Cuộc cách mạng nông nghiệp
Trong 30 năm qua, ngành nông nghiệp của Pháp đã được hiện đại hóa và có năng suất cao hơn. Năm 1970, các trang trại của Pháp chỉ đáp ứng được 213 nhu cầu trong nước; đến năm 1995 đạt 130%. Pháp trở thành nước xuất khẩu thực phẩm lớn nhất châu Âu. Từ năm 1970 đến năm 1995, quy mô trung bình của các trang trại từ 18 - 36 hécta đã tăng gấp đôi và được chuyên môn hóa hơn. Vì diện tích các trang trại tăng nên số chủ trại và công nhân nông trại giảm từ hơn 3 triệu người xuống còn 1 triệu. Trong những năm 1990, số trang trại giảm từ 900.000 xuống 650.000.
Chính sách nông nghiệp chung (CAP)
Quá trình hiện đại hóa nông nghiệp của Pháp được Chính sách Nông nghiệp chung (CAP) của Liên minh châu Âu hỗ trợ rất nhiều. Đối tượng hỗ trợ của CAP là các chủ trang trại, nhất là ở các vùng còn chưa phát triển. Mặc dù vậy, chính sách này còn giúp thay đổi đáng kể môi trường nông thôn, bao gồm việc hình thành những cánh đồng rộng lớn hơn và các công trình hiện đại phục vụ sản xuất quy mô lớn. Song những thay đổi của CAP cũng làm tốc độ tăng trưởng chậm lại, ví dụ việc áp dụng hạn ngạch sữa vào năm 1984 nhằm hạn chế sản lượng và việc giảm trợ giá vào năm 1992. Những năm gần đây, tình hình sản xuất của một số sản phẩm như rượu vang và sữa đang sa sút.
Một trang trại nuôi cừu xứ Basque
Trang trại của ông Paul Buchon nằm trong vùng đồi núi xứ Basque, phía Tây - Nam Pháp. Khu chuồng trại của ông nằm ở rìa làng, kế bên là 32 hécta đất gồm 2 lô chạy men theo sườn thung lũng. Diện tích trung bình của các trang trại vùng đồi xứ Basque là 24 héc ta.
Cừu là vật nuôi chủ yếu trong ngành nông nghiệp xứ Basque với hơn 500.000 con. Cũng như hầu hết chủ trại láng giềng, Paul làm chủ một trang trại nuôi cừu. Đàn cừu của ông có nhiều hơn mức trung bình của địa phương (150 con/đàn). Mặc dù ông Paul có bãi nhốt cừu non và cừu xén lông ở trang trại nhưng khí hậu khá ôn hòa khiến đàn cừu có thể chăn thả bên ngoài trang trại. Hơn 80% đất đai của ông luôn xanh mướt cỏ. Khoảng 6 hécta còn lại ông trồng ngô. Paul dùng thân cây ngô để ủ xanh xilô và làm thức ăn mùa đông cho cừu. Paul còn nuôi một con bò sữa để lấy sữa dùng cho gia đình.
Vài con cừu non được vỗ béo và bán để lấy thịt, song sản phẩm chính từ cừu là lông và sữa. Đây là vùng của phomát được làm từ sữa cừu, như ở Roquefort và Chaume. Paul là thành viên của một hợp tác xã tiêu thụ chuyên thu mua và chế biến sữa. Ở đây cũng có một tổ chức tương tự chuyên về lông cừu. Paul và con trai điều hành trang trại với một công nhân vắt sữa làm việc theo giờ. Vào đợt xén lông cừu mùa xuân, ông thuê thêm công nhân.
Khi được hỏi về những thay đổi của trang trại, Paul nói: ''Để nhận được hỗ trợ tốt nhất và thỏa mãn các quy định về chất lượng của CAP, từ khi kế thừa trang trại của cha tôi năm 1975 tôi đã thực hiện ba thay đổi chính. Thứ nhất, tôi mua thêm một mảnh đất rộng 10 hécta. Điều này không khó lắm kể từ khi có các chủ trang trại địa phương nghỉ công việc đồng áng và bán đất. Chính vì vậy, hiện nay trong thung cũng còn rất ít người. Các trang trại quanh đây ngày càng lớn hơn. Thứ hai, trang trại được chuyên môn hóa nên năng suất cao hơn. Đàn cừu luôn đóng vai trò quan trọng nhất, nhưng cũng như hầu hết những người hàng xóm, tôi từng nuôi vài con bò và lợn, trồng mấy mảnh ruộng lúa mì. Nhưng bây giờ đàn cừu đã đông hơn, tôi chỉ trồng ngô để làm thức ăn cho cừu và nâng cao sản lượng và chất lượng đàn cừu. Thứ ba, tôi đổi mới phương pháp làm việc. Trước đây tôi cần hơn 2 công nhân, nhưng giờ tôi có một chiếc máy kéo, hầm ủ xilô, khu xén lông cừu và thiết bị bảo quản sữa hiện đại. Tôi biết, vì công việc đồng áng ít đi nên đám thanh niên đi hết. Do đó tôi buộc phải thay đổi theo thời đại để kiếm sống”.