Kì quan Angkor
Angkor là tiếng gọi chung cho vùng đất trong tỉnh Xiêm Riệp ở phía đông bắc Campuchia, cách thủ đô Phnom Pênh 240km. Angkor có gốc tiếng Phạn() là Nagara, nghĩa là Kinh đô. Vùng đất này xưa kia, trong một thời gian dài, từ thế kỉ thứ IX đến thế kỉ XV là nơi đóng đô của các nhà vua trị vì Campuchia. Đây là thời kì phát triển huy hoàng nhất trong lịch sử của dân tộc Khmer. Từ đây đã kết tinh nên những công trình kiến trúc kì vĩ, độc đáo của người Khmer, trong đó nổi bật lên hai kì quan: Angkor Wat và Angkor Thom.
Jayavarman II (802 - 850) là vị vua mở đầu cho thời kì Angkor chói lọi. Ông xuất thân từ dòng dõi cao quý. Bia cổ Bansei Cham Krong đã để lại những lời ngợi ca về ông: ''Jayavarlnan hạnh ngộ và rất vinh quang, sinh ra từ dòng dõi Kambu - Meru(). Người đóng đô trên đỉnh Mahendra, đã chiến thắng vị thần có trăm lần hiến tế (Indra)() ... Người là một kho tàng vẻ đẹp. Người có cái rực rỡ của vị thần có con mắt bông sen (Vishnu)().
Jayavarman II với khát vọng về sự thống nhất và sức mạnh vương quyền, đã chọn Mahendra trên đỉnh Phnom Kulên, nơi vẫn được coi là nơi ở của các vị thần linh, để định đô. Đây là một vùng đất trù phú, gần Biển Hồ, nằm trên cả hai vựa - vựa lúa và vựa cá - nơi tiềm tàng của cải thiên nhiên giàu có của đất nước Khmer. Nhà vua cũng là người khởi đầu cho một tín ngưỡng độc đáo - tín ngưỡng Thần - Vua (Devaraja), được bảo lưu và truyền từ đời này sang đời khác. Jayavarman II tuy chưa khởi công lập Angkor nhưng việc lựa chọn của ông đã dứt khoát ''giống như con đại bàng bay lượn trên không, Nhà vua đã xây dựng thành Hariharalaya, thành Amahendrapura và các đền đài ở núi Phnom Kulên tựa như một vòng tròn bao quanh vùng đất Angkor...''. Angkor đã bắt đầu từ Phnom Kulên.
Sau Jayavarman II, đến đời cháu ông là Iasovarlnan, Angkor mới chính thức trở thành quốc đô của người Khmer. Nhiều vương triều nối tiếp nhau xây dựng Angkor, đặc biệt là vua Suryavarman II (1113 - 1150). Nhà vua vừa là một nhà xây dựng, vừa là một chiến sĩ nổi tiếng - Người đã sáng lập ra kì quan Angkor Wat với hình năm ngọn tháp vươn cao, mãi mãi là biểu tượng đầy tự hào của đất nước và nhân dân Campuchia.
Angkor Wat
Angkor Wat
Sau khi lên ngôi, vua Suryavarman II đã chọn một khu đất rộng và thoáng ở góc đông nam đô thành Yasodharapura để xây đền núi cho mình(). Đó là Angkor Wat. Công trình được khởi công vào năm 1122 và hoàn thành vào năm vua mất 1150.
Đền này cất theo hình chữ nhật, vòng thành chiếm một khoảng đất rộng gần 200 mẫu (tính luôn cả hào nước vây quanh). Bề dài của vách thành chừng 1500m, bề ngang 1300m với bốn vành đai đồng tâm. Đền mở về hướng tây, hướng tới đô thành, chứ không phải mở về phía đông như mọi đền núi khác. Có nhiều giả thuyết nêu lên sự trái ngược này, người thì cho rằng vì địa thế bắt buộc, kẻ thì bảo vì theo lối thờ phụng vị Phật vua().
Hào nước rộng bao quanh như một vành đai bảo vệ Angkor Wat trước sự xâm lấn của rừng cây. Xung quanh hào có những nấc thang từ trên đường xuống mặt nước. Mặt hào có hai con đường chắn ngang, một đường ở cửa đông và một ở cửa tây. Vượt qua cửa phía tây là con đường đi giữa hai hàng lan can đá có hình rắn Naga khổng lồ() dẫn tới cổng chính dài 230m. Sau cổng chính, hình dáng ngôi đền được thu lại nổi bật trong khuôn cửa, vừa vặn y như một bức tranh tuyệt khéo. Từ đây, khúc dạo của bản giao hưởng nghệ thuật lớn được bắt đầu.
Từ cổng vào đền ta phải qua một con đường dài 350m, rộng 9m5, hai bên đường vẫn là dãy lan can hình rắn Naga. Các bia kí và hình chạm khắc cho thấy, xưa kia vua Surya thường xa giá đến đây. Nhà vua ngự trên con voi lớn nhất, có bành lộng lẫy, phía trước là đoàn người cầm phướn, các nhạc công, các kiệu lễ vật và các cung nữ cầm hoa, nến. Các nàng công chúa ngồi trên các cỗ xe, còn các hoàng tử thì cưỡi voi, có lọng che trên đầu. Đoàn rước đi tới cửa đền, rẽ sang hai cánh, chỉ Đức vua và Hoàng gia mới được vào đền. Họ dừng lại làm lễ ở khu hồi lang thứ nhất.
Khu này được trấn giữ bởi những hình sư tử và rắn Naga. Dọc tường hồi lang là những bức phù điêu lớn, cao 2m, dải từ 50 - 100m. Trên đó lả những hình chạm khắc mô tả các cảnh tượng lấy từ Sử thi Ramayana và Mahabharata của Ấn Độ cùng các chiến tích của Nhà vua. Chân dung Nhà vua được thể hiện dưới cảnh đang thiết triều và đang xung trận. Vua Surya với hình vóc cao lớn, cưỡi trên mình voi, đầu đội mão nhọn, có 15 cây lọng che, tay cầm một con dao cán cong giống như loại dao đi rừng của người Khmer ngày nay. Vây quanh Nhà vua là các tướng lĩnh, cũng cưỡi trên mình voi, các vị tướng đều có lọng che (số lọng này nhiều hay ít - tùy theo chức phận).
Sơ đồ khu Ang kor Wat
Những cuộc chiến tranh cũng được mô tả một cách tỉ mỉ với những đoàn quân hàng ngàn người, xông vào nhau, khí thế hừng hực. Trong khi đó các cảnh sinh hoạt hội hè lại rất êm đềm, sống động.
Những hình chạm khắc như trên có nhiều vô số và tràn ngập cả Angkor Wat. Bản thân chúng là tư liệu độc đáo, phản ánh cuộc sống của con người, những con người đã xây dựng, bảo vệ và sinh sống tại thành phố Khmer cổ kính này. Những hình chạm khắc ấy tỉ mỉ và chính xác một cách kì lạ, khiến cho người xem hoàn toàn bị choáng ngợp bởi sự sinh động và phong phú của nó.
- Ở dãy hồi lang hướng đông có một mảng phù điêu dài 50m, thể hiện sinh động huyền thoại ''khuấy động biển sữa'' của người Khmer. Theo truyền thuyết thì các vị thần Deva() đã khuấy động biển sữa để lấy nước cam lồ là thứ nước giúp trường sinh bất tử. Vì thế, bọn quỷ Asura luôn tìm cách giành giật. Trên phù điêu có hình một vị thần Avatar của Thần Vishnu đang ngồi trên lưng rùa, dùng ngọn núi Mandara làm trục, sợi dây là thân con rắn Vasuki do bọn quỷ nắm đầu còn các vị thần nắm đuôi. Cuộc tranh chấp ''khuấy biển sữa" này kéo dài hơn một ngàn năm, kéo theo sự hiện điện của nhiều thần và vật khác nhau như: bạch tượng Airavata của thần Indra, thần mã Uccaihorava, đoàn tiên nữ Apsara(), nữ thần sắc đẹp Laksmi.()
- Ở mặt tây của tầng một có ba cầu thang dẫn lên tầng hồi lang kín thứ hai Đức vua và Hoàng gia sau khi làm lễ ở tầng một sẽ lên đây nghỉ ngơi. Nơi đây không khí hoàn toàn tĩnh lặng với những thư viện có nhiều thánh kinh. Trên các vách tường là vô vàn hình tiên nữ Apsara bằng đá, với khuôn mặt kiều diễm, đầy trí tuệ, trong các trang phục gợi cảm, đang nở nụ cười quyến rũ. Những hình tượng ấy tưởng chừng như đã thổi một hơi thở nhẹ và sống động lên các vách tường của đền, thể hiện trí tưởng tượng vô hạn của những nghệ nhân điêu khắc Khmer thời ấy.
Theo lối tam cấp có mái che dẫn lên tầng ba, đây là tầng trên cùng của Angkor Wat. Từ đây năm ngọn tháp như những nụ hoa vươn lên nền trời xanh ngắt, ngự trị cả không gian xung quanh. Đến đây thì kiến trúc Angkor Wat hiện rõ dưới dạng kim tự tháp ba tầng, được bố cục theo sơ đồ ngũ điểm, với ngọn tháp chính ở trung tâm cao nhất tới 42m. Từ tháp trung tâm này tỏa ra bốn cổng ở bốn hướng với những hành lang có cột và mái che. Tỉ lệ giữa ba tầng của Angkor Wat chính xác một cách đáng kinh ngạc(). Chiều cao của ba tầng cệ lán từ từ, đều đặn, với một cấu trúc và hình dáng giống nhau, hòa nhập lẫn vào nhau tạo nên một cảm giác thật hoàn hảo. Chắc chắn rằng những người xây dựng Angkor Wat đã phải tính toán tỉ mỉ và kĩ lưỡng lắm trước khi thi công.
Công sức đổ vào việc xây dựng Angkor Wat đã làm cạn kiệt xứ sở này. Vì thế, sau khi vua Surya mất, đất nước Khmer lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Quân đội Chàm đã tấn công và tàn phá Angkor Wat vào năm 1177. Phải đợi đến khi Jayavarman VII bình định lại bờ cõi, mới cho khôi phục lại Kinh đô. Ngoài những chiến công oanh liệt, quốc vương Jayavarman VII còn để lại cho lịch sử Khmer một kì công về khoa kiến trúc. Chính ông đã trông nom cuộc xây dựng kinh đô Angkor Thom với 12 cây số tường thành, những hào rộng, cửa ra vào và đền Bayon rực rỡ...
Angkor Thom
Angkor Thom được xây dưng vào cuối thế kỉ XII. Để thực hiện một công trình vĩ đại như thế, quốc vương Jayavarman VII phải tập trung các loại thợ: thợ xẻ đá ở núi Phnom Kulên (núi này cách Angkor chừng 50km), phu vận chuyển đá, thợ đẽo đá thành phiến và mài phẳng theo những hình dáng quy định, thợ xây, thợ chạm khắc đá… Hàng chục vạn người đã lao động cật lực để hoàn thiện công trình này trong vòng 20 năm.
Kinh đô Angkor Thom rộng 16km2 (gấp 4 lần kinh đô cũ) là một kinh đô thơ mộng lãng mạn vào loại bậc nhất trong thế giới phương Đông. Tính từ cửa đền Angkor Wat đến mặt phía nam thành Angkor Thom phải đi theo đường bộ 1700m về hướng bắc. Vòng thành xây theo hình vuông, có chiều cao là 8m, xây bằng đá ong. Ngoài thành có hào nước rộng trăm thước bao bọc, ở mỗi góc thành có một ngôi tháp nhỏ gọi là Prasat Chung, trong tháp có một bia đá ghi lại công cuộc xây dựng kinh thành của Nhà vua. Những tháp này đều trổ cửa về hướng đông, trên nóc xây theo hình vòng cung.
Sơ đồ khu Angkor Thom và đền Bayon
Angkor Thom có năm cửa ra vào, bốn cửa nằm ở bốn trục và một cửa phụ phía đông. Mỗi cửa có một cổng thành, xây hình ba ngọn tháp sắp theo hàng ngang, mỗi ngọn có bốn mặt Phật vĩ đại tượng trưng cho uy quyền Nhà vua trị khắp bốn phương trời. Trung tâm của Angkor Thom là đền Bayon, chỗ ở của vua nằm chếch về phía bắc. Trong thành, còn có nhiều đền miếu khác như Banteay Kdei(), Ta Prohm(), Preah Khan(), Neak Pean()…km
Angkor Thom (cửa nam)
Trên đường dẫn đến cửa thành, có hai hàng tượng đá thật lớn. Vị tùy viên người Trung Hoa là Châu Đạt Quan trong lần đi sứ sang Angkor năm 1295 đã thuật lại: “Ở hai bên đường có 54 vị thần bằng đá, to lớn và hung tợn. Hai bao lơn bằng đá tạc hình rắn 9 đầu”(). Cả 54 vị thần ôm lấy mình rắn có vẻ như muốn giữ rắn lại không cho lủi trốn, nhịp điệu của các thần ngả về phía sau vì gắng sức, đường cong của thân rắn vút lên trời khiến cho cảnh tượng thật mạnh mẽ và hùng tráng.
Hình 44: Vua Jayavarman VII.
Theo các nhà khảo cổ thì hai tượng đả hình rắn tạc theo lối tượng trưng cho hai chiếc cầu vòng mà lịch sử tôn giáo Ấn Độ xem đó là cải gạch nối giữa thế giới người phàm với cảnh Phật; còn hai hàng tượng: một bên là những vị thần Deva, mặt mày vui vẻ, hiền từ: một bên là lũ quỷ Asura, nét mặt hung tợn đang diễn tích “khuấy động biển sữa”. Chủ đề “khuấy động biển sữa” được Jayavarman VII tạo ra với một tầm vóc khổng lồ. Cảnh khuấy biển sữa diễn ra quanh trục núi Meru mà ngọn Bayon là trung tâm, biển sữa được thể hiện qua hình ảnh hào nước bao quanh đô thành. Hình ảnh khuấy biển sữa tìm thuốc trường sinh phần nào nói lên ước muốn và việc làm của Nhà vua, đó là một việc làm đầy tính nhân văn mà hiếm ông vua nào trên thế giới có thể làm được (H.44). 102 bệnh viện được lập trên khắp lãnh thổ. Ngay ở Angkor Thom cũng có 4 bệnh viện ở gần 4 cửa thành. Bia đá được dựng ở mỗi bệnh viện có khắc ghi câu nói nổi tiếng của ông còn lưu truyền trong dân gian: “Người đau đớn vì bệnh tật của thần dân hơn là của chính người, vì nỗi đau đớn của mọi người gây nên nỗi đau đớn của các vua, chứ không phải bởi chính nỗi đau đớn của các vua”. Có lời đồn rằng: Jayavarman VII bị mắc một căn bệnh hiểm nghèo, người ta gọi ông là “Vua hủi”. Có lẽ vì vậy nên Nhà vua rất thấu hiểu những nỗi đau đớn của người bệnh và mới cho xây nhiều bệnh viện đến thế. Nỗi khao khát về cuộc sống vĩnh hằng thể hiện trong lời cầu nguyện của Nhà vua - được khắc trên bia đá : ''Trẫm cầu nguyện cho tất cả Quốc vương nối nghiệp Trẫm sau này sẽ được mạnh khỏe, không vướng bệnh tật gì cho đến ngày giải thoát cùng với dòng dõi của họ, vợ con, quần thần và bạn bè của họ''. Những năm tháng chinh chiến vinh quạng và tàn bạo mà Jayavarman VII tiến hành đã vĩnh viễn dừng lại ở cổng bệnh viện. Người ta đồn đại rằng, sau này Nhà vua chết vì căn bệnh hủi hiểm nghèo vô phương cứu chữa, nhưng vượt lên tất cả, cái khát vọng về sự sống của Nhà vua thì vẫn còn đó, mãi mãi, trên những bức tường đá cổ kính của Angkor Thom vĩ đại.
Đền Bayon
Trung tâm của quần thể kiến trúc Angkor Thom và cũng là tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời nhất của Jayavarman VII là đền Bayon. Một ngôi đền vĩ đại và kì lạ mà có lẽ khắp thế giới không đâu có một kiến trúc phảng phất như vậy.
Đền Bayon- Nhìn từ hướng Tây.
Toàn thể ngôi đền chiếm một khoảng đất dài 160m, ngang 140m. Giữa là ngôi tháp chính cao 23m. Từ tháp chính có 12 gian tỏa ra xung quanh và đan cài giữa hàng loạt ngôi tháp. Ở đây có 50 cái tháp lô nhô như một rừng đá, cái nào cũng cao trên 10m. Có 172 mặt người (tức 43 đầu phật, mỗi đầu có 4 mặt), lớn khoảng 2 - 3 thước, ở các vị trí sáng tối, cao thấp khác nhau, hướng về bốn phương trời. Các mặt người trên tháp đã vật chất hóa sự có mặt ở mọi nơi của vị vua thần linh. Dưới ánh trăng huyền ảo, những mặt người với đôi mắt khép hờ, miệng nở nụ cười khoan dung và bí ẩn(), có lúc như mỉa mai trêu cợt, có lúc lai như vỗ về, thương cảm... tất cả đều được thể hiện một cách sống động và kì diệu đến lạ lùng, khiến cho người xem phải kinh ngạc ngẩn ngơ... Một du khách trong một lần đến thăm Bayon đã viết: ''Tôi ngẩng đầu lên nhìn những tháp dựng đứng ở trên cao, chìm trong cảnh xanh tươi đó, và thình lình tôi rùng mình, sợ sệt - một nỗi sợ mà tôi chưa từng biết. Khi tôi thấy một nét cười lạnh lẽo rơi từ trên cao xuống tôi... rồi lại có một nét mỉm cười nữa ở đằng kia, trên một mảnh tường khác... rồi ba, rồi năm, rồi mười cái mỉm cười, đâu đâu cũng có, tôi bị giám sát ở khắp nơi''. Cũng có thể những người thợ tài ba đã phóng tác theo tâm hồn, ý tưởng của vua Jayavarman VII - nụ cười bình yên của đức Phật hay nụ cười mãn nguyện của Nhà vua trước một thời thịnh trị. Dù sao thì, trước cảnh tượng đó người xem cũng không khỏi bàng hoàng tự hỏi: làm sao mà người đời xưa chở được cả những núi đá đó qua biết bao rừng sâu, núi thẳm đến đây, họ dùng vôi cát gì để gắn mà trải mấy trăm năm không đổ, rồi đục chạm làm sao mà mọi nét đều sắc đến như vậy, trăm mặt Phật giống nhau đến như vậy?
Khác với Angkor Wat, Bayon không có tường bao nhưng mặt tường bên trong và bên ngoài của các hồi lang cũng được trang trí bằng rất nhiều phù điêu. Hồi lang bên trong là nơi người xưa thuật lại những đề tài về thần thoại Bàlamôn, trái lại hồi lang bên ngoài hoàn toàn là những cảnh ngoài đời, những cảnh làm việc, vui chơi, giải trí của dân chúng và vài đoạn lịch sử về cuộc hành quân, các trận chiến dưới triều vua Jayavarman VII. Những hình chạm này hơi thô kệch và có vẻ ngây ngô nhưng được chạm khá sâu. Đây là bộ bách khoa bằng đá rất quý giá mô tả phong tục và sinh hoạt của người Khmer cổ.
Theo các nhà khảo cổ thì vua Jayavarman VII mới đầu cất ngôi đền này theo kiểu đền Ta Prohm hay Banteay Kdei để thờ Phật, sau sửa đổi nhiều lần và xây thêm nhiều phòng, hành lang, tháp với nhiều mức độ cao thấp khác nhau cho tương xứng với nơi thờ một vị Phật - Vua. Ngày nay, trên ngọn tháp tại trung tâm đền vẫn còn tượng của Jayavarman VII - vị Phật đầu thai xuống làm vua như để san sẻ nỗi khổ của nhân gian. Du khách đến thăm Bayon đắm mình trong khung cảnh đền đài hùng vĩ, dường như vẫn còn nghe thấy đâu đây, trong tiếng lá rụng của rừng thưa, tiếng gió thổi rào rào trên đầu, văng vẳng tiếng của ngàn xưa đưa lại, tiếng đàn, hát, chiêng trống của đám rước vũ hội mừng Nhà vua chiến thắng trở về. Khi vua Jayavarman VII, đầu đội mũ mười chín tầng đát ngọc ở trong đền từ từ bước ra, cùng với một đoàn vũ nữ nhẹ nhàng uyển chuyển như một con Naga uốn khúc, thì đèn đuốc bỗng tắt hết, chỉ còn lại ánh trăng long lanh rải trên những mũ, xiêm đát vàng của các nàng vũ nữ. Một khúc nhạc du đương nổi lên như cuốn lấy những tấm thân mềm mại ấy và một mùi hương ngan ngát của các thứ trầm quý nhất ở Mã Lai, các thứ hoa thơm nhất trong miền Xiêm Riệt phả ra, hòa quyện vào không khí, làm cho mọi thứ như lắng đọng lại, rồi chìm sâu đến vô cùng, vô tận... Cuối cùng, tất cả đột ngột tan biến, chỉ để lại cho người đời nay những cảm giác bồi hồi, khó tả...
Công sức, tiền của và tài trí đổ ra cho Bayon thật là đồ sộ. Theo tính toán của B.P. Glôsliê(), để chạm khắc tất cả những hình bằng đá ở Bayon cần có 1000 nhà điêu khắc giỏi, làm việc cần cù trong 20 năm. Và để trang trí cho các tượng ở Bayon phải dùng đến 5 tấn vàng, 5 tấn bạc và 40 nghìn viên đá quý.
Các Devata đang nhảy múa.
Jayavarman VII đã muốn chứng minh rằng mình là một vị cứu tinh của dân tộc, của đất nước. Trong vòng 40 năm trị vì, Nhà vua đã dồn hết công sức để xây dựng đền chùa và các công trình khác, đã sử dụng một khối lượng đá cho xây dựng nhiều hơn tất cả các vua tiền bối khác của Angkor cộng lại. Chính vì vậy mà Nhà vua cũng không thoát khỏi vết trượt lịch sử của các vị vua trước: ngân khố quốc gia khánh kiệt, đời sống nhân dân cùng cực, đất đai, thủy lợi không được quan tâm đã trở nên cằn cỗi. Chưa có tài liệu nào nói về cái chết của Nhà vua một cách chính xác, nhưng cái chết của ông đã cuốn theo những vinh quang, hào nhoáng từng vang bóng một thời của đế đô Angkor. Để tồn tại, người Khmer đã phải bỏ kinh thành mà tiến về vùng đồng bằng trù phú phía dưới. Angkor suy tàn nhanh chóng và không gì có thể cưỡng lại được, cuối cùng bị chìm đắm trong cuộc xâm lăng của quân Thái.
Angkor hoang phế, không lâu sau đã bị rừng núi xâm chiếm và bao phủ. Dấu vết của nó mờ dần, nhưng ánh sáng của Bayon là ánh sáng của một vì sao băng, nó rực lên rạng rỡ đến mê hồn dù sau đó lụi tàn ngay trong đêm tối. Sau Bayon, không một đền núi nào được xây dựng, đó là sự cáo chung cho kiến trúc đền núi và tôn giáo Thần - Vua. Phải đợi đến cuối thế kỉ XIX, Angkor mới được hồi sinh và đến nay đã được đánh giá tương xứng, như một kì quan của nhân loại.
Tháp có hình mặt người (Bayon).