1886
Ngôi mộ của Sennudjem, đầy tớ của địa điểm sự thật
Khám phá/ khai quật 1886 bởi Salam Abu Duhi; Gaston Maspero
Di chỉ Thebes (Deir el-medina, ngôi mộ TT1)
Thời kỳ Vương quốc Mới, Triều đại thứ 19 Triều đại của Sethos I, 1306 - 1290 trước CN.
“Vào lúc năm giờ chiều ngày 01 những 02[1886] vừa lúc chúng tôi trở về từ một cuộc dạo chơi gần những tàn tích của Kamak, một người Ai Cập du cư trông thật thảm hại, cháy nắng và trần truồng... tự giới thiệu... ông ta đến để báo cho chúng tôi một khám phá, được thực hiện cách đây vài giờ ở nghĩa địa lớn thời cổ của người Thebes, về một ngôi mộ vẫn còn nguyên vẹn, được đóng cũng bằng một cánh cửa giống như... người Ai Cập cổ đại đã đẩy vào sau khi đặt nằm xuống xác chết cuối cùng...”
EDUARDO TODAY. GUELL
Ngôi mộ của Sennudjem (số TTI) xếp cùng với những xác ướp hoàng gia ở Deir el- bahri (tr. 78) như một trong những khám phá lớn nhất của thời kỳ đầu Maspero làm giám đốc sở cổ vật Ai Cập. Một người Ả Rập du cư Salam Abu Duhi, cùng hai bạn đồng hành đã tìm thấy sau bảy ngày đào bới với giấy phép của chính phủ và đã vào trong những căn hầm của một ngôi mộ còn toàn vẹn, ở dưới những mảnh vụn của những chôn cất mới đây. Maspero, cùng với thống đốc người Tây Ban Nha, Eduardo Toda Y. Guell (mà chúng tôi nợ một tài khoản quan trọng của việc khám phá), nhanh chóng khảo sát cùng với các bạn khách mời Urbain Bourian và người bán hàng/ thợ ảnh Jan Herman Insinger.
Tường phía Tây của căn phòng chôn cất mái vòm nhỏ, nhưng tuyệt vời thực hiện cho gia đình của Sennudjem: người chết và bà vợ ông ta, Lyneferti, giơ tay tỏ lòng sùng bái trước các vi thần của cõi âm.
Đặc trưng (nét) duy nhất nhìn thấy ở mặt đất là một huyệt mộ cắt trên đá của lối vào ngôi mộ, sâu 4m (13ft) với cái để nắm tay ở hai mặt làm việc lên, xuống dễ dàng. Ở tận cùng của lỗ sâu, những người thám hiểm đứng trước một lối đi hẹp, nghiêng; ở bên kia là một phòng nhỏ, bí mật chèn ngang bằng đá thô. Một lỗ sâu khác, cắt gần tường phía Tây của phòng này dẫn đến một hành lang thứ 2, và ở cuối là phòng chôn cất. Toda viết: “Rõ ràng chúng tôi đang ở trước một trong các ngôi mộ hiếm có... thoát khỏi sự phá phách của người La Mã, Cop và Ả Rập: vì cái cửa gỗ sơn rất đẹp (giờ ở Cairo JE 27303) tách biệt sự chết với thế giới của cuộc sống vẫn y nguyên; đóng bằng một cái chốt có niêm phong, hoàn hảo và không ai đụng đến hơn ba thiên niên kỷ.
Nhanh chóng ghi chép ở một nơi thiếu không khí, nóng 48oC, Maspero và các đồng nghiệp tháo gỡ thành từng miếng khung cửa đi vào vương quốc của những người đã chết. Phòng chôn cất tĩnh mịch, nhỏ không quá 5m (161/2ft) chiều dài và một nửa bề ngang, với một trần vòm. Toda ghi chép sống động những gì mà ngọn nến lung linh cho nhà khai quật thấy:
“Nền đất phủ đầy xác chết: chín xác được đóng trong những thùng cây sung dâu, và mai một xác rải rác trên cát. Ở các góc, người ta có thể nhìn thấy những đống lọ gốm, bánh, trái cây, các đồ bàn ghế tủ, những vòng hoa khô. Khít tường người ta để hai xe trượt chôn cất, có lẽ đó là những gì đám nhân công bỏ lại trong lần cuối cùng, mong muốn rời ngôi mộ càng sớm càng tốt. Nhưng sự chú ý của chúng tôi bị lôi cuốn chủ yếu bởi những hình vẽ trang trí bốn bức tường và trần của hầm mộ, vẫn còn được giữ gìn như mới và toàn vẹn như ngày đầu chúng được làm”.
Mặc dù khối lượng những cổ vật tìm thấy từ hầm mộ gia đình Dennudjem, giờ ở Cairo, các đồ vật từ nơi chôn cất cũng có ở Bảo tàng Berlin, bảo tàng nghệ thuật Metropolitan, New York (thủ đắc 29 đồ vật trong năm khám phá), Bảo tàng Pushkin ở Mactxơva và Madrid. Ở đây chúng ta thấy phần trên của nắp quan tài bên trong của Khonsu, con trai Sennudjem, giờ ở New York.
Chi tiết hình vẽ trên xe trượt mai táng dựng trong quan tài xác ướp của con trai Sennudjem, khansu: xác ướp người chết được Anubis, thần của ướp xác, trông nom, dưới cái nhìn của hai chị em nữ thần Isis và Nephthys.
Ngôi mộ này, thực tế là nơi chôn cất đầu tiên trọng yếu, toàn vẹn, có niên đại vương triều được tìm thấy ở Ai Cập từ những ngày của Drovetti (tr. 32) – người đã ghi chép gần như không mạch lạc về những khám phá của ông. Sáu mươi năm sau, nhận thức rõ về những thiếu sót của các người tiền nhiệm, Maspero và nhóm của ông làm việc có phương pháp hơn: ghi chép, dọn quang căn phòng có hệ thống và sắp xếp việc di dời những người nằm trong ngôi mộ lên tàu của Bảo tàng để chuyển đến Cairo với cánh cửa ngôi mộ. Mặc dù đã thận trọng, vẫn còn nhiều mất mát: một số tác phẩm bị trộm mất, phá hủy hay hủy hoại hoàn toàn trên đường đi trên con tàu chạy bằng hơi nước của Maspero - và trong 11 xác ướp không có quan tài dễ vỡ, chỉ những cái đầu là đến nơi an toàn.
Ngôi mộ của ai?
Sở hữu chủ chính của ngôi mộ ở Salam Abu Duhi, như các ghi chú và trang trí trên tường cho thấy, là người “đày tớ” (Nói một cách văn chương “người nghe tiếng gọi”) ở “địa điểm của sự thật, Sennudjem”, một nhân công được thuê để cắt thành hình, trang trí và trang bị những ngôi mộ hoàng gia ở Thung lũng các vua và Thung lũng các hoàng hậu. Phong lưu theo chuẩn mực địa phương, ông và gia đình - một người vợ bảy đứa con trai, bốn đứa con gái, hai con dâu và nhiều cháu - có thể có quyền được hưởng những khéo léo của những thợ thủ công lành nghề mà họ cùng chia sẻ cuộc đời ở nơi định cư Deir el-Medina (tr. 225). Và như chúng ta thấy hôm nay từ đồ tùy táng tuyệt vời, từ ngôi mộ, những quan hệ của Sennudjem đã phục vụ ông chu đáo.
Sennudjem, người đày tớ Địa điểm của Sự Thật, cày trên cánh đồng của kiếp sau huyền thoại, cùng vợ Lyneferti đi sau.
Sennudjem và gia đình ông ta sinh sống suốt thời gian trị vì của Triều đại thứ 19 pharaon Sethos I (với sự kiến tạo của ngôi mộ - người đàn ông này chắc chắn là có dính líu đến), một thời kỳ rất ít mộ còn bảo tồn. Mặc dù quá ít cái được nghiên cứu hoàn toàn, việc khám phá đã đưa ra ánh sáng những hiểu biết quan trọng về những phong tục mai táng của giới trung lưu thời kỳ ấy. So sánh với ngôi mộ của Kha, một tiền nhiệm có đặc quyền hơn của Sennudjem - phong phú về kim loại quý và không quý, mỹ phẩm và vải vóc - chúng ta có thể đoán rằng, những mặt hàng này, nguyên thủy đặt trong hầm mộ gia đình Sennudjem đã bị mất cắp bởi những đội chôn cất kế tiếp trong những lần sau này khi các xác chết được thêm vào mộ.
Gébaut đến
Một thời gian ngắn sau việc khám phá ngôi mộ của Sennudjem, Gaston Maspero trở về Pháp vì lý do sức khỏe. Mặc dù ông mong muốn người Thụy Sĩ Édouard Naville kế tục mình, nhưng quốc tịch của người dự tuyển đã loại trừ ông ta, chức vụ của Maspero thuộc về Eugène Grébaut, một người Pháp khác, một sinh viên trước đây đã giữ chức giám đốc ủy ban khảo cổ học Pháp ở Cairo từ 1883. Điều này chứng minh một sự lựa chọn không tốt lành.
Bản tiểu sử chính thức về Ai Cập học nhận xét, “việc bổ nhiệm Grébaut đáng buồn vì về bản chất ông ta không phù hợp với công việc và” - đơn giản bởi ông ta áp dụng những quy tắc – “gây nên những tình cảm không tốt đối với các nhà Ai Cập học và người Ai Cập địa phương”. Các đồng nghiệp của ông quả quyết: Đối với Petrie, ông ta chống người Anh và ngoài mọi lý do”; trong khi đối với Budge, “tất cả những ai quan tâm đến tiến bộ của ngành Ai Cập học, và thịnh vượng của sưu tập quốc gia ở Ai Cập, đều lấy làm tiếc việc bổ nhiệm này”.
Một trong những thành công chính của Grébaut là việc chuyển sưu tập của Mariette từ Bulaq đến một bảo tàng mới ở Giza; nhưng nhiều đồ vật đã “mất” trên đường đi. Về mặt chính trị đó là thời kỳ không tốt đối với mọi người - nhưng trong lãnh vực này nó là công việc kinh doanh như thường lệ.
HẦM MỘ CỦA GIA ĐÌNH SENNUDJEM
TÊN
VAI VẾ
MIÊU TẢ ĐỒ VẬT
Amennekhu
xác ướp, Shabti
Hathor
quan tài, xác ướp
Hetepu
Isis
quan tài, xác ướp, bố tử, hộp
Lyneferti
vợ của Sennudjem
quan tài (2), mặt nạ, xác ướp, bố tử, shabti(4), hộp (6), dụng cụ (2)
Khabekhenet
xác ướp, bố tử, shabti-quan tài (2), shabtis (2), hộp (6)
Khonsu
con trai Sennudjem
Quan tài bên ngoài trên xe trượt, quan tài (2), mặt nạ, bố tử, xác ướp, vây ngực, shabti-hộp, Shabti (13), hộp (4), gậy (3)
Mose
xác ướp, shabti (5), dụng cụ (2)
Paraemnekhu
xác ướp, shabti-hộp
Parahetep
xác ướp, quan tài, shabti
Ramose
quan tài, xác ướp, shabti-hộp
Sennudjem
sở hữu chủ ngôi mộ
quan tài bên ngoài trên xe trượt, quan tài (2), mặt nạ (2), vây ngực (3), xác ướp, bố tử, shabti-quan tài (4), shabti (9), giường, ghế, dụng cụ, chậu gốm (5), gậy (6), dụng cụ kiến trúc (4)
Tameket
vợ của Khonsu
quan tài (2), xác ướp, bố tử, shabti (4)
Tashesen
quan tài, xác ướp, shabti
Sở hữu chủ vô danh
quan tài (2), vây ngực, xác ướp (6), shabti, shabti-hộp (7), dụng cụ bàn tặng, chậu gốm (7), giỏ (2), vải có tua, vải lanh, dép (đôi), dụng cụ kiến trúc (3), hộp, đá vôi với “Truyện của Sinuhe”, thực phẩm (bánh, bánh qui trứng, quả chà là, trái cây trồng, ngũ cốc, nước sữa, rượu), vòng hoa (3)