có thể các cháu cũng nghĩ giống như viên trung sĩ, rằng tất cả đây chỉ là một chuyện cạnh tranh cá nhân. Một ông giáo sư già và một tay sưu tầm sách, hai bên tranh giành nhau một thứ thực ra chẳng có tí ý nghĩa gì với những người khác cả."

"Không ạ!"

"Tất nhiên là không đâu ạ."

"Thực ra còn hơn thế đấy ạ," Jane hấp tấp nói. "Cháu đã có linh cảm..."

"Ừ, nếu tất cả các cháu đều có linh cảm, nếu các cháu hiểu được dù chỉ một chút những gì ông vừa nói, như thế cũng quá đủ rồi. Nhưng ông cũng không thấy vui lắm khi cả ba cháu lại bị dính vào việc này, và ông thậm chí còn buồn hơn thế nếu các cháu chẳng có một chút ý niệm gì về những việc mà các cháu đang làm."

"Sao ông làm cho nó nghe có vẻ nghiêm trọng thế," Simon tò mò.

"Đúng là như thế đấy... Ông lo lắng bởi vì ông chỉ có thể đứng bên ngoài mọi việc, hành động giống như một con chim mồi để dẫn dụ bọn chúng nghĩ rằng ngoài ông ra chẳng có ai nữa khiến cho bọn chúng phải bận tâm. Như thế các cháu sẽ được tự do, và có trách nhiệm tìm cho ra manh mối sự việc này." Ông chạm vào bản viết cổ Simon đang cầm trong tay. "Từng bước, từng bước khó khăn một đấy các cháu ạ."

"Hết sảy," Barney vui mừng nói.

Simon liếc nhìn hai em, từ từ đứng thẳng dậy, cố gắng làm ra vẻ oai phong nhất có thể được trong cái quần soóc và đôi dép xăng đan.

"Cháu là anh cả..."

"Chỉ hơn em có mười một tháng thôi," Jane cắt ngang.

"Ừ, dù sao đi nữa thì anh cũng là lớn nhất, anh phải có trách nhiệm với cả hai đứa và phải là người đại diện cho cả nhóm, và... và..." nó lúng túng rồi đột nhiên bỏ luôn vẻ oai phong mà nó vừa cố tạo ra "nhưng ông Gumerry ơi, thực lòng bọn cháu biết là bọn cháu đang làm gì mà. Theo một cách nào đó, đây chính là một cuộc săn lùng như Barney đã nói. Và đâu phải là chúng cháu chỉ có một mình thôi."

"Được rồi," Ông Merry nói. "Thế là chúng ta đã thỏa thuận rồi nhé." Nói xong, ông trịnh trọng lần lượt bắt tay từng đứa. Mấy ông cháu nhìn nhau, mắt mở to, nín thở, rồi tự dưng đều cảm thấy trông mình thật hề và cười phá lên. Nhưng đằng sau tiếng cười ấy họ đều lờ mờ cảm thấy một sự gắn bó thân thiết mới, trước mối nguy hiểm đang rình rập.

Lúc thu dọn và bắt đầu đi xuống đồi, Ông Merry bảo bọn trẻ dừng bước và nói, "Hãy nhìn cho kỹ đã." Ông khoát tay chỉ về phía bến cảng, những vách đá và mặt biển. "Các cháu hãy ghi nhận lấy cảnh tượng kia. Hãy nhớ là trông nó như thế nào."

Đám trẻ đứng trên sườn dốc nhìn lại một lần nữa. Mặt trời đang lặn xuống trên bầu trời phía Tây, phía trên Mũi Kemare và Ngôi nhà Xám, hắt ánh nắng xuống đỉnh mũi đất và những tảng đá xám kỳ quặc như đám gai đang đâm lên đường chân trời. Nhưng ở bên dưới, bến cảng đã bắt đầu xâm xẩm tối. Trước mắt chúng, mặt trời dường như đang từ từ rơi xuống, cho tới khi ánh sáng chói lòa của nó chiếu qua hàng rào đá đang vươn lên như những ngón tay, và rồi những tảng đá ấy chìm trong vầng hào quang rực rỡ.

 

m nghĩ nó nằm bên dưới Ngôi nhà Xám."

"Đúng đấy - cứ trông bọn trộm đã lật tung cả mấy tấm ván sàn lên thì biết."

"Nhưng bọn chúng đang tìm tấm bản đồ chứ có tìm chén Thánh đâu."

"Ai chẳng biết thế. Em nhớ Ông Merry nói không. Bọn chúng không biết chúng đang tìm kiếm cái gì, và chính ông cũng không biết nữa mà. Có thể chúng đang kiếm đầu mối dẫn đến cái cần tìm, như tấm bản đồ chẳng hạn, hoặc là chính cái cần tìm ấy."

"Thế nếu đầu mối ở đó rồi thì tại sao cái cần tìm lại không ở đó cơ chứ?"

"Nhìn xem đây này, đồ ngốc," Simon nói và mở tấm bản đồ ra, "Ngôi nhà Xám không được đánh dấu ở đây. Chẳng thấy có một dấu vết nào cả. Lúc ấy làm gì đã có Ngôi nhà Xám. Phải nhớ là người Cornwall ấy đã sống ở đây từ cách đây chín trăm năm rồi."

"Ừ nhỉ."

Bọn trẻ đang ngồi trên bãi cỏ ở lưng chừng Mũi Kemare, bên lề một con đường mòn gồ ghề, ngoằn ngoèo hướng lên đỉnh. Ông Merry đã để bọn trẻ lại với nhau. Trước khi đi ông dặn, "Trong lúc ông đánh lạc hướng bọn chó săn, hạn cho các cháu một ngày phải tìm thấy đầu mối đầu tiên. Ông chỉ có một lời khuyên - để đến chiều hãy bắt đầu tìm kiếm. Buổi sáng nay, các cháu nên ra bãi biển hoặc đi chơi đâu đó đã. Khi đó thì các cháu có thể chắc chắn rằng bọn chó săn ấy đã đi nơi khác rồi."

Rồi ông đi câu cá với bố suốt cả ngày. Bố định hôm đó sẽ thám hiểm vùng biển ngoài khơi mũi đất xuôi xuống chừng một dặm. Và đúng như dự kiến, khi chiếc thuyền nhỏ của hai người vừa rời khỏi bến cảng với bố nắm chắc bánh lái và Ông Merry đứng vươn thẳng tấm lưng chắc nịch ở đằng đuôi thuyền thì chiếc du thuyền Phu Nhân Mary, trắng lấp ánh dưới ánh mặt trời, cũng lập tức lặng lẽ bám theo, tiếng động cơ của nó vang lên đều đều, nhè nhẹ trên mặt biển buổi sáng yên tĩnh. Từ trong nhà nhìn ra, bọn trẻ thấy cánh buồm của con thuyền dần dần được kéo lên và căng phồng khi nó tiến vào vịnh. Con thuyền đi ra ngoài khơi một đoạn khá xa, nhưng vẫn giữ một khoảng cách nhất định, đủ để cho Ông Merry và bố luôn ở trong tầm nhìn.

Lúc này trên đỉnh mũi đất, ánh nắng chiều gay gắt chiếu xuống khiến cẳng chân trần của bọn trẻ bỏng rát và có một làn gió nhẹ từ đâu thổi tới. "Ôi trời ơi," Jane nói với vẻ chán nản, tay bứt một lưỡi cỏ ra khỏi vỏ ngoài rồi đưa lên miệng nhấm. "Thật là vô vọng. Chúng mình chẳng biết bắt đầu từ đâu. Có lẽ là chúng mình nên quay trở lại chỗ hôm qua đi."

"Nhưng mình đã biết từ chỗ đó mọi vật trông thế nào rồi."

"Thế thì sao nào? Những vật gì?"

"Thì mũi đất, biển và mặt trời đó - cả những tảng đá trên đỉnh kia nữa." Barney đưa tay chỉ đại khái lên con dốc trên đầu bọn trẻ. "Em nghĩ những thứ này đều có liên quan đến cái ta đang cần tìm. Người Cornwall nọ hẳn đã nhìn thấy chúng. Ông Gumerry nói những thứ này đã có từ cách đây ba nghìn năm, vì thế chín trăm năm trước đây thì trông chúng cũng gần cổ như bây giờ thôi."

"Mình có thể nhìn chúng rõ hơn từ phía bên kia." Simon ngồi dậy vẻ hào hứng.

 "Nhưng mà đi sang đó khá xa đấy," Jane bảo. "Ý em là, đầu mối đầu tiên có thể là bạn hãy bước mười bước sang bên trái, đại loại thế. Trong các câu chuyện về những kho báu bí mật toàn như thế thôi. Nhưng từ bên kia đến chỗ những cột đá trên đây phải mất mấy nghìn bước qua cả bến cảng. Nghe chẳng hợp lý tí nào."

"Cũng không hẳn là phải như thế," Simon nói. "Cách xác định có thể lại là theo hướng chỉ của la bàn thì sao. Bọn mày biết rồi đấy - chắc là mình sẽ phải tìm ra được cái gì đó thẳng hàng với một cái khác và nó sẽ là đầu mối để dẫn đến cái thứ ba."

Barney nhắm chặt mắt, nhăn mặt cố nhớ lại quang cảnh mà bọn chúng đã ngắm rất kỹ tối hôm trước. "Anh có nhớ khi mặt trời lặn ngày hôm qua không?" nó chậm rãi nói. "Từ chỗ mình ngồi, cột đá lớn nhất nằm thẳng hàng với mặt trời. Em nhớ điều đó bởi vì em chỉ nhìn được cột đá đó khi không nhìn thẳng vào nó, anh hiểu ý em không?"

Simon nhìn kĩ lại tấm bản đồ, vẻ phấn khích hiện dần lên khuôn mặt nó.

"Biết không, anh nghĩ là mày đã đoán được điều gì đó rồi đấy. Cái vòng tròn vẽ trên những cột đá mà trước mình tưởng là chỉ là để trang trí - đó có thể là mặt trời. Ý anh là nếu người vẽ bản đồ biết rằng rất nhiều năm người ta mới tìm thấy nó, ông ta sẽ phải dùng các ký hiệu như mặt trời chẳng hạn vì nó không dễ thay đổi."

"Thế thì đi thôi, mình leo lên cao hơn và nhìn xem." Jane phấn khởi nhảy cẫng lên, đột nhiên em khựng lại, đứng yên không nhúc nhích. "Simon, nhanh lên," em thì thào vẻ căng thẳng. "Cất tấm bản đồ đi. Giấu nó đi."

Simon nhíu mày. "Cái quái gì..."

"Nhanh lên! Cô Withers đấy. Cô ta đang đi lên với một ai đó. Chỉ lát nữa là bọn họ đến chỗ mình thôi."

Simon vội vàng cuộn tấm bản đồ lại và nhét nó vào balô. "Ai đi cùng với cô ta thế?" nó thầm thì.

"Em không nhìn rõ... à, em thấy rồi," Jane quay mặt đi thật nhanh như thể cái nhìn ấy đã khiến em bị đau, và lại ngồi xuống. Mặt cô bé đỏ lựng. "Chính là cái thằng nhóc đó. Thằng làm ngã em hôm nọ. Em biết là nó có liên quan tới tất cả những chuyện này mà."

Rồi bọn chúng nghe thấy có tiếng nói vọng đến gần hơn từ phía dưới dốc. Tiếng cô Withers trong trẻo bay đến chỗ chúng. "Bill, tôi không quan tâm, chúng ta phải kiểm tra mọi thứ. Có thể ông ta đã có..." Cô ta đã đi đến chỗ chúng, in bóng lên 8000 nền trời. Cô ta dừng lại ngay khi thấy ba đứa trẻ đang ngồi thản nhiên ngó mình. Thằng nhóc cũng dừng lại, quắc mắt nhìn chúng.

Cô Withers dừng khựng, hơi há miệng ra vì ngạc nhiên trong giây lát. Sau đó cô bình tĩnh trở lại và nở một nụ cười với bọn trẻ. "Ồ!" cô vui vẻ nói và tiến đến gần. "Thật là ngạc nhiên quá! Lại được gặp cả nhà Drew cùng một lúc. Cô hy vọng các cậu bé không bị mệt sau chuyến đi biển hôm đó chứ."

"Không đâu cô ạ. Cảm ơn cô," Barney trả lời bằng một giọng dõng dạc nhất, ngoại giao nhất của nó.

"Con thuyền của cô chú tuyệt đẹp," Simon cũng nói với giọng điệu kiểu cách và lịch sự không kém.

"Thế các cháu đang làm gì ở đây thế?" cô Withers hỏi bâng quơ. Cô ta mặc quần dài với một chiếc áo trắng không tay làm nổi bật lên màu nâu rám nắng của cánh tay trần, và mái tóc đen óng bồng bềnh trong gió. Trông cô ta thật khỏe khoắn và hấp dẫn.

Cô Withers nhìn Jane chờ đợi. Jane nuốt khan. "Chúng cháu chỉ ngồi ngắm biển thôi. Chúng cháu nhìn thấy chiếc thuyền của cô đi ra ngoài vịnh sáng nay."

"Chúng cháu tưởng cô cũng ở trên thuyền," Simon vô ý nói chêm vào.

Một thoáng cảnh giác hiện lên trên mặt Polly Withers. Cô ta thong thả nói, "À, như cô đã nói với các cháu rồi thì phải, cô không phải là thủy thủ cừ đâu."

Simon cố tình nhìn xuống biển. Mặt biển phẳng lặng không chút gợn sóng như mặt hồ. Cô Withers nhìn theo và nói, "À, lát nữa sẽ có gió đấy, cháu cứ tin lời cô đi."

"Thế ạ?" Simon đáp. Khuôn mặt nó vẫn thản nhiên như không, nhưng giọng điệu của nó có một thoáng nghi ngờ xấc xược. Lần đầu tiên nụ cười trên môi cô Withers hơi ỉu đi.

Cô ta chưa kịp nói gì thì thằng nhóc đi cùng đã tiếp lời. "Cô Polly rất là am hiểu về biển cả đấy," nó cộc cằn nói, trừng mắt nhìn Simon. "Cô ấy biết về biển nhiều hơn tất cả những gã dưới kia gộp lại." Nó hất đầu về phía cảng vẻ coi thường.

"À, cô vẫn chưa giới thiệu với các cháu," cô Withers vui vẻ nói. "Bỏ qua cho cô nhé! Jane, Simon, Barnabas, đây là Bill, cánh tay phải của cô chú đấy. Nếu không có nó thì cô chú cũng không biết xoay xở thế nào với Phu Nhân Mary cả."

Mặt thằng nhóc đỏ bừng, nó liếc nhìn cô ta rất nhanh rồi cúi nhìn đôi giày bẩn thỉu của mình. Jane thương hại nghĩ thầm: nó tưởng là cô ta tuyệt vời lắm đấy.

"Chúng cháu đã gặp nhau rồi," Simon trả lời cộc lốc.

Barney hỏi: "Thế cái xe của anh thế nào rồi?"

"Không khiến mầy hỏi," thằng nhóc độp lại.

"Ăn nói cho lịch sự, Bill." Đằng sau nụ cười ngọt ngào, giọng cô Withers vang lên lạnh và đanh như sợi dây thép. "Đó không phải là cách nói chuyện với bạn bè."

Bill nhìn cô ta, mặt mũi sưng sỉa vẻ trách cứ, rồi nó lao về phía trước và bước thẳng lên dốc, chẳng nói chẳng rằng.

"Ôi trời ơi," cô Withers thở dài. "Thế là cô đã làm nó phật lòng rồi. Người dân làng này thật là nhạy cảm." Cô ta hơi nhăn mặt với chúng vẻ đồng mưu, trông thật duyên dáng. "Cô nghĩ là cô nên đi theo nó." Cô Withers đi theo thằng nhóc, rồi lại quay ngoắt lại. Câu hỏi buột ra khỏi miệng cô ta nhanh như chớp: "Các cháu đã tìm thấy bản đồ chưa?"

Trong giây lát, giữa sự im lặng bao trùm tưởng như dài hàng giờ đồng hồ, bọn trẻ sững người nhìn cô ta. Cuối cùng, Barney, do quá lo lắng, cố lắp bắp những câu vô nghĩa để che giấu cảm xúc của mình: "Cô nói bản đồ á, cô Withers? Hay là lỗ hổng(1) ạ? Chúng cháu có tìm thấy một lổ hổng ở hàng rào phía dưới kia nên thường chui qua lỗ để lên mũi đất này. Nhưng chúng cháu không có bản đồ cô ạ, cháu không có, còn chị Jane và anh Simon thì không biết có không... Cô không biết đường lên đồi à?"

Cô Withers đang nhìn trừng trừng vào chúng bỗng trở lại vẻ thân thiện. "Ừ, đúng là cô hỏi bản đồ, Barnabas ạ: cô chưa thuộc đường lắm mà. Sáng nay cô tìm mãi nhưng chẳng thấy cửa hàng nào bán bản đồ cả. Cô đang tìm một lối mòn nhỏ nằm ngay phía bên kia đồi, nhưng Bill lại không giúp được gì mấy."

"Cháu nghĩ Ông Merry có một cái bản đồ đấy," Jane nói bâng quơ. Em quan sát cô Withers qua khóe mắt nhưng không thấy một chút thay đổi nào trên khuôn mặt cô ta cả. "Cô vẫn chưa gặp ông cháu phải không, cô Withers? Hôm nay ông đi câu cá với bố. Tiếc thật. Cháu xin lỗi vì không thể giúp gì được cho cô."

"Mong là cô sẽ tìm được đường," Simon tỏ vẻ thông cảm.

"Ừ, ừ, cô cũng hy vọng cô sẽ tìm được." Cô Withers trả lời. Cô ta cười thật tươi với bọn trẻ, quay lại bước lên dốc và giơ tay vẫy. "Tạm biệt các cháu."

Bọn trẻ im lặng nhìn theo cho đến khi bóng cô ta khuất sau đường chân trời nơi đỉnh dốc. Barney nằm thụp xuống đất, lăn vài vòng và thở phào nhẹ nhõm. "Phùu-uu-uù! Sợ quá! Lúc cô ta tự dưng nói...!" Nó vùi mặt xuống cỏ.

"Liệu cô ta có phát hiện ra không anh nhỉ?" Jane lo lắng hỏi Simon. "Mình có bị sơ hở gì không?"

"Anh không biết." Simon trầm tư nhìn lên con dốc xanh mướt yên ả. Giờ đây trên đó chẳng còn bóng dáng của cô Withers hay cái gì khác trừ một chú cừu đang gặm cỏ đằng xa. "Anh không nghĩ thế. Ý anh là, tất cả bọn mình chắc trông đều đần ra khi cô ta hỏi về tấm bản đồ, lúc đó trông em thộn kinh."

"Trông anh cũng thế. Như ngỗng ỉa ấy."

"Đúng thôi... cô ta nói bất ngờ như vậy thì bọn mình đương nhiên là rất ngạc nhiên rồi. Anh nghĩ là cô ta cũng chẳng thể phân biệt nổi bọn mình trông có vẻ bị bắt thóp hay giật mình đâu. Anh đoán là," Simon nói tiếp, cảm thấy tự tin hơn, "cô ta tưởng bọn mình cũng nghĩ là cô ta muốn tìm một cái bản đồ chỉ đường thông thường thật."

"Có thể cô ấy cũng chỉ muốn thế thôi."

"Còn lâu!" Barney ngẩng đầu lên khỏi đám cỏ. "Cô ta đúng là đang kiểm tra chúng ta. Nếu không tại sao cô ta lại dùng từ 'tìm thấy'? Các cháu đã tìm thấy bản đồ chưa? Bình thường người ta sẽ nói là 'các cháu bản đồ không?' "

"Barney nói đúng đấy." Simon đứng dậy, phủi bụi ở chân. "Ông Merry nói cũng đúng. Bọn chúng không hành động sơ hở đâu. Em có thể thấy là cô Withers rất ngạc nhiên khi nhìn thấy chúng ta, nhưng chưa đầy năm giây sau thì cô ta đã thử hỏi đến tấm bản đồ ngay rồi."

"Mọi việc thật kinh khủng," Jane nói và vặn vẹo vai như thể em muốn trút bỏ tất cả những kí ức đáng sợ đó. Em nhìn lên đỉnh dốc. "Bây giờ làm sao mà có thể đi tiếp lên nữa? Mình không thể nói trước được điều gì vì rất có thể cô ta và thằng ranh đó đang nấp đâu đó theo dõi chúng ta."

"Để cái đó cản trở chúng ta thì chẳng hay gì," Simon vênh cằm lên. "Nếu mình cứ nghĩ là đang bị theo dõi thì sẽ chẳng làm được gì cả. Miễn là mình xử sự bình thường cứ như mình đang dạo chơi thật thì sẽ chẳng sao cả." Nó nhặt balô lên. "Đi thôi."

Sườn dốc Mũi Kemare còn dốc hơn cả mũi đất đối diện, và suốt một hồi lâu, trong khi ì ạch bước trên con đường mòn ngoằn ngoèo, bọn trẻ chẳng nhìn thấy gì trước mặt ngoài đường viền của con dốc cắt ngang nền trời, và ánh mặt trời như thiêu như đốt phả cái nóng hầm hập vào mắt chúng. Phía cuối mũi đất lởm chởm và xám xịt, ăn sâu ra biển lút tầm mắt bọn trẻ, và dải đất liền chạy dài ra ngoài đó trông thật đanh chắc, cứ như thể trong lòng toàn đá còn lớp đất phủ phía trên chẳng qua là một lớp da mỏng.

Cuối cùng bọn trẻ cũng tới được đỉnh dốc, nơi cỏ mọc thấp tạo thành một đường viền cong cong khổng lồ màu xanh úa, và chúng đã có thể nhìn thấy những cột đá. Chúng càng tiến lại gần, những cột đá dường như càng to lớn lên, lặng lẽ chĩa lên trời như những bia mộ khổng lồ.

"Hòn đá," Simon nói, "là cách nói giảm nhẹ nhiều nhất mà mình từng biết. Thật chẳng khác nào gọi Cột Nelson(1) là một cái que vậy."

Nó đứng ngắm nghía những cột đá granite khổng lồ cao tít trên đầu. Có bốn cột; một cột cao trội hơn hẳn, ba cột kia nằm rải rác xung quanh.

"Có lẽ chén Thánh được chôn dưới một trong những cột đá này," Barney ngập ngừng nói.

"Không thể nào. Những cột đá này cổ xưa lắm rồi... dù sao thì anh cũng nghĩ là em đã sai khi cho rằng chén Thánh được đem chôn."

"Ồ, thôi nào, phải là chôn chứ," Jane xen vào. "Còn cách nào khác để cất giấu lâu như vậy đâu?"

"Và anh có nhớ dòng chữ ở trong bản viết cổ không?" Barney nói. "Trên biển khơi, dưới đá thẳm."

Simon xoa xoa tai, có vẻ vẫn chưa chịu. "Ở vị trí này mình vẫn chưa ở trên biển. Biển vẫn cách đây hàng dặm. Thôi được, không phải hàng dặm nhưng anh cá là phải đến bốn trăm yard nữa thì mới đến cuối mũi đất."

"Vâng, nhưng mình vẫn đang ở cao hơn so với biển phải không?"

"Anh tin chắc ông ta không định nói như vậy đâu. Trên biển, trên biển... không hiểu là gì nhỉ... nhưng dù sao bọn mình cũng đang cố đi quá nhanh. Ông Gumerry đã dặn là phải dần từng bước một. Bọn mình phải bám lấy cái bước mình đã phát hiện được đây này."

Simon nhìn mặt trời, lúc này đang từ từ lặn xuống phía bờ biển, nơi lớp lớp vách đá dần dần khuất vào làn sương mù bên trên Mũi Kemare. "Hãy chú ý nhìn những cột đá. Mặt trời sắp xuống thấp bằng ngày hôm qua rồi đấy."

"Các cột đá trông rất khác khi lại gần." Jane đi xung quanh những cột đá xám dãi dầu mưa nắng. "Bọn mình cần tìm ra cột đá nào ở thẳng hàng với mặt trời khi nhìn từ phía bên kia lại, phải không nào? Nhưng làm thế nào để tìm được cột đá đó khi đang đứng ở đây chứ?"

"Đó là cột đá lớn nhất." Barney nói. "Nó cao hơn hẳn những cột khác."

Mặt trời rực rỡ đã lặn xuống khá thấp nơi chân trời, hắt những tia nắng ấm áp màu vàng cam lên mặt bọn trẻ. "Nhìn những cái bóng kìa," Simon đột nhiên nói. Nó giơ tay chỉ, và cái bóng của nó in trên thảm cỏ phía trước cũng giơ ra một cánh tay dài ngoẵng có mép viền răng cưa vì bị cỏ làm gãy khúc. "Bọn mình có thể tìm ra nó từ phía bên này bằng cách đó. Ngược chiều lại. Nếu hôm qua một cột đá nằm chính giữa mình và mặt trời, thì nghĩa là từ chỗ này bóng của nó sẽ chỉ thẳng vào chỗ mình đã đứng hôm trước. Về phía tảng đá mà ông Gumerry đã ngồi dựa vào ấy. Nhìn xem, từ đây mình có thể nhìn được tảng đá đó kia."

Nhìn theo cánh tay Simon, bọn trẻ thấy một tảng đá rất to trên mũi đất đối diện; một chấm nhỏ xa xa trên nền trời đang sáng rực trong ánh vàng buổi hoàng hôn. Nó cao hơn những cột đá trên Mũi Kemare và nằm xa về phía biển. Nhưng rõ ràng đó chính là nơi ngày hôm trước chúng đã đứng.

Jane nhìn Simon với vẻ thán phục rõ rành rành khác hẳn ngày thường. Thằng anh hơi xấu hổ đỏ mặt, rồi trở nên hoạt bát hẳn. "Nào Barney, phải nhanh lên trước khi mặt trời lặn. Theo em là cột đá nào?"

"Nó là cột đá lớn nhất, nên chắc là cái cột đá này."

Barney bước vài bước xuống dốc, tới chỗ cột đá cao nhất. Nó vòng sang phía bên kia cột đá, đối diện với bến cảng, và quỳ xuống dưới bóng tảng đá, nó nhìn sang tảng đá nằm chơ vơ ở phía vịnh đối diện. Nó cau mày vẻ ngờ ngợ. Simon và Jane đến đứng hai bên nó, kiên nhẫn chờ đợi.

Barney, trán càng cau lại, đột nhiên nằm ẹp bụng xuống cỏ, dọc theo bóng nắng của tảng đá, nhìn thẳng về phía trước. "Em đã nằm thẳng chưa?" nó hỏi, giọng nghe nghèn nghẹt.

"Thẳng rồi, thẳng tưng. Có đúng cột đá này không?"

Barney lồm cồm bò dậy, vẻ mặt đau khổ. "Không phải. Cái bóng này không chỉ thẳng vào tảng đá phía bên kia. Có thể trông thấy tảng đá bên kia khá rõ nhưng phải hơi chếch mắt sang một bên thì mới nhìn thẳng được. Mà như thế thì là ăn gian."

"Nhưng em nói đấy là cột đá cao nhất em nhìn thấy mà."

"Bây giờ em vẫn nói vậy."

"Chị chẳng hiểu tại sao lại phải là cột đá cao nhất cơ chứ," Jane nói, bực tức vì thất vọng.

Simon suy nghĩ rất lung, tay cầm cái quai balô đung đưa, đập đập vào chân một cách lơ đãng. Nó xoay người, nhìn lại ba cột đá kia giờ đã đen sẫm lại với mép viền xung quanh như được dát vàng vì ánh nắng mặt trời. Rồi nó hét lên, buông cái balô ra và chạy về phía cột đá xa nhất, cũng bắt chước Barney nằm soài xuống bóng nắng của cột đá đó. Nín thở, nó hạ cằm xuống cỏ và nhắm mắt lại.

"Dịch người phía trên sang bên trái một chút đi, anh vẫn chưa thẳng." Jane bắt đầu hiểu ra, lại gần Simon nói.

Simon dịch người sang vài inch, tì người lên khuỷu tay nhổm dậy. "Đã được chưa?"

"Được rồi."

Simon bắt chéo hai ngón tay(1) và mở mắt ra. Ngay phía trước nó, bên trên những lưỡi cỏ, chính giữa tầm mắt, tảng đá trên mũi đất đối diện rực rỡ trong ánh nắng đập thẳng vào mắt nó. "Đúng là nó rồi," Simon xúc động khẽ nói.

Barney chạy đến, ngồi xuống bên cạnh Simon. "Để em, để em..." Nó lấy khuỷu tay huých Simon ra và nheo mắt nhìn qua cảng về phía tảng đá. "Anh đúng rồi," nó miễn cưỡng nói. "Nhưng đúng là hôm qua em nhìn thấy cột đá lớn nhất. Em chắc là thế mà."

"Đúng rồi." Jane nói.

"Chị nói đúng rồi nghĩa là sao?"

"Hãy nhìn vị trí các cột đá và nhìn con đường dốc mà xem. Đây là đỉnh của mũi đất, nhưng không hề bằng phẳng, cột đá lớn nhất ở chỗ thấp hơn các cột đá còn lại. Cột đá mình đang đứng cạnh thì ở chỗ dốc cao, mặc dù lại không phải là cột đá cao nhất. Vì thế hôm qua khi ngắm nó in hình trên nền trời, mình tưởng là nó cao nhất."

"Trời ạ," Barney thốt lên. "Thế mà em không nghĩ ra."

Simon lại lên giọng kiêu ngạo. "Tao tưởng cuối cùng rồi mày cũng nghĩ ra chứ."

"Anh thông minh ghê," Jane nói. "Nếu anh không nhanh như thế thì có khi mình chẳng bao giờ nhận ra được ấy chứ. Bóng nắng sắp biến mất này." Cô bé chỉ tay xuống thảm cỏ. Mặt trời đang lặn phía chân trời xa xa đằng sau chúng, và bóng tối rón rén trườn lên mặt đất, nuốt chửng những cái bóng dài lê thê của mấy cột đá. Nhưng bên kia cảng, tảng đá nằm ở mũi đất đối diện, cao hơn và vì thế được tắm trong ánh mặt trời lâu hơn, vẫn chói lòa như một ngọn hải đăng.

Barney vui sướng reo lên. "Mình tìm ra rồi! Mình tìm ra rồi!" Nó đấm mạnh một tay vào bề mặt cứng và âm ấm của cột đá và xoay người một vòng. "Mình đã đi được một bước rồi, tuyệt vời không chứ?"

"Mới chỉ là bước đầu thôi." Simon nói tỉnh bơ mặc dù khi ấy lòng nó cũng đang tràn ngập niềm vui sướng. Cả ba đứa đột nhiên đều cảm thấy phấn khích tột độ.

"Nhưng mình đã bắt đầu..."

"Bây giờ thì mình biết cần phải tìm đầu mối thứ hai ở đâu rồi."

"Mình bắt đầu từ đây." Barney xoa xoa cột đá. "Bắt đầu từ cột đá này."

"Nhưng chính xác là chỗ nào?" Simon hỏi, quyết tâm quay trở lại với thực tại. "Và bằng cách nào?"

"Mình chỉ cần xem lại tấm bản đồ thôi. Chắc chắn qua đó mình sẽ biết được. Ý em là, đầu mối đầu tiên đã được đánh dấu rõ rành rành, làm sao để đi từ mũi đất bên kia sang cột đá bên này, chỉ cần mình hiểu được thôi." Barney chạy lại chỗ Simon để chiếc balô, mở dây buộc, thò tay vào lục lọi bên trong và lôi tấm bản đồ màu nâu bụi bặm ra khỏi hộp. "Nhìn này," nó nói, ngồi phịch xuống và trải tấm bản đồ lên thảm cỏ trước mặt. "Đây là nơi cột đá được đánh dấu..."

"Mang nó lên trên kia," Simon nói trong lúc nhìn qua vai Barney. "Mặt trời vẫn còn chiếu trên đám cỏ phía trên kia, và mình cần nhiều ánh sáng để xem cho rõ. Ở đó cũng ấm hơn."

Barney ngoan ngoãn leo lên dốc, ra khỏi phần chân khổng lồ của cột đá xám xa nhất và cao nhất, tới nơi màu xanh của thảm cỏ vẫn còn sáng lên trong những vệt nắng cuối cùng. Simon và Jane đi theo, mỗi đứa đứng về một bên nó để không lấp bóng lên những hàng chữ nguệch ngoạc lờ mờ trên tấm giấy da đang cong lên. Cả bọn cúi xuống, chăm chú nhìn vào nét phác họa đơn giản các cột đá trong hình vẽ của người Cornwall từ cách đây chín trăm năm.

Bỗng giọng cô Withers vang lên từ phía sau: "Vậy ra là các cháu đã tìm thấy một tấm bản đồ thật."

Nỗi khiếp sợ bao trùm lên Barney khiến nó chết đứng trong tư thế khom người cạnh tấm bản đồ. Simon và Jane hốt hoảng quay phắt lại.

Cô Withers đứng ngay gần sát sau chúng, ở phía trên dốc. Bóng cô ta tối đen và đầy hăm dọa trên nền trời hoàng hôn, và bọn trẻ không nhìn rõ mặt cô ta. Thằng Bill im lặng hiện ra từ đằng sau và đến đứng cạnh cô ta. Bóng của hai người đó lừng lững trước mắt khiến Jane phát hoảng, và đột nhiên em cảm thấy sợ cái vắng vẻ và im lìm của mũi đất.

Ngón tay Barney quặp lại một cách vô thức và tấm bản đồ, không còn bị chặn mép nữa, tự động cuộn tròn lại. Tiếng động yếu ớt khi chiếc bản đồ cuộn lại vang lên như tiếng súng phá tan bầu không khí yên lặng. "Ồ, đừng cất nó đi," cô Withers nói từng tiếng dõng dạc. "Cô muốn xem nó."

Cô ta bước lên một bước và vươn tay ra, và, kinh hoàng trước giọng nói vô cảm ấy, Jane kêu lên thất thanh.

"Simon!"

Khi cái bóng đen vụt tiến về phía nó, Simon thấy mình bừng tỉnh. Hành động nhanh hơn cả ý nghĩ, nó quay lại, cúi người và giật lấy tấm bản đồ trên gối Barney. Rồi nó vừa chạy vừa trượt xuống con đường dốc của Mũi Kemare, về phía làng.

"Bill! Mau lên!" cô Withers ra lệnh. Cái bóng to lớn im lặng đằng sau cô ta đột nhiên như sống dậy, lao xuống đồi đuổi theo bén gót Simon. Nhưng nó quá vụng về không thể chạy nhanh được, và đến khoảng giữa dốc, nó bị vấp suýt ngã. Nó lấy lại thăng bằng gần như ngay lập tức nhưng lúc đó Simon đã chạy và trượt xuống qua bãi cỏ đến con đường ngoằn ngoèo, cách xa đến ba mươi yard.

"Nó không đuổi kịp anh ấy đâu," Jane reo, giọng run lên vì hồi hộp, và cảm thấy một nụ cười nhẹ nhõm làm đôi má căng thẳng của em giãn ra.

"Cố lên, Simon!" Barney đứng dậy, gào xuống phía dưới đồi.

Cô Withers đi đến chỗ hai đứa trẻ, và chúng lùi lại trước vẻ mặt cô ta, vì sự giận dữ đã làm nó méo mó đi thật đáng sợ và xa lạ, không còn quyến rũ, thậm chí cũng không còn trẻ trung nữa. Cô ta hằm hè với chúng: "Bọn trẻ ngu ngốc chúng mày, nghịch ngợm các thứ mà chúng mày không hiểu..."

Cô ta quay người bỏ đi, sải những bước dài và nhanh xuống dốc theo hướng Simon. Chúng nhìn theo dáng đi giận dữ của cô ta thoắt ẩn thoắt hiện trên con đường ngoằn ngoèo hình chữ chi cho đến khi bóng cô ta khuất hẳn sau mũi đất.

"Nhanh lên" Barney nói. "Bọn mình phải đi tìm ông Gumerry thôi. Simon sẽ cần được giúp đỡ đấy."

* * *

Lớp cỏ khô trơn tuột chẳng khác nào gỗ đánh bóng dưới chân Simon, chẳng còn chút độ bám nào khiến nó bị trượt chân và tuột xuống bên sườn đồi; lúc thì bàn chân đạp lên cỏ, lúc cỏ lại nằm rạp dưới lưng và khuỷu tay nó, nhưng cứ phải giơ một cánh tay lên để không làm hỏng tấm bản đồ. Đằng sau nó, tiếng trượt chân và những cú vấp của thằng nhóc người làng nặng nề hơn, tiếng thở của thằng nhóc khò khè trong họng và đôi lúc lại chửi thề khi bị vấp ngã.

Mặt hướng ra phía ngoài cảng trong lúc chạy xuống, Simon cảm giác mình có thể nhảy một phát là ra tới biển. Sườn bên này có vẻ dốc hơn rất nhiều so với con đường chúng trèo lên, đường cỏ xanh uốn lượn vô tận cứ hẫng đi dưới chân nó. Trống ngực đập thình thịch và nó quá tập trung vào việc tẩu thoát đến nỗi cũng chẳng còn kịp nghĩ đến chuỵện gì sẽ xảy ra nếu thằng nhóc kia bắt được nó nữa. Nhưng rồi dần dần, cảm giác kinh hoàng trong bụng nó cũng dần biến mất.

Mọi thứ giờ phụ thuộc vào nó - giữ cho bản viết cổ được an toàn và chạy thoát. Nó gần như cảm thấy thích thú. Đây là một thứ mà nó có thể hiểu được; cũng giống như một cuộc chạy thi hay một trận đánh nhau ở trường, giữa nó và thằng Bill. Và nó muốn thắng. Vừa thở hổn hển, Simon vừa liếc nhìn lại phía sau. Khoảng cách giữa nó và thằng bé kia có vẻ gần hơn một chút. Simon vội lao mình xuống phía dưới dốc, vừa trượt vừa xóc nảy nhanh đến phát sợ, chỉ thỉnh thoảng nó mới đứng thẳng lên loạng choạng chạy được vài bước.

Thế rồi đột nhiên nó xuống đến chân dốc, đứng khựng lại và hổn hển lấy hơi. Sau khi liếc nhìn thằng Bill đang hối hả đuổi theo, vừa la hét vừa trừng trừng nhìn lúc thấy nó quay mặt lại, Simon chạy tiếp, băng qua cánh đồng, nhanh như một con thỏ hoang và cảm giác càng lúc càng tự tin hơn. Nhưng nó không thể bỏ hẳn được thằng kia lại phía sau. Khỏe hơn, to hơn và chân dài hơn, thằng nhóc kia chạy huỳnh huỵch đằng sau nó với quyết tâm sắt đá, sải bước nặng nề hơn nhưng không bị trượt chân nữa.

Simon chạy đến một bục trèo cạnh hàng rào ở cuối cánh đồng và nắm lấy đầu một thanh rào gỗ để nhảy qua. Phía bên kia hàng rào là một con đường nhỏ vắng lặng, lỗ chỗ những vết xe lún khá sâu đã khô và cứng như đá với hàng cây mọc hai bên đường, vòm lá đan vào nhau thành một mái lá dày phía trên đầu. Giờ đây khi ánh nắng gần như đã tắt hẳn, con đường hơi mờ tối dưới những tán cây và chỉ cách vài yard thì cả phía trước và phía sau của con đường đều biến mất vào khoảng tối vô định.

Simon đảo mắt nhìn trước nhìn sau, nắm chặt tấm bản đồ trong bàn tay ướt đẫm mồ hôi. Con đường nào dẫn nó về Ngôi nhà Xám đây? Nó không còn nghe thấy tiếng sóng biển nữa.

Chọn bừa một hướng, nó rẽ phải và chạy dọc theo con đường nhỏ. Sau lưng, nó nghe thấy tiếng ủng của thằng nhóc đang trèo qua hàng rào. Con đường dường như dài ra vô tận trong khi nó chạy, nhanh chân chuyển từ bên nọ sang bên kia để tránh những vết xe lún. Chạy hết khúc quành này lại thấy khúc quành khác, con đường cứ uốn lượn liên tục như một đường hầm âm u dưới những hàng cây và tán lá, chẳng có lấy một lối rẽ dẫn đến một cánh cổng hay một cánh đồng nào.

Nó có thể nghe thấy tiếng chân của thằng Bill đằng sau nó đang chạy trên những lớp bùn khô cứng của con đường.

Bây giờ thằng nhóc không còn hò hét nữa, mà ngoan cố đuổi theo trong im lặng. Simon cảm thấy một thoáng hốt hoảng lại len lỏi vào trong tâm trí, nó liền chạy hăng hơn, chỉ mong chóng thoát khỏi con đường tối om như hang động này và ra ngoài đồng trống.

Rồi đến khúc quành tiếp theo, nó đã thấy trước mặt mình là bầu trời, bừng sáng lên cuối con đường âm u, và chỉ trong chốc lát nó đã ra khỏi đó, rồi chạy trên một con đường lát gạch dọc theo những bức tường và hàng cây yên lặng. Lại một lần nữa nó cứ thế rẽ mà không kịp suy nghĩ mình sẽ đi về đâu, tiếng đế giày cao su kêu lộp bộp trên con đường vắng tanh.

Bức tường xám dài dằng dặc ở một bên, hàng rào cây của một cánh đồng ở bên kia, chẳng cho nó một chút dấu hiệu nào là nó đang chạy đi đâu - Simon biết nó đang chạy chậm dần đi, bởi nó đã bắt đầu thấm mệt dù vẫn đang rất cố gắng. Nó bắt đầu mong có ai đó, ai cũng được, xuất hiện trên con đường.

Tiếng bước chân của thằng bé kia giờ đây vang rõ hơn bên tai nó, át cả tiếng líu lo của những chú chim đang ẩn mình sau tán lá trong buổi tối tĩnh mịch. Tiếng bước chân to hơn cả tiếng bước chân của nó khiến Simon nảy ra một ý tưởng, và cuối cùng khi con đường chia ra các ngả rẽ, nó gắng hết sức tăng tốc và chạy tuốt vào một ngả rẽ.

Bức tường kết thúc bằng hai trụ cổng méo mó, qua đó nó thoáng thấy một lối đi cây cỏ mọc um tùm. Nhìn xa xuống cuối con đường nó bắt gặp cái bóng cao chót vót của ngọn tháp nhà thờ Trewissick và trái tim nó thót lại khi nhận ra mình còn cách nhà xa biết bao.

Thằng nhóc Bill vẫn chưa đến đoạn rẽ; Simon có thể nghe thấy tiếng bước chân vang lên mỗi lúc một to hơn từ ng 28f3 oài đường cái. Nó vội lủi vào cái cổng bỏ hoang ở lối đi rồi rúc vào bụi cây mọc um tùm bên cạnh một trụ cổng. Gai và các nhánh cây sắc đâm tứ phía khiến nó đau nhói. Nhưng nó vẫn thu mình ngồi yên lặng đằng sau tán lá, cố gắng nén những tiếng thở hổn hển, dám chắc rằng tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực nó to đến nỗi vang vọng khắp cả con đường.

Ý tưởng đó có tác dụng. Simon nhìn thấy thằng Bill, đầu tóc rối bù, mặt đỏ lựng, dừng lại ở cuối con đường và nhìn ngó xung quanh. Trông nó có vẻ vừa bối rối vừa tức giận, đầu nghiêng sang một bên để nghe tiếng bước chân. Rồi nó rẽ và chậm rãi bước theo con đường nhánh nơi Simon đang ẩn náu, vừa đi vừa băn khoăn nhìn lại phía sau.

Simon cố gắng nín thở và thu mình vào bụi cây sâu hơn.

Đột nhiên nó nghe thấy một tiếng động từ phía sau. Quay phắt đầu lại, nhăn mặt vì bị một bông hoa vân anh(1) màu tía to tướng đập vào mắt, Simon chăm chú lắng nghe. Trong giây lát, nó nhận ra tiếng bước chân lạo xạo trên sỏi hướng về phía con đường cuối lối đi. Khe sáng chỗ những cành cây bị che tối trong giây lát khi hình dáng một người đàn ông lướt qua rất gần nó, bước dọc theo lối đi và ra cổng. Simon thấy ông ta rất cao, mái tóc sẫm màu nhưng nó không nhìn được rõ mặt.

Cái dáng ấy thủng thẳng đi ra đường. Bây giờ Simon đã nhìn thấy ông ta mặc toàn đồ đen; đôi chân gầy dài nhẳng như cò hương, chiếc áo khoác bằng lụa đen có ánh lấp lánh bạc trên hai cầu vai. Khuôn mặt sưng sỉa của thằng nhóc Bill sáng bừng lên khi trông thấy người đàn ông, và nó chạy lại phía ông ta khi đó đang đứng ở giữa con đường. Họ đứng nói chuyện, nhưng vì khoảng cách quá xa nên Simon chỉ nghe thấy những tiếng lào thào không rõ rệt. Thằng Bill đang phẩy tay chỉ về phía con đường và lối đi đằng sau nó. Simon thấy người đàn ông cao đen nọ lắc đầu nhưng vẫn không sao nhìn rõ mặt gã.

Rồi đột nhiên cả hai xoay người trở lại phía lối đi và rảo bước về phía Simon, Bill vẫn thao thao bất tuyệt. Simon lo sợ thu mình vào sâu hơn nữa trong chỗ trốn, đột nhiên run sợ hơn bao giờ hết kể từ lúc bị rượt đuổi tới giờ. Gã này rõ ràng có quen với thằng Bill. Thằng ấy đang mỉm cười. Khi nhận ra gã đàn ông lại còn tỏ ra rất nhẹ nhõm. Lại một tên nữa bên phe địch...

Bây giờ thì nó không nhìn được gì nữa ngoài những chiếc lá trước mặt và không dám nhướn mình lên trước để nhìn qua khe lá. Nhưng tiếng bước chân cả quyết trên con đường nhựa cứng không chuyển thành tiếng lạo xạo trên sỏi. Chúng đã đi qua, ra đến bên ngoài bức tường và lên phía con đường. Simon nghe thấy tiếng thì thầm, nhưng không thể luận được gì ngoài một đoạn mà thằng Bill nói to. "... phải lấy được , cô ấy nói thế, chắc chắn đó là cái cần tìm, nhưng bây giờ thì cháu để mất..."

Để mất mình, Simon cười thầm. Khi tiếng chân chúng xa dần, thì nỗi sợ hãi trong lòng Simon cũng mất hẳn và nó bắt đầu cảm thấy niềm vui chiến thắng vì đã đánh lừa được thằng nhóc to xác kia. Nó liếc nhìn xuống tấm bản đồ đang cầm trong tay và khẽ siết chặt như siết tay một kẻ đồng mưu. Bây giờ yên tĩnh đã trở lại, nó chẳng còn nghe thấy gì ngoài bài ca của lũ chim trong bóng tối nhá nhem. Nó tự hỏi không biết đã muộn lắm chưa. Cuộc rượt đuổi dường như dài bằng cả tuần. Các cơ chân cũng bắt đầu âm ỉ biểu tình do ngồi thu lu gò bó lâu quá. Nhưng nó vẫn chờ thêm, căng tai nghe xem có tiếng động nào chứng tỏ gã đàn ông và thằng nhóc kia vẫn quanh quẩn đâu đây.

Cuối cùng nó cả quyết rằng bọn chúng chắc đã mất hút cuối con đường. Nắm chặt tấm bản đồ trong tay, tay kia nó rẽ mấy bụi cây trước mặt và bước ra lối đi. Không có ai ở đó. Tất cả đều im lìm.

Simon rón rén băng qua lối đi rải sỏi và đưa mắt nhìn ngược nhìn xuôi khắp xung quanh trụ cổng. Nó chẳng thấy ai, và niềm vui âm ỉ trong lòng, nó vòng qua cổng trở lại con đường ban nãy.

Chỉ đến khi đã đi được vài bước ra đến ngoài đường thì nó mới thấy thằng nhóc Bill và gã đàn ông mặc đồ đen lúc nãy đang đứng với nhau ngay cạnh bức tường cách chỗ nó chừng năm mươi yard, trông rõ rành rành.

Simon hít vào đánh hức một cái, bụng quặn lại vì kinh hoàng. Nó đứng đó một lúc lâu, không biết có nên quay trở lại chỗ nấp cạnh lối đi trước khi bị phát hiện hay không. Nhưng trong lúc nó còn đang đứng nghệt ra, phân vân, thì thằng Bill đã quay đầu lại, la toáng lên và bắt đầu lao về phía Simon, gã đàn ông đứng cùng cũng nhận ra và quay người chạy theo. Simon quay ngoắt, lao về phía đường cái. Cái im lặng xung quanh đột nhiên nhuốm vẻ hăm dọa chẳng khác nào con đường nhỏ có tán cây kết thành vòm ban nãy; nó mong biết bao được vô sự giữa một đám đông, người và xe cộ, để chí ít nó cũng quên đi cái cảm giác đơn độc đáng sợ trong tiếng chân rượt đuổi rầm rập không ngừng.

Xuôi theo con đường nhánh, vòng qua khúc quành và dọc theo bức tường quanh sân nhà thờ, nhanh lên, nhanh nữa lên; tim Simon cứ thon thót trong lúc nó chạy không ngừng. Chân nó vẫn còn cứng đờ sau cả một quãng thời gian ngồi thu lu trong bụi cây và nó bải hoải cả người. Nó tự biết rằng mình sẽ không thể tiếp tục chạy được lâu nữa.

Một chiếc xe ngang qua chỗ nó, lao rất nhanh theo hướng ngược lại. Những ý nghĩ táo bạo thoáng xuất hiện trong đầu Simon, khi nó cảm thấy mặt đường ngày càng cứng dưới đế dép cao su mỏng: nó có thể kêu lên và vẫy chiếc xe, hoặc chạy vào một ngôi nhà nhỏ ven đường xin trú nhờ khi nào chạy gần tới làng hơn. Nhưng thằng nhóc Bill giờ đây đã có một gã đàn ông đi cùng, và gã đó dám bịa ra một câu chuyện gì đó với bất cứ người lạ nào mà Simon muốn nhờ giúp đỡ, và người đó có thể sẽ tin câu chuyện của gã chứ không tin nó...

"Dừng lại!" một giọng trầm vang lên đằng sau nó. Tuyệt vọng, Simon càng cố gắng lao người về phía trước nhanh hơn. Mọi chuyện sẽ kết thúc nếu bọn người kia bắt được nó. Chúng sẽ có bản viết cổ trong tay và toàn bộ bí mật. Sẽ chẳng còn gì nữa cả. Nó sẽ làm mất niềm hy vọng cuối cùng, và nó sẽ khiến ông Gumerry thất vọng...

Hơi thở của nó giờ hổn hển một cách khó nhọc và bước chân nó bắt đầu lảo đảo. Có một đoạn đường giao nhau đằng trước. Tiếng bước chân cả quyết đằng sau càng lúc càng to hơn; nó tưởng như có thể nghe được hơi thở của những kẻ đang rượt đuổi. Nó nghe thấy tiếng thằng Bill hét lên với vẻ đắc thắng: "Nhanh lên... lào..." Tiếng nói nghe xa hơn tiếng bước chân. Chắc kẻ theo ngay sau nó là gã đàn ông kia, gần như đã đuổi bén gót, tiếng bước chân của gã huỳnh huỵch mỗi lúc một gần hơn...

Simon bắt đầu thấy mình thở ra đằng tai. Đoạn đường giao nhau ở ngay trước mặt nhưng nó hầu như không còn nhìn thấy. Nó mơ hồ nghe thấy tiếng nổ ầm ầm của một cỗ động cơ xe ở rất gần bên cạnh, nhưng cái đầu đã quá mệt mỏi của nó chẳng ghi nhận được gì nữa. Có tiếng kêu lạch cạch và tiếng phanh rít lên ở giữa đoạn đường giao nhau khiến nó suýt nữa thì đâm sầm vào cái mui gỉ sét của một chiếc xe to.

Simon loạng choạng dừng lại và toan tránh sang một bên, chỉ còn ý thức được nỗi hiểm nguy đang rình rập sát sau gót. Và rồi, như bầu trời chạng vạng tối chợt bừng lên ánh mặt trời, nó nhận thấy Ông Merry đang nghiêng người qua cửa kính ôtô.

Động cơ chiếc xe lại rú lên. "Vào đi, phía bên kia!" Ông Merry hét lên với Simon qua cửa kính.

Nức nở vì nhẹ nhõm cả người, Simon lảo đảo chạy vòng ra đằng sau ôtô, vặn mạnh cái tay nắm cửa xe ở phía bên kia. Nó ngã phịch xuống cái ghế xe kêu cọt kẹt và sập cửa lại trong khi Ông Merry nắm lấy cần số và nhấn ga. Chiếc xe chồm lên trước, xốc qua khúc quành rồi phóng đi. 

Hết chương 6. Mời các bạn đón đọc chương 7!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/35401


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận