Tài liệu: Đền Bôrôbudu - kỳ quan nghệ thuật phật giáo ở Inđonêsia

Tài liệu
Đền Bôrôbudu - kỳ quan nghệ thuật phật giáo ở Inđonêsia

Nội dung

ĐỀN BÔRÔBUDU – KỲ QUAN NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO Ở INDONESIA

 

Ở trung tâm Đảo Java (Indonesia) ngay chính giữa vùng đồng bằng Kedu phì nhiêu trù phú có núi non bao bọc, nổi lên một hòn núi nhân tạo - ngôi đền kỳ vĩ Bôrôbudu.

Trông xa, Bôrôbudu như một trái chín nằm giữa tán lá xanh của cảnh quan xung quanh chứ không phô ra, không tỏa hương mời chào. Chỉ có đến sát gần, đặt chân lên đền, mới tận mắt thấy được tất cả điều bí ẩn, tận hưởng hết những gì mà thiên tài và lao động của con người có thể làm ra được. Thoạt nhìn Bôrôbudu là cả một khối hỗn mang vô tổ chức, toàn bộ cấu trúc và ý đồ kiến trúc như biến đâu mất. Thế nhưng ngay tức thì, những hình điêu khắc đã mở ra cả một thế giới huyền bí. Các pho tượng Phật tuyệt vời ngồi trong các ô khám bên ngoài, những băng phù điêu dày đặc sẽ làm bạn say mê và đưa bạn vào mê cung của những hồi lang chạy vòng quanh qua cổng này đến cổng khác và qua nhiều tam cấp đá. Bước vào Bôrôbudu, ta có cảm giác như lọt vào một đô thành hoàn chỉnh có đường ngang ngõ tắt, chứ không phải là một ngôi đền bình thường.

Toàn bộ ngôi đền cao 42m. Chiều dài mỗi mặt ở chân đền là 123m. Muốn đi hết các bậc, các hồi lang của Bôrôbudu, người xem phải đi qua một chặng đường dài hơn 5000m.

Chỉ ở tầng cao mới có thể thấy được toàn bộ cấu trúc của Bôrôbudu. Nhìn từ trên cao, Bôrôbudu là một kiến trúc hình chóp gồm hai phần: phần tròn ở phía trên và phần vuông ở phía dưới. Phần tròn gồm tháp trung tâm hình chuông và ba tầng bậc tròn rộng đồng tâm bao quanh. Cấu trúc và đường nét của phần này đơn giản mà mang tính chất lược đồ; trong khi đó, khối chính phía trên của ngôi đền lại phức tạp về cấu trúc, toàn là những hình điêu khắc, chỉ riêng bình đồ chung là có dạng gần vuông. Sự đối lập về đặc trưng kiến trúc ở phần trên và phần dưới của ngôi đền đã tạo ra cho người xem hai cảm xúc khác nhau: nhịp điệu động ở dưới và phần tĩnh ở phần trên.

Kích thước, hình dáng và cấu trúc của Bôrôbudu khác xa những đền thờ truyền thống của Indonesia. Đây là một kiến trúc đồ sộ duy nhất ở Indonesia không mang chức năng đền thờ mà là một công trình tưởng niệm của Phật giáo - tháp.

Như mọi kiến trúc tháp Phật giáo, Bôrôbudu có cấu trúc ba lớp tương ứng với khái niệm tam giới (tridhatu) về Vũ trụ của Phật giáo. Theo triết lý nhà Phật, Vũ trụ gồm ba Thế giới: dục giới (kamadhatu) - Thế giới trần tục; sắc giới (rupadhatu) - Thế giới của những hình thể lý tưởng và vô sắc giới (arupadhatu) - Thế giới trừu tượng không hình hài. Cũng theo giáo lý của Phật giáo Đại thừa, Đức Phật hiện ra ở ba Thế giới được dưới dạng tam thân (trikay); Nhân Phật (Manusi - Budha) trong trạng thái hóa thân (nirmanakay); Thiền na Phật (Dhyani - Budha) trong trạng thái báo thân (sambhogakay); và Phật Bônsơ (Adi - Budha) trong trạng thái pháp nhân (dharmakay).

Sau thời phục chế (1971 -1983) cả một hồi lang của tầng nền ban đầu với gần 160 bức phù điêu đã được phát hiện ra. Như vậy, Bôrôbudu hiện nay có thêm một bậc hồi lang vuông nữa. Theo các nhà nghiên cứu, tất cả gồm 960 phù điêu ở tầng nền về cơ bản đều và hình minh họa cho văn bản Kácmaviphanga (nghiệp báo) ra đời vào thế kỷ thứ VII. Tác phẩm Kácmaviphanga này của Phật giáo Đại thừa mô tả những nghiệp báo của con người: ai ăn ở độc ác phải bị đầy xuống địa ngục, ai hiền lành phúc đức sẽ được hạnh phúc trên thiên đàng.

Song nội dung chính của phù điêu Bôrôbudu không phải những cảnh nghiệp báo hoặc cuộc đời trần tục mà là thế giới của những chiến công trí tuệ và tâm linh, thế giới của các Phật, các Bồ tát, các anh hùng đã giác ngộ, đã vượt khỏi cuộc đời tội lỗi ở trần gian. Để đến được thế giới đó, ta phải ra khỏi tầng nền vốn bị vùi lấp để lên tới bậc lộ thiên thứ nhất của ngôi đền.

Bậc thứ nhất là lối vòng quanh kiến trúc nhưng lại không có lan can bên ngoài như các bậc phía trên. Tường chính phía trong bị cắt ra thành từng ô chứa các hình chạm nổi thể hiện các thiên nhân bằng những hàng cột ốp nhô mạnh ra ngoài. Một bức diềm lớn ngăn cách phần điêu khắc với phía trên của tường - những ô khám hình bán nguyệt chứa tượng Phật bên trong.

Sau khi đi hết hai vòng (vòng nền và vòng chân đền) người xem mới có thể bước chân lên hồi lang thứ nhất. Dãy tường thấp bên ngoài có một hàng phù điêu, còn dãy tường chính cao có hai hàng. Nội dung của phù điêu ở hồi lang thứ nhất là những hình minh họa cho văn bản Lativitara mô tả cuộc đời trần thế của Đức Phật hiện tại - Phật thích Ca. Hàng phù điêu trên cao của tường chính có 120 phù điêu. Nội dung của các phù điêu kể lại những sự kiện chính trong cuộc đời Đức Phật: Đức Phật từ trời Tusita giáng thế xuống trần, Phật dưới dạng voi trắng chui vào sườn trái của Hoàng hậu Maia, Hoàng hậu Maia trên đường tới vườn Lumbini, Đức Phật ra đời dưới dạng Hoàng tử Sitdactha, Hoàng tử Sitdactha đi tu, cô gái nông thôn Sútjata dâng đồ ăn cho nhà tu hành Sakiamuni, Phật tịch diệt. . .

Ngoài 120 bức phù điêu về Đức Phật, ở tầng hồi lang thứ nhất còn có gần 200 bức phù điêu mô tả các cảnh lấy từ Giataca và Avadana.

Cả hồi lang thứ hai được dành cho minh họa văn bản Ganđabuha kể về Súthana, con trai một thương nhân đã từ bỏ cuộc đời trần tục để đi tìm chân lý. Chàng trở thành một môn đồ tin cậy của Bồ tát Manjutsri. Theo lời khuyên của thầy, Sútthana đã đi gặp không biết bao nhiêu Thánh nhân để đàm đạo và học tập. Cuối cùng, người con trai thương nhân đã đạt chính quả.

Gần 100 cảnh phù điêu bao phủ tường chính và lan can hồi lang thứ hai đều tập trung miêu tả các cuộc đàm đạo giữa các Thánh và Sútthana về giáo lý nhà Phật. Do nội dung chi phối nên các cảnh ở đây thiếu hẳn tính hấp dẫn và sự phát triển của hành động.

Những cảnh mang cốt truyện cứ ít dần đi theo bước chân lên cao của người xem. Nhưng, ở mỗi tầng trong bốn hồi lang đều có những phù điêu sinh động; không kém gì các phù điêu ở tầng hồi lang thứ nhất, Maitrêy gặp Thần Diêm Vương (Yama) thật sống động và hiện thực.

Khi đã đạt tới một trạng thái yên tĩnh và phần nào siêu thoát ở tầng hồi lang vuông cuối cùng, người xem bước tới ba tầng hồi lang tròn cuối cùng không có tường, không có lan can; ở đây chỉ có những bậc phẳng phiu, trơn nhẵn của các bậc hồi lang rộng và 72 tượng Phật ngồi trong 72 tháp chuông trổ ô hình mắt cáo (tầng một 32, tầng hai 24, tầng ba 16). Tới đây với sự vô biên của hình tròn, với sự lặp đi lặp lại của các hình Phật ngồi trầm tư siêu thoát, với sự mở ra vô biên, người xem như đã đạt tới trạng thái cuối cùng của nhận thức về vật thể.

Trên cùng, tại chính giữa, ngọn tháp chuông to như đưa tâm trí của người xem vượt khỏi mọi ràng buộc của trần thế để hòa đồng vào với cái đại ngã vô biên - đó chính là Đại giác.

Như mọi Stupa, Bôrôbudu là một mô hình Vũ trụ của Phật giáo - Mandala, là bài ca trong đá về con đường giải thoát của Phật giáo. Hơn thế nữa, Bôrôbudu là bài ca trang trọng về thiên tài của con người.

Ấy thế mà các sử liệu của Java không hề nói đến việc xây dựng Bôrôbudu. Dựa vào kiểu chữ ghi trên một số phiến đá của ngôi đền, các nhà nghiên cứu giả định rằng, Đền Bôrôbudu kỳ vĩ được xây dựng vào khoảng năm 580 - thời kỳ trị vì của Vương triều Phật giáo Sailendra ở Trung Java.

Cũng như mọi đền thờ Phật giáo của Trung Java Bôrôbudu, đã bị bỏ quên vào thế kỷ thứ X, khi Vương triều Ấn giáo nổi lên trị vì tại Java. Và khi Hồi giáo thâm nhập vào Java thì Bôrôbudu hoàn toàn bị lãng quên. Thế là mưa, gió, động đất, núi lửa đã dần dần biến cả một vùng công trình kỳ vĩ do bàn tay con người tạo nên thành một quả đồi khổng lồ cho cây cối bao phủ. Không phải ngẫu nhiên mà cái tên Bôrôbudu lần đầu tiên được nhắc tới trong các tài liệu lịch sử vì nó là một trong những công trình nghệ thuật kiến trúc vĩ đại nhất và giá trị nhất không chỉ của Indonesia và thế giới Phật giáo mà còn cả nhân loại. Bởi vậy ngay từ khi được phát hiện , Bôrôbudu đã thu hút được sự chú ý, quan tâm của toàn Thế giới. Năm 1814 khi những người Châu Âu phát hiện, cả ngôi đền phủ kín đất và cây cỏ, chỉ loáng thoáng đây đó hiện ra hình những bức tượng đá. Lập tức, công việc nghiên cứu và dọn dẹp dưới sự lãnh đạo của nhà khoa học Raffls được triển khai ngay. Mưa gió, lớp đất phủ quá dày, cây cối mọc nhiều - tất cả đã khiến công việc tiến hành rất chậm chạp. Vì thế mãi đến cuối thế kỷ XIX Bôrôbudu mới được giải phóng bởi thời gian phủ bụi và ra khỏi sự lãng quên của con người.

Năm 1900 công việc phục chế Đền Bôrôbudu được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Brandes và có sự tham gia của nhà khoa học nổi tiếng Van Erp. Năm 1905, Brandes qua đời, Van Erp tiếp tục lãnh đạo công việc cho đến khi hoàn thành vào năm 1911. Trong suốt những năm 1920-1940, Đền Bôrôbudu được tiếp tục gia cố và phục chế.

Nhưng đến những năm 60 thì Bôrôbudu đứng trước một thảm họa có thể sẽ bị sụp đổ do nước ngầm xói mòn làm rỗng hết chân nền của khối kiến trúc. Trước tình hình đó, Indonesia đã khẩn thiết kêu gọi UNESCO giúp đỡ. Năm 1970, một ban phục chế Đền Bôrôbudu của UNESCO ra đời và đầu năm 1971 bắt tay ngay vào công việc.

Kế hoạch phục chế Bôrôbudu của UNESCO thật lớn: không chỉ trùng tu các hình phù điêu mà còn gia cố toàn bộ cấu trúc của ngôi đền. Nhiệm vụ chính của đợt trùng tu này là củng cố nền móng ngôi đền bằng lớp vỏ bê tông cốt sắt. Vì thế toàn bộ ngôi đền phải tháo gỡ rồi mới lắp lại trên nền móng mới. Nhiệm vụ nữa của đợt trùng tu là nắn lại tường nền cho thẳng, làm mới lại các dãy tam cấp và gia cố chặt các hình điêu khắc vào với khối kiến trúc.

Sau 12 năm làm việc với sự tham gia của 600 nhà phục chế có tên tuổi trên thế giới, với chi phí đầu tư 50 triệu đôla, công việc trùng tu Đền Bôrôbudu đã kết thúc tốt đẹp.  

Ngày 14 tháng 2 năm 1983, được coi là ngày khai sinh thứ hai của Đền Bôrôbudu kỳ vĩ do bàn tay sáng tạo của người Java xây dựng có thể sớm hơn 1000 năm so với Nhà thờ Đức Bà ở Paris. Ngày nay, Đền Bôrôbudu được coi là một trong những kỳ quan kiến trúc nổi tiếng của Indonesia và của nhân loại.

TS. NGÔ VĂN DOANH




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/170-02-633386702416406250/95-Di-san-tieu-bieu/Den-Borobudu---ky-quan...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận