Bên ngoài bức tường của khu Do Thái, bệnh dịch hạch đang hoành hành trong toàn thành phố. Nhà vua cùng triều đình và quân lính đã bỏ chạy từ lâu. Khu Do Thái như một hòn đảo trong lòng thành phố đang hấp hối. Khu phố có tường rất cao bao quanh, trổ bốn cổng, chìa khoá cổng được giao cho các phó thị trưởng và các ủy viên hội đồng thành phố. Họ cùng nhau trông nom sao cho cổng được khoá cẩn thận trong những ngày hội tôn giáo: Do Thái hay Thiên Chúa giáo và cả ban đêm. Nhưng hiện giờ những chiếc cổng đó thường xuyên đóng im ỉm. Không một người Do Thái nào dám rời ghetto (khu Do Thái). Thử nghĩ xem, đằng sau bức tường kia, dịch hạch đang hoành hành, cướp đi mạng sống của hết thảy giàu, nghèo, già, trẻ! Bên trong ghetto, sát cạnh cổng, ngày đêm người ta đun nước trong các thùng ton-nô lớn. Những cuộn hơi nước dày đặc bốc lên không trung. Đám phụ nữ phải chăm lo sao cho luôn có thật nhiều nước nóng. Những người Do Thái hiếm hoi buộc lòng phải vượt qua cổng ghetto thì được lệnh phải tắm rửa kỹ càng khi trở về. Đứng sau cổng lớn, họ phải bỏ hết quần áo, giày dép, lau rửa bằng nước nóng từ đầu đến chân và đọc bổn kinh. Đến lúc này, dịch hạch vẫn chưa qua được bức tường cao của ghetto. Người dân thành phố tin rằng đó là bằng cớ không thể chối cãi được, dân Do Thái chính là nguồn gốc của căn bệnh quái ác này. Trong thành phố, sự hằn học và giận dữ đối với người Do Thái dâng cao. Một cuộc nổi dậy để tàn sát và cướp bóc chống lại cộng đồng Do Thái đang được nhen nhóm: Sự hoảng sợ như có thể sờ thấy được trong ghetto. Trừ trẻ con, dân chúng ai nấy đều biết thế nào là cuộc tấn công của đám quần chúng tuyệt vọng và điên giận. Nhiều người đã trải qua cảnh ấy, những người khác thì nghe cha mẹ kể lại. Nhưng tất cả đều biết rằng lúc này mối đe dọa đang lớn dần lên.
Đàn ông cầu nguyện. Các triết gia và các giáo trưởng lục tìm trong đống giấy tờ tổ tiên để lại sự mô tả những cảnh tương tự. Đàn bà giặt giũ, chà xát bằng nước nóng từng nếp áo quần nhỏ nhất, từng góc bát đĩa bé nhất, từng món thức ăn nhỏ nhất.
Hội đồng các nhà hiền triết họp đã nhiều ngày. Những người thông minh nhất, được kính trọng nhất cùng nhau tìm cách cứu lấy sinh mạng và tài sản của đồng bào họ.
Buổi chiều, trong phòng họp là sự im lặng hoàn toàn. Đó là dấu hiệu của mệt mỏi. Cuối cùng vị phó thị trưởng lên tiếng:
- Chúng ta chỉ còn có cách đi cầu xin sự giúp đỡ của Đức vua.
- Nhà vua không có thiện cảm với dân Do Thái. Giáo trưởng Baroukh ben Yéhuda nhắc ông.
- Nhưng ngài ấy cũng phải nhớ rằng nếu dân chúng tàn phá khu Do Thái, giết chóc dân lành thì nhà vua sẽ mất đi những khoản thuế lớn. Vị phó thị trưởng phản bác lại.
- Nhưng làm sao ta đến được chỗ nhà vua? Một trong các vị hiền triết hỏi. Ai có thể bình an vô sự vượt qua đoạn đường nguy hiểm ngăn cách ghetto với thành phố?
- Chính tôi sẽ đi, Baroukh ben Yéhuda nói. Nhiều năm trước đây, ông thân sinh quá cố của tôi là Yéhuda ben Mordechaê đã chữa lành bệnh cho nhà vua, khi ấy còn là đứa trẻ. Có thể ngài vẫn còn nhớ.
- Không, có thể ông sẽ lại gặp chuyện gì đó chẳng lành trước khi gặp được nhà vua. Không nên liều mạng. Hãy chỉ định một trong những học trò của ông đi. Phó thị trưởng phản đối.
- Ông muốn để một người trai trẻ liều mạng ư?
- Liều mạng ai cũng là bất công. Nhưng mạng sống của toàn thể cộng đồng đang bị đe dọa. Tốt hơn cả là chúng ta hãy cử đi một người có đôi chân nhanh nhẹn. Nếu mất anh ta, chúng ta sẽ mất một người có học vấn. Nếu mất ông, chính ông, chúng ta sẽ mất nhiều người có học vấn và chẳng còn ai để dạy dỗ cho con cái chúng ta.
Mọi người đều tán thành. Vị giáo trưởng phải lựa chọn một trong những môn sinh của mình. Làm thế nào để hoàn thành được sứ mạng nguy hiểm này? Jacob điển trai, con một nhà hào phú giàu nhất ghetto, người đã học được từ cha cách làm sao mua chuộc được tất cả đám quan lại của nhà vua? Hay là anh chàng Moshe nghiêm nghị, chăm chỉ và đầy tham vọng? Có lẽ phải giao sứ mạng này cho anh chàng Samuel vui tính và năng nổ, con trai một bà góa rất nghèo, và là người học trò duy nhất được học không mất tiền.
- Vậy thì ta sẽ cử ai đến gặp nhà vua đây? Phó thị trưởng hỏi, cắt đứt dòng suy nghĩ của giáo trưởng.
- Hãy để hội đồng các nhà hiền triết chọn ra người nào thích hợp nhất, giáo trưởng nói. Ta hãy gọi tới đây ba cậu môn sinh của tôi: Jacob, Moshe và Samuel.
- Đến đi, Samuel, Jacob nói, chạm nhẹ vào vai chàng trai.
Samuel giật nảy mình, giấu vội Những cuộc phiêu lưu của Thủy thủ Sindbad dưới cuốn sách học. Anh e ngại liếc nhìn Jacob. Cả hai cùng tuổi nhau.
- Các cậu, cậu và Moshe có đi không? Samuel hỏi. Anh tự hỏi không biết Jacob có thấy mình chẳng hề nghiên cứu cuốn Nghị luận của Torah(1), mà lại đang đọc những chuyện phiêu lưu rất hấp dẫn của anh chàng thủy thủ ả rập, dịch từ tiếng La-tinh không.
- Cậu đang làm gì vậy, Samuel, lúc người hầu đến báo rằng người ta gọi chúng ta đến hội đồng các nhà hiền triết? Jacob hỏi.
Moshe nghiêm nghị nhướn cặp lông mày đen. Anh nhún vai như muốn nói chính anh cũng đang muốn hỏi Samuel câu đó.
- Làm sao mà cậu lại không nghe thấy? Jacob nói thêm.
Moshe lại gật đầu. Anh là người học trò chuyên cần nhất của giáo trưởng. Anh và Samuel không ưa nhau lắm vì tính nết họ rất khác nhau. Samuel thường trầm ngâm, mơ màng, mắt nhìn xa xăm, Moshe thì chỉ ngừng đọc sách để cầu nguyện hay ăn uống. Anh học thuộc lòng tất cả và bao giờ cũng trả lời được tất cả các câu hỏi. Ngược lại, Sammuel lại biết đặt ra với giáo trưởng những câu hỏi rất hay. Sự khôn ngoan của người Do Thái dạy rằng dấu hiệu của học vấn không phải nằm trong một câu trả lời học thuộc lòng mà ở trong một câu hỏi đặt khéo.
Samuel chẳng nói một lời, đội mũ, rửa tay ba lần và đi theo các bạn. Moshe cáu tiết vì sự bình thản của Samuel. "Hắn đang nghiên cứu Nghị luận của Torah đến chương nào rồi? Anh bối rối tự hỏi. Hắn có biết rằng được mời đến hội đồng hiền giả là một vinh dự đối với người trẻ tuổi như chúng ta không?"
Lát sau, ba chàng môn sinh đến tòa thị chính. Các uỷ viên hội đồng, các nhà hiền triết ngắm họ kỹ càng. Vị phó thị trưởng trình bày nhiệm vụ khó khăn sẽ được uỷ thác cho một người trong số họ. Ông hỏi:
- Người nào trong số ba anh tự thấy mình có đủ khả năng để làm tròn sứ mạng này?
Cả ba giơ tay. Các vị hiền triết lại không muốn chịu trách nhiệm về việc đó: Họ vẫn còn như những đứa trẻ.
Phó thị trưởng khuyên:
- Hãy về gặp cha các anh và bàn với các ông về chuyện này.
Rồi nhớ ra Samuel không còn cha, ông bảo anh:
- Hãy về nhà và suy nghĩ cho kỹ.
Jacob là người quay lại trước tiên.
- Cha tôi đã ban phước cho tôi, cho tôi cỗ xe ngựa của ông, những con ngựa đóng xe chạy nhanh nhất, tiền để mua chuộc đám lính gác và những người hầu khỏe nhất để bảo vệ tôi trước những kẻ mưu toan chống lại sứ mệnh của tôi.
Jacob đã quên không nói nốt: Cha anh còn cho anh hay rằng sứ mạng này cũng đem lại cho ông một lợi ích riêng. Khi gặp nhà vua xin che chở cho ghetto, anh con sẽ nhân cơ hội đề nghị với vua một khoản vay với lãi suất có lời. Biết đâu, ông có thể trở thành một chủ ngân hàng quan trọng của nhà vua.
Moshe đến ngay sau đó, nói:
- Cha tôi đã ban phước lành cho tôi và dặn rằng phải khôn ngoan và thận trọng hơn bình thường.
Nhưng anh không kể cha mình đã cho hay anh có thể có được mối lợi riêng nào từ một cuộc gặp mặt như thế với nhà vua. Anh sẽ có dịp tỏ rõ sự học vấn và sự khôn ngoan của mình. Ai mà biết được, một ngày kia, có thể nhà vua sẽ phong cho anh chức thị trưởng lớn.
Samuel đến sau cùng.
- Tôi biết làm thế nào để vượt qua các trở ngại và gạt được đám lính gác.
Nhưng anh cũng không cụ thể nhắc tới ý tưởng của bà mẹ tinh khôn của mình. Thoạt nghe tin, bà cụp mắt xuống, lo lắng. Sau khi suy nghĩ, bà mách nước cho Samuel cách làm thế nào để rời thành phố một cách bí mật.
Tất cả các vị hiền triết đồng tình giao sứ mạng cho Jacob. Anh này chuẩn bị rất kỹ để thi hành nhiệm vụ. Sáng hôm sau, khi cánh cổng của ghetto mở toang, chiếc xe ngựa trong đó có Jacob đang thu mình cùng hai người có vũ trang lao về phía cổng thành phố. Các vị hiền triết dự tính rằng Jacob sẽ trở về vào buổi lễ chiều. Nhưng ngày hôm sau đó, cả ngày sau nữa, anh ta không về. "Nhà vua thích Jacob quá, đến nỗi đã giữ Jacob lại bên mình." Những người Do Thái trong ghetto kể lể ghen tị. "Nhưng tại sao nhà vua không phái quân đội đến bảo vệ chúng ta?" Họ ngạc nhiên, sợ hãi nhìn cánh cổng của ghetto. Đằng sau cổng là những tiếng kêu la giận dữ, những lời đe dọa. Ngày thứ tư, các vị hiền triết cho gọi Moshe đến.
- Sứ mạng của anh bây giờ lại càng khó khăn hơn. Không những anh phải đến gặp nhà vua xin giúp đỡ, mà còn phải tìm ra Jacob.
Moshe liền học thuộc lòng những đoạn quan trọng nhất của kinh Talmud(2) và những trích dẫn khôn ngoan nhất của tổ tiên.
Kế hoạch của anh là không ngừng nhẩm lại những lời răn dạy ấy, để không còn nghe thấy những người xung quanh nói gì. Anh nghĩ tất cả những người gặp trên đường sẽ tưởng anh vừa câm vừa điếc. Còn có thể hỏi gì từ một người câm điếc?
Mọi người lại chờ đợi mấy ngày. Nhưng cả quân đội nhà vua lẫn Moshe đều không thấy xuất hiện. Sau cánh cổng của ghetto, quần chúng giận dữ ngày càng đông lên.
Nhiều người đã lên tường thành ném vào đường phố của khu Do Thái xác những con vật chết vì nhiễm bệnh. Jacob và Moshe đi đã năm ngày mà vẫn không trở về. Tất cả các vị hiền triết, giáo trưởng, cha của Jacob và Moshe đều đến nhà của Samuel.
- Anh là hy vọng cuối cùng của chúng ta, họ nói và giao cho anh bản tấu trình lên nhà vua mà giáo trưởng đã thảo đến lần thứ ba.
- Tôi sẽ đưa bạc và vàng cho anh, cha Jacob nói với Samuel. Anh hãy giao tất cả cho con tôi để hắn cung tiến vua. Nếu anh gặp vua trước con tôi, chính anh sẽ dâng lên ngài nhưng đừng quên nói rằng đây là quà của cha Jacob.
- Không, tôi sẽ không mang theo vàng bạc. Tôi chỉ cần một tấm khăn liệm lớn màu trắng.
"Chàng trai này có đủ khôn ngoan để đối mặt với cái chết." Giáo trưởng suy nghĩ, với một nỗi buồn sâu sắc. Rồi ông hỏi:
- Sáng mai con sẽ đi theo cổng nào?
Ông muốn đến đó để chúc phúc cho Samuel trước khi anh đi.
- Con sẽ không đi sáng mai, mà ngay tối nay. Nhưng không cần mở cổng. Xin cho con một chiếc ghế đẩu dài và nhẹ. Tối nay xin hãy đặt ghế ở chân tường giữa cổng đông và cổngnam.
- Anh muốn trèo tường và đi qua thành phố trong đêm à? Các vị hiền triết kêu lên.
Giáo trưởng cảm động nói:
- Samuel, con biết rằng mình chắc chắn đi tới chỗ chết nên mới yêu cầu một tấm vải liệm trắng phải không? Nhưng ta không muốn mất đi người học trò tài năng nhất của ta.
- Thầy đã dạy chúng con rằng: Đấng Toàn năng che chở cho người mà ngài yêu mến, bằng cách phú cho người đó những phẩm chất hơn người, Samuel trả lời. Nếu con thực sự là người tài năng nhất thì thầy không cần phải lo lắng cho con.
Đêm xuống, Samuel xoa lên mặt một lớp bột trắng và trùm tấm vải liệm trắng lên trên chiếc áo dài. Anh giấu dưới áo một cái bánh và một bình đầy nước đã đun sôi, mang một cái đèn và trùm từ đầu đến chân một chiếc áo trùm đen.
- Con đã sẵn sàng, anh nói với mẹ.
Trăng biến mất sau đám mây dày. Samuel và mẹ đi đến bên chân tường ghetto, Samuel cầm chiếc ghế đẩu, trèo lên. Sau đó anh ném chiếc áo choàng đen cho mẹ, nhấc ghế đẩu đặt sang bên kia tường, thận trọng trèo xuống, rồi giấu ghế vào trong bụi rậm.
Bất thình lình, anh nghe tiếng kêu:
- Một cái xác! Một người chết sống dậy!
Trong đêm tối, Samuel trông thấy những bóng người trốn chạy. Anh mỉm cười. Anh đã chờ phản ứng này: Trong bóng đêm, người ta chỉ trông thấy một cái bóng trắng kinh dị, và ở phía đầu là một vệt trắng lạ lùng. Đầu chiếc khăn liệm bay phần phật trong gió như những khúc xương cử động kỳ dị. Ánh lửa xanh của chiếc đèn chấp chới trong đêm đen. Sự hiện hình này khiến mọi người kinh hoàng và ù té chạy trốn. Samuel đi qua thành phố không gặp trở ngại gì. Bất thần, anh vấp phải cái gì đó. Nhìn xuống đất, anh không thể cầm được tiếng kêu đau đớn: Đó là thi thể đang nằm dài của Jacob. Xung quanh là xác của đám gia nhân.
Đầm đìa nước mắt, Samuel tiếp tục lảo đảo tiến lên. Anh không thể ngoảnh mặt trước những cảnh tượng khủng khiếp trong thành phố. Chẳng bao lâu, anh tới cổng thành. Anh phát hiện ra xác của Moshe, người đã bị lính gác thành phố giết khi yêu cầu mở cổng thành. Samuel hiểu rõ đã đến thời điểm quyết định không chỉ sự sống chết của anh mà của toàn ghetto.
- Ê, tên kia, lại đây! Một tên lính gác réo. Samuel bước vài bước. Anh không hiểu tại sao bọn lính không thấy ngại anh, hơn nữa chúng còn gọi anh đến gần.
- Cuối cùng địa ngục đã phái đến một thằng người chết nữa để giúp chúng ta rũ bỏ đám xác kia. Không thể nào mà đóng được cổng nữa, một giọng kêu lên.
Samuel lưỡng lự. Anh có thể len qua cánh cổng đang hé mở. Nhưng anh quyết định không theo con đường bất trắc ấy. Bọn say rượu có thể tấn công một cách man rợ hay lại sợ hãi bỏ chạy. Nhẹ nhàng, anh lảng xa dọc bờ thành, tìm một trong những lỗ hổng trên tường do đạn đại bác, mà anh đã đọc thấy mô tả trong một quyển sách sử. Nhưng bóng đêm dày đặc. Ánh sáng chập chờn của ngọn đèn chỉ có thể soi được một diện tích nhỏ hẹp.
- Chúa tôi, xin người hãy giúp con cứu dân tộc mình, Samuel cầu nguyện.
Đúng lúc đó, đám mây tản ra, và ánh trăng soi tỏ tường bao. Samuel nhìn rõ vài vết nứt trên bức tường.
Lát sau, anh đã ở ngoài thành phố. Anh tiến vào một khu rừng nhỏ gần đấy. Anh lấy bình nước ra rửa mặt, rửa tay, cầu kinh và ăn chiếc bánh. Anh xin Chúa ban cho anh vài giờ ngủ cho lại sức. Trưa hôm sau, có một chàng trai, ăn mặc theo kiểu Do Thái, xuất hiện trước đám lính canh lều hoàng gia.
Thoạt đầu bọn lính định đuổi anh đi, nhưng không được. Chúng phải dẫn anh tới trước viên chỉ huy. Samuel nói:
- Tên tôi là Samuel. Tôi đến từ ghetto. Tôi có điều xin được tâu trình với Đức vua.
- Mi muốn gì, tên Do Thái? Viên chỉ huy hỏi, ngờ vực.
- Cộng đồng của tôi yêu cầu tôi trình lên nhà vua một điều, Samuel bình tĩnh đáp.
- Mi hãy đưa bạc và vàng đây cho ta, viên chỉ huy làm ra bộ nghiêm nghị để che giấu niềm vui.
"Ta sẽ giữ bạc và vàng của người Do Thái. Cố nhiên chỉ một phần thôi, vì ta là người thật thà, ta biết thế nào là danh dự."
- Ta sẽ chuyển số quà này cho người giúp việc cho phụ tá của quan coi ngân khố của nhà vua: Ông này sẽ chuyển cho quan...
- Tôi không mang theo bạc vàng.
- Tên Do Thái, sao mi dám đến gặp nhà vua mà không có quà biếu?
Viên chỉ huy vệ binh của nhà vua nổi giận, vì giấc mơ bạc vàng của gã chợt tan biến. Gã vung kiếm: Tên Do Thái này đã vi phạm lệnh cấm rời thành phố, nơi bệnh dịch hạch đang hoành hành. Hắn có thể làm lây nhiễm cho cả triều đình, cho cả Đức vua nữa.
- Hãy thong thả đã, Samuel nhẹ nhàng nói. Tôi không nói rằng tôi không mang chút quà gì, tôi chỉ nói tôi không mang theo bạc và vàng. Tôi có một thứ quà dâng vua quý hơn tất cả, nhưng lại không thể cất nó vào trong một cái hòm.
- Cái gì thế? Viên chỉ huy hỏi, trí tò mò bị kích động.
- Sức khỏe.
- Phương thuốc để chống lại dịch hạch à? Viên chỉ huy cố đoán.
- Phải, ông hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra cho ông, cho tất cả triều đình, cho cả nhà vua, nếu ông không báo cho ngài hay, hoặc là ông giết tôi.
Viên chỉ huy suy nghĩ. Như tất cả mọi người, gã biết rằng người Do Thái có một thứ thuốc bí mật gì đó bảo vệ họ chống lại bệnh dịch hạch. Và nếu quả thực tên Do Thái trẻ tuổi này đến để truyền cho triều đình cái bí mật ấy? Gã chỉ còn cách đưa hắn đến chỗ viên thơ lại của nhà vua. Khi viên thơ lại biết người Do Thái trẻ mang đến thông điệp gì, ông ta vội chạy đến báo cho nhà vua. Vua cho vời Samuel không chút chậm trễ.
- Ta nghe đây! Nhà vua sốt ruột kêu lên. Ngươi giấu thuốc ở đâu?
Samuel cúi mình trước nhà vua, rồi trình lên bức thư của giáo trưởng. Anh lặng lẽ đợi cho vua đọc xong.
- Không phải là đơn thuốc, mà chỉ là lời cầu xin được che chở, vua quát.
- Tâu Hoàng thượng, ngài cũng đang có nguy cơ chuốc lấy cái chết như chúng thần, Samuel nói. Nếu ngài phái quân đội đến bảo vệ dân Do Thái, chống lại cơn giận dữ của đám đông, giáo trưởng của chúng thần sẽ nói rõ vì sao bệnh dịch hạch đã tránh cộng đồng Do Thái.
- Chính ngươi phải nói ra! Sau đó ta sẽ xem xem có thể thỏa mãn lời thỉnh cầu của giáo trưởng và hội đồng hiền triết hay không.
- Thần không thể.
- Sao? Ngươi không biết cái bí mật đó à? Nếu ngươi không có được cái bí mật đó thì tại sao ta phải tin ngươi?
- Thần biết. Nó rất đơn giản, mỗi người Do Thái đều biết. Nhưng nếu Đức vua không tin thần, thì tại sao thần phải tin ngài?
Nhà vua nổi giận.
- Ngươi dám nói năng như thế với Đức vua của ngươi sao?
- Điều đó quá đơn giản, vì mạng sống của thần, của tất cả dân Do Thái nay đang nằm trong tay Bệ hạ. Tính mạng của con trai Bệ hạ, của tất cả quần thần cũng vậy. Chẳng bao lâu họ sẽ bị lây nhiễm. Ngay cả Bệ hạ cũng không thể thoát. Hoặc Bệ hạ phái quân đội đến cứu dân Do Thái khỏi cuộc tàn sát và gọi giáo trưởng đến để nói ra điều bí mật, hoặc là...
Nhà vua hiểu ra.
- Ta sẽ cử quân đội đến. Ngươi sẽ theo họ đến ghetto. Sau đó ngươi sẽ trở lại đây với giáo trưởng.
- Đội ơn Bệ hạ. Nhưng đó chưa phải là tất cả.
- Còn gì nữa.
- Thần cần những vệ sĩ dũng cảm để bảo vệ cho thần và giáo trưởng trên đường trở lại.
Lính nhà vua đã giải tán đám đông tụ tập trước cổng ghetto và đứng gác luôn ở đó. Samuel được mọi người trong ghetto vui mừng chào đón. Nhưng niềm hân hoan của họ xẹp ngay xuống khi biết tin về Jacob và Moshe.
- Chúa đã không đến giúp họ, vì tư tưởng của họ không trong sáng. Họ quan tâm đến những tham vọng của mình hơn là đến lợi ích sống còn của ghetto, vị giáo trưởng đã giải thích với Samuel như thế trên đường trở lại chỗ đóng trại của nhà vua.
Khi họ đến trước lều ngự, người ta để cho họ vào không chậm trễ. Nhà vua đang nóng lòng chờ họ. Bệnh tình của con ngài ngày một trầm trọng thêm.
- Nếu ngươi tiết lộ cái bí mật đã làm cho các ngươi tránh được cái chết tối tăm và nếu ngươi chữa lành bệnh cho con ta, ta sẽ cho ban bố những sắc luật bảo vệ dân Do Thái, nhà vua tuyên bố.
Và ngài nói thêm, nôn nóng:
- Nhưng phải nói cho nhanh những điều chủ yếu. Không được dài dòng và đầy những lời bóng gió thông thái như dân Do Thái các ngươi vẫn thường nói.
- Điều chủ yếu của bí mật, đó là bàn tay sạch, giáo trưởng trả lời.
- Tất cả chỉ có thế thôi sao?
Rõ là nhà vua không tin vào tai mình nữa.
- Nếu Bệ hạ muốn biết cơ sở của điều đó, Baroukh ben Yéhuda nói. Nếu Bệ hạ muốn biết điều bí mật, thì phải có lòng kiên nhẫn để lắng nghe, có ý chí để nhắc nhở mình và nghiêm chỉnh làm theo. Chỉ có như thế thì con trai Bệ hạ và các quần thần mới có thể khỏi bệnh và dịch hạch từ nay mới vĩnh viễn tránh xa thần dân của người và chính người nữa.
- Vậy thì hãy nói đi! Nhà vua hạ lệnh.
Bắt gặp cái nhìn đặc biệt bình thản của vị giáo trưởng, nhà vua dịu giọng:
- Ta nghe đây. Ta sẽ có đủ kiên nhẫn và sự tuân thủ.
- Mỗi người Do Thái đều chăm lo sao cho hai bàn tay được sạch trước khi đụng đến thức ăn. Từ tấm bé, họ đã phải học những qui tắc của sự sạch sẽ, thể hiện trong luật của Chúa trời. Trước mỗi bữa ăn, họ rửa bàn tay phải bằng nước trong một cái bình do bàn tay trái cầm. Sau đó họ chuyển cái bình sang tay kia và rửa bàn tay trái, rồi lại chuyển, lại rửa lần nữa bàn tay phải. Như thế thì bàn tay phải, bàn tay động đến thức ăn, sẽ được rửa hai lần. Sau đó họ đọc một đoạn kinh cầu nguyện ngắn. Và trước khi bánh mì được ban phước, họ không nói năng gì nữa, không làm gì nữa, chỉ nghĩ đến duy nhất một điều là không được làm bẩn tay. Khi dịch hạch hay những bệnh tật khác hoành hành, họ nấu nước để rửa ráy hay uống...
Nhà vua kiên nhẫn lắng nghe việc người Do Thái tắm ít nhất mỗi tuần một lần, trước ngày lễ shabbat, tại những nơi đặc biệt mà người ta phải kiểm tra xem nước có sạch không một cách ngặt nghèo.
- Nhưng điều chủ yếu là giữ cho bàn tay được sạch, giáo trưởng nhắc lại. Một người Do Thái thực thụ thà nhịn đói còn hơn là động vào đĩa thức ăn với bàn tay bẩn.
Nhà vua cấm Samuel và giáo trưởng không được rời khỏi triều đình, trong thời gian đủ để kiểm chứng điều mà họ nói. Ông hạ lệnh cho con mình và tất cả những người bệnh phải tuân theo những qui tắc vệ sinh của người Do Thái. Bản thân ông cũng làm gương.
Các vị thái y của triều đình lắc đầu ngạc nhiên. Chẳng bao lâu con trai của vua đã đỡ và tất cả các bệnh nhân cũng dần khỏi bệnh. Hơn thế, không một ai mắc bệnh nữa. Nhà vua liền ra lệnh tất cả phải rửa tay trước mỗi bữa ăn. Cứ như thế, cuối cùng bệnh dịch hạch biến mất.
- Ta muốn phong ngươi làm đại giáo trưởng, nhà vua nói, ngài đang muốn thưởng công cho Baroukh ben Yéhuda.
Baroukh cảm ơn nhưng khước từ.
- Tâu Hoàng thượng, thần rất tiếc nhưng thần có nhiều học trò quá và còn nhiều đứa nữa đến nhà thần xin học.
- Ta sẽ phong ngươi làm quan chủ sự ngân khố của ta, vua quay về phía Samuel, nói.
Anh này tạ ơn nhưng cũng xin khước từ. Tài chính hay thương mại không cám dỗ được anh.
- Vậy ta sẽ phong ngươi làm đệ nhất cố vấn của ta, nhà vua cố thử một lần nữa.
Một lần nữa Samuel từ chối.
- Nói xem ngươi mong muốn gì? Phần thưởng nào sẽ làm ngươi vừa lòng?
- Đạo luật mà Bệ hạ hứa ban hành. Nó sẽ che chở cho nhân dân của thần và tài sản của họ. Nó sẽ khiến cho họ được sống bình yên với tín ngưỡng của mình. Đó sẽ là phần thưởng tốt đẹp nhất mà Bệ hạ ban cho thần và nhân dân của thần.
Dân chúng trong vương quốc sửng sốt thấy nhà vua đột nhiên che chở cho người Do Thái. Họ càng kinh ngạc hơn khi vua cho ban bố những đạo luật cấm không được đánh đập người Do Thái, càng không được giết họ, nếu không sẽ bị trị tội. Tiếc thay, những luật ấy không tồn tại được lâu.
Nhà vua băng hà, người kế vị của ông chẳng ai khác là con trai ông, đã xóa bỏ chúng. Chẳng có ai ở bên đức vua mới để nhắc nhở ông rằng ít năm trước đây, ông đã được giáo trưởng Baroukh ben Yéhuda cứu mạng.