Truyện Kể Do Thái Truyện 3


Truyện 3
Người thứ mười.

Ngày thứ bảy ấy, thành phố nhỏ của Đức
bên bờ sông Rhin tỉnh giấc trong một buổi sáng mùa xuân tươi đẹp. Dân chúng của khu Do Thái đang chuẩn bị cho buổi lễ sáng tại một nhà thờ Do Thái cổ.

Trước đây ít lâu, làng Do Thái rất giàu, dân cư  đông đúc. Hiện giờ chỉ còn sót lại một số gia đình với hơn chục người lớn.

Trong số mười người ấy có Samuel, anh thợ giày trẻ tuổi. Anh đã sẵn sàng để đi, nhưng lại cảm thấy trĩu nặng sau mình cái nhìn lo âu của mẹ. Anh quay về phía bà, mỉm cười âu yếm.

- Mẹ à, mẹ biết rồi đấy, không nên buồn trong ngày lễ shabbat.

- Mẹ buồn ư? Bà mẹ phản đối. Ngay cả khi mẹ có buồn... Phải chăng không thể tưởng tượng được mặt trời không chiếu sáng trong ngày shabbat hay có một cơn giông ập đến? Phải chăng Chúa trời sẽ phật ý nếu một bà mẹ già không thấy vui trong ngày shabbat?

Rồi bà nói thêm:

- Hãy thận trọng, con trai. Đừng quên rằng nếu một người gặp nguy hiểm chết người, thì anh ta có quyền tự vệ và chiến đấu, ngay cả trong ngày hội shabbat.

Bà âu yếm nhìn con. Đó là một chàng trai mảnh dẻ, không đẹp lắm nhưng có đôi bàn tay khéo léo, cái đầu đầy tưởng tượng và những kiến thức đủ loại. Trên thực tế, Samuel không phải là một thợ giày bình thường. Anh là thợ giày giỏi nhất trong vùng. Người ta từ xa đến tìm anh vì giày anh đóng đi rất thoải mái và bền chắc. Nhưng họ còn đến gặp anh để xin lời khuyên vì Samuel đọc nhiều. Anh nghiên cứu và hay suy nghĩ về con người và thế giới.

Lúc này, Samuel chăm chú nhìn mẹ. Anh hiểu trái tim người mẹ linh cảm con mình đang gặp nguy hiểm. Không chỉ riêng anh mà cả mười thanh niên Do Thái đến tuổi trưởng thành trong khu Do Thái cũng vậy. Anh biết chuyện này sớm trước một tuần lễ, vào một chiều thứ sáu. Lúc đó, anh vừa dọn dẹp lại xưởng vừa vui vẻ chờ đợi phút mở đầu của ngày shabbat. Chợt trong khung cửa hiện ra một thiếu niên tóc hung tên  Christian, con người thợ thuộc da.

- Cậu làm gì đấy? Samuel mắng. Tôi đã bảo cậu là đừng đến ghetto gặp tôi nữa. Tôi cũng đã đề nghị với bố cậu đừng có cử cậu đến đây. Ông ấy biết nếu có chuyện gì xảy ra với cậu thì chính chúng tôi, những người Do Thái sẽ bị lên án trước tiên.

Samuel vờ làm mặt giận, nhưng thực ra anh rất quý Christian. Đó là một chú bé khéo léo và hiếu kỳ cứ không ngừng hỏi anh về đủ mọi chủ đề. Samuel đã cho chú mượn nhiều sách.

Một lần khi Samuel đến mua da thuộc về đóng giày, cha của Christian đã đề nghị anh dạy cho con trai mình nghề đóng giày. Ông hiểu rằng nếu Samuel không phải người Do Thái thì từ lâu anh đã trở thành trùm phường thợ giày và thợ thuộc da, và là một trong những người được đánh giá cao, được trọng vọng nhất trong cả nước. Nhưng là người Do Thái, anh chỉ được quyền bán giày của anh qua một người trung gian  không phải Do Thái. Chính cha của Christian, chủ xưởng thuộc da, là người đảm nhiệm việc đó. Vậy nên vì lòng biết ơn, chẳng lẽ Samuel lại không dạy cho Christian nghề đóng giày hay sao?

Samuel suy nghĩ rất lung. Sau đó anh đến xin lời khuyên của giáo trưởng Do Thái. Vị này chăm chú nghe anh nói, sau một hồi suy nghĩ, ông trả lời:

- Thật không bình thường khi một ông thầy Do Thái nhận một thiếu niên không Do Thái làm thợ học việc. Luật pháp của Đức không cấm nhưng rất khó đi ngược lại những thiên kiến đã ăn sâu bén rễ lâu đời. Cả hai người như vậy đều đặt mình vào tình thế nguy hiểm.

Samuel nhắc lại lời nói của giáo trưởng cho Christian và cha cậu nghe. Ông thợ thuộc da là người am hiểu, ông thừa nhận lời của giáo trưởng là đúng đắn và bảo Christian đừng đến xưởng thăm Samuel nữa.

- Cha em cử em đến để cảnh báo cho người Do Thái, Christian nói nhanh, lấm lét nhìn quanh.

- Cảnh báo cái gì? Về chuyện gì? Samuel hỏi, lo âu.

Người ta kể từ ít lâu nay, có một âm mưu đang nhen nhóm chống lại người Do Thái. Số ít gia đình không chịu rời bỏ khu phố quê hương, mồ mả tổ tiên và nhà thờ Do Thái cổ xưa đều bị cư dân thành phố nhìn với con mắt ác cảm.

Khác với xứ Hà Lan láng giềng, ở Đức, dân Do Thái không có một chút quyền hành và không được luật pháp nào che chở. Vì thế phần lớn dân của các ghetto ở Đức đều chuyển sang Hà Lan định cư, nơi mà, sau cuộc hưu chiến với Tây Ban Nha năm 1609, họ được hành nghề của họ một cách tự do, buôn bán, ngay cả tậu nhà, tậu đất.

- Cha em đã nghe nói ở ngoài quán ăn rằng họ muốn đuổi mọi người đi, muốn chiếm nhà của dân Do Thái, Christian hạ thấp giọng. Người ta đang chuẩn bị cho một cuộc tàn sát người Do Thái nhưng các hội viên hội đồng thành phố thì phản đối. Họ không muốn máu chảy trong thành phố của họ. Họ muốn thu xếp theo cách khác.

- Cách nào? Samuel hỏi.

- Họ muốn gây rối trong ngày lễ shabbat. Họ đã bắt một số kẻ lang thang nhưng sẽ không cầm tù chúng nếu chúng nhận lời tấn công một người Do Thái, ngăn không cho người này vào nhà thờ. Hình như nếu một người trong bọn anh không đến nhà thờ thì buổi lễ không thể tiến hành được. Em không biết cha em có hiểu rõ điều này không...

- Có, ông ấy hiểu rất rõ, Samuel suy tư.

- Dường như chỉ cần tóm được một người Do Thái, không cần làm người đó bị thương, chỉ cần ngăn người đó đến nhà thờ và thả họ ra sau ngày shabbat. Như thế người Do Thái không có bất cứ lý do gì để thưa kiện. Nhưng vì họ không tiến hành được nghi lễ ở nhà thờ, tự họ sẽ phải bỏ đi... Cha em nghe người ta nói tất cả những điều đó đều phải làm thật nhanh, khi mà chỉ có mười người trong khu Do Thái... Cha em hiểu thế có đúng không?

- Có, điều đó nữa ông cũng rất hiểu, Samuel buồn rầu khẳng định. Phải có ít nhất mười người Do Thái cho buổi lễ. Người ta gọi đó là buổi lễ cực tiểu. Nếu chúng ta chỉ có dưới mười người trong nhà thờ thì buổi lễ sẽ không thành.

Samuel nhận thấy các uỷ viên hội đồng thành phố đã tưởng tượng ra một kế hoạch tinh tế đến quỷ quyệt. Anh thấy sợ, nhưng không phải sợ cho tính mạng của mình. Anh mang theo một vài dụng cụ của thợ giày để tự vệ. Phải bí mật, vì trong ngày lễ shabbat, một người Do Thái không được mang trong mình bất cứ vũ khí gì, dù là một dụng cụ, ngay cả tiền. Nhưng Isaac, ông thợ may già, Léo, nhà văn của công chúng, Joseph, người thợ làm bánh ốm đau thì sẽ làm gì nhỉ? Họ thà chết chứ không vi phạm những luật lệ của ngày lễ shabbat. Hay anh sẽ phải thỏa thuận với Jonathan, anh thợ đồ gốm trẻ, với Baroukh, anh thợ kim hoàn dũng cảm, và ba anh thợ mộc, con của giáo trưởng, để mỗi thứ bảy lại đi tháp tùng những người không có khả năng tự vệ?

Đúng lúc đó, anh nghe tiếng của Christian:

- Samuel, em phải nói với anh, anh là người đầu tiên chúng muốn tấn công đấy.

- Tại sao lại là anh?

- Vì ở đây mọi người đều biết anh. Ngay cả các  vị trưởng giả giàu có ở Cologne cũng đến chỗ anh đóng giày. Khi những người Do Thái khác thấy rằng sẽ chẳng ai ra tay bênh vực một người như anh, họ sẽ sợ và họ sẽ chuồn. Nếu một trong những người Do Thái ốm yếu, già cả hay vô nghĩa không đi nhà thờ, những người khác không thèm quan tâm, và họ bình thản chờ cho một trong các anh đến tuổi trưởng thành.

Samuel hiểu rằng các uỷ viên hội đồng thành phố đã tỏ ra nhiều mưu mẹo. Sáu tháng nữa thì hai gã trai trong khu phố sẽ đến tuổi được tham dự lễ.

- Họ cũng muốn ngăn anh không được lấy vợ. Họ nghĩ rằng nếu họ tấn công anh, cô vợ chưa cưới của anh sẽ sợ hãi và rời bỏ khu phố như các cô gái khác đến tuổi lấy chồng, và sẽ không còn những đứa trẻ Do Thái nữa.

Christian cúi đầu.

- Cha cậu đã bảo cậu chuyển cho tôi những lời đó sao? Samuel hỏi, nghi ngờ.

- Phải. Anh biết rằng cha em không muốn anh đi Hà Lan. Ông bảo rằng khi đó sẽ không còn ai để ông tạo ra thứ da thuộc tốt hơn và mịn hơn. Nhưng ông cũng hiểu rằng anh không thể ở lại đây một mình mà không có những người Do Thái khác.

- Cậu hãy về nói với ông rằng tất cả chúng tôi sẽ ở lại, Samuel nói.

Với riêng mình, anh nhẹ nhàng thêm:

- Chúa sẽ giúp ta biết tự bảo vệ như thế nào.

Chính lúc đó, anh nhận ra rằng nếu anh cầu xin Chúa giúp đỡ thì anh không cần phải vi phạm luật của ngày shabbat.

Mùi thức ăn bốc lên từ trong bếp. Mẹ anh đang chuẩn bị bữa trưa truyền thống. Samuel mỉm cười. Anh vừa tìm ra cách tự vệ mà không trở nên quá tội lỗi.

Ngay buổi tối hôm đó, Samuel từ buổi lễ chầu thứ sáu trở về nhà. Tay anh đút trong túi, nắm chặt nắm hồ tiêu xay. Thình lình xuất hiện hai cái bóng lớn, hai kẻ to kềnh càng đứng chắn ngang đường của anh.

- Chào, Samuel lịch sự chào họ, vì thoạt đầu không nên cho những người lạ mặt là những tên vô lại. Thà bị một kẻ bất lương lừa bịp còn hơn là xúc phạm một người lương thiện bằng sự nghi ngờ.

- Không có chào hỏi gì hết, thằng Do Thái! Khôn hồn thì đi theo chúng tao, hoặc là chúng tao phải đánh gãy giò mày!

Nhanh như chớp Samuel rút tay ra khỏi túi, xòe tay và thổi hạt tiêu thẳng vào mặt chúng.

Chúng sững người vì kinh ngạc, nhắm chặt mắt, kêu toáng lên đau đớn.

Trong lúc đó, Samuel ù té chạy.

Về đến nhà, anh thở ra đằng tai. Bà mẹ ngạc nhiên:

- Từ lễ chầu về, con làm gì mà thở dốc ra thế?

- Con khiêu vũ vì vui sướng. Đêm nay các vì sao đẹp quá, Samuel trả lời, cười ngoác miệng.

Bà mẹ hiểu theo cách của bà:

- Chắc con đã thấy các vì sao trong mắt người đẹp Golda, bạn gái của con.

Bà yên tâm.

Hôm sau, sau lễ sáng thứ bảy, mọi người trở về nhà, không có chuyện gì xảy ra.

Trong lúc đó, hai tên vô lại bận chữa chạy những con mắt rát bỏng.

Một tuần lễ trôi qua. Tối thứ sáu, trong bộ đồ tề chỉnh, Samuel lại đến nhà thờ, anh hy vọng các uỷ viên hội đồng đã từ bỏ dự định chết người của họ.

Sáng thứ bảy, lúc ra khỏi nhà, anh bị trượt ngã. Một sợi dây thừng quấn quanh chân. Anh cúi xuống định gỡ ra. Nhưng một tấm lưới đánh cá đã chụp xuống. Càng giãy giụa, anh càng vướng vào nó. Bất thần, anh bị đánh một cú vào đầu, mắt mũi tối sầm lại.

Anh tỉnh dậy trong một căn hầm đá. Anh cố gắng giãy giụa nhưng tấm lưới và sợi thừng kiên cố khiến anh không thể cựa quậy mảy may. Anh cố kìm dòng nước mắt bất lực. Rồi anh định thần lại. Hôm nay là ngày shabbat và anh vẫn còn sống. Tay chân bị trói chặt, nhưng tư tưởng của anh vẫn tỉnh táo và hoạt động.

Thế là anh tưởng tượng mình vào nhà thờ, ngồi xuống ghế của mình. Anh nhìn hàng rào ngăn cách khu dành cho phụ nữ và khu dành cho cánh đàn ông. Anh không trông thấy Golda, nhưng anh biết như mọi lần, Golda đang ngồi bên phải mẹ nàng. Anh khẽ gật đầu làm hiệu về phía đó. Đó là điều cấm kỵ. Nhưng chắc Chúa sẽ tha tội cho anh về cái chào thương yêu đó gửi cho Golda.

Samuel lại tưởng tượng anh đang mở sách kinh. Hôm nay là ngày thứ mấy? Ngày thứ bảy cuối cùng của tháng nisan chăng? Điều đó có nghĩa người ta đang đọc chương về sự hy sinh đầu tiên của Aaron và các con trai, các luật về súc vật trong sạch và không trong sạch, về chim, cá. Sau lời cầu nguyện, người ta đọc chương thứ nhất về lời dạy của tổ tiên. Samuel nhìn rõ các trang sách... Linh hồn anh đang ở trong nhà thờ. Trong hầm tối, chỉ còn cái vỏ thân xác anh bị trói chặt, nằm dài.

- Người ta đã bắt cóc Samuel! Cậu em nhỏ của Golda vừa chạy đến nhà thờ vừa kêu. Chính mắt tôi trông thấy!

Golda tái xanh. Nàng quay về phía những người đàn ông đang đường hoàng tiến vào nhà thờ, đầy hy vọng.

- Hôm nay là ngày shabbat. Chúa trời đã ra lệnh cho tất cả chúng ta được nghỉ ngơi.

Vị giáo trưởng già không thèm để mắt đến cô gái đang tuyệt vọng.

- Tất cả vào trong nhà thờ, ông nói bằng một giọng cương nghị. Không ai được thấy sự sợ hãi trên khuôn mặt người Do Thái.

Ông vào nhà thờ. Tám người bước theo ông.

Những người phụ nữ xúm quanh Golda.

- Bình tĩnh lại, con gái. Chúng ta đều biết rằng  họ muốn làm ta sợ để buộc ta phải rời khỏi thành phố. Vì thế họ cố làm hỏng ngày shabbat của chúng ta. Chúng ta phải tỏ ra bình thản và vui vẻ, rồi sự thanh thản và niềm vui sẽ trở lại trong tim ta.

Golda cố cầm nước mắt, nhưng nàng không thể cười.

- Chỉ có chín người. Buổi lễ không thể tiến hành được, nàng nói, giọng run run.

Nhưng mẹ nàng giải thích với Golda và mọi người:

- Chúng ta cứ ở lại nhà thờ như thường lệ, như thể buổi lễ sẽ được tiến hành.

Phụ nữ ngồi lại tại chỗ. Trái với những ngày khác, khi mà họ nói chuyện vui vẻ, đôi lúc át cả tiếng cầu nguyện của đàn ông, lúc này một sự im lặng khác thường trùm lên khu vực dành cho họ.

Đột nhiên dường như có luồng khí lạnh lọt vào nhà thờ. Tất cả đàn ông và đàn bà kêu lên ngạc nhiên. Họ nhìn, nghi hoặc: Samuel đang ngồi ở chỗ quen thuộc của anh. Anh rất xanh xao, cử chỉ cứng nhắc một cách lạ lùng, nhưng điều quan trọng là anh đang ở đây.

Golda mỉm cười vui sướng. Nàng ngạc nhiên vì không thấy anh đến và tiếc là đã không nhận ra cái gật đầu mà anh vẫn ra hiệu cho nàng.

Vị giáo trưởng già chăm chú nhìn Samuel và những người đàn ông khác. Bây giờ đã đủ mười người. Buổi lễ có thể cử hành.

Bên ngoài, có hai người đàn ông đang quan sát nhà thờ.

- Nhìn kìa, tất cả bọn chúng đều ở trong nhà thờ. Buổi lễ đã bắt đầu. Tên trẻ hơn ngạc nhiên nói.

- Đừng sợ gì cả, tất cả chúng chỉ đang ngồi trong nhà thờ thôi, tên nhiều tuổi nói.

- Nhưng không. Mày có nghe thấy không. Chúng hát, kêu cầu Chúa của chúng, tên trẻ hơn nói tiếp.

- Vậy thì mày hãy tiến lại, nhìn kỹ xem, tên nhiều tuổi nói, tự tin. Đừng có nói với tao rằng thằng thợ giày đã thoát ra khỏi tấm lưới và dây trói. Cánh cửa gỗ sồi của căn hầm vẫn đóng kín và khóa chặt. Ngay cả khi Đấng Tối cao của chúng muốn cứu nó cũng không thể mở ra được.

Đúng lúc đó tên nhiều tuổi thấy vang lên tiếng đồng ca trong nhà thờ:

- Amen!

Gã cảm thấy nghi ngờ.

- Chúng ta lại xem xem! Gã đề nghị.

Chúng rón rén lại gần nhà thờ và nhìn vào bên trong qua một khe cửa hẹp. Chúng không còn tin vào những gì mình trông thấy: Samuel đang đứng, tay cầm quyển sách kinh.

Không cần chờ đợi thêm, chúng chạy về căn nhà bỏ hoang, tìm căn hầm, xem lại khóa và bản lề. Không có gì suy suyển.

- Mày thấy chưa, tất cả vẫn đâu vào đấy, tên lớn tuổi thì thào.

- Dù sao tao vẫn muốn xem bên trong, tên trẻ tuổi năn nỉ.

Tên kia nhún vai bằng lòng và mở cửa.

- Nhìn xem, nó vẫn ở đây. Gã để cho tên trẻ lại gần Samuel, đang nằm dài bất động trên mặt đất.

Tên trẻ đẩy nhẹ rồi lay gọi. Samuel không nhúc nhích.

Tên già nói:

- Nó ngủ như một con chuột sóc.

- Chúng ta cứ tưởng đã trông thấy nó ở nhà thờ.

- Chúng ta đã nhầm nó với ai đó.

- Tao muốn biết là nhầm với ai. Ta quay lại xem sao.

Khi chúng tới nhà thờ thì vừa đúng lúc những người Do Thái đi ra. Hai tên sợ cứng người, chúng thấy rõ cái bóng dong dỏng cao của anh thợ giày. Chúng còn thấy một người con gái rụt rè nói gì đó. Samuel không trả lời, chỉ khẽ gật đầu ưng thuận rồi họ đi nhanh xa nhà thờ.

Hai kẻ bắt cóc chạy theo, khó khăn lắm chúng mới khỏi mất hút họ. Chúng trông thấy Samuel dừng lại một lát nơi chúng đã trói anh, dường như để suy nghĩ. Rồi dáng đi của anh thay đổi. Anh không đi nữa mà bay là là, chầm chậm, khó nhọc. Cuối cùng anh đến trước ngôi nhà bỏ hoang nơi anh bị giam giữ. Hai kẻ gian đứng há hốc mồm: Anh thợ giày đi qua tường như đi qua không khí.

Chúng đến gần cửa hầm, run rẩy vì sợ. Lúc vừa mở cửa chúng trông thấy anh thợ giày cúi mình trên cái xác đang nằm sõng sượt và... tan hòa vào đó. Hai tên kinh hãi, đứng chết trân trên bậc cửa.

- Xin lỗi! Một giọng phụ nữ cất lên sau lưng chúng.

Chúng ngoái lại. Trước mặt chúng, bà mẹ mảnh dẻ của Samuel đang đứng. Mắt bà sáng lên một ánh lửa kỳ lạ. Trong tay bà lấp lánh lưỡi dao đe dọa. Khi phải bảo vệ tính mạng mình thì người ta có quyền chiến đấu, dù là trong ngày shabbat.

Hai kẻ bắt cóc kinh hoàng muốn bỏ chạy. Chúng không thấy bà mẹ Samuel đã giải thoát cho con trai như thế nào.

Anh thợ giày trẻ lại tham dự buổi lễ kết thúc hội  shabbat, toàn vẹn cả thân xác lẫn linh hồn. Ngoài anh và bà mẹ không ai biết rằng trong lễ chầu buổi sáng chỉ có linh hồn của anh là có mặt.

Sáu tháng sau, hai thanh niên của cộng đồng đến tuổi được tham dự các buổi lễ, chẳng bao lâu lại có hai thanh niên nữa.

Buổi lễ cực tiểu không còn bị đe dọa nữa. Dân số của ghetto tăng lên.

Trải qua nhiều thế hệ nữa, trong khu Do Thái, người ta vẫn còn kể chuyện anh thợ giày trẻ tuổi có thân mình mảnh dẻ nhưng tâm hồn rất mạnh mẽ đã cứu ghetto và ngôi nhà thờ cổ khỏi bị xóa sổ.


Hết truyện 3. Truyện tiếp theo sẽ được cập nhật trong thời gian nhanh nhất.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/26221


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận