Tài liệu: Phép thần kỳ của các con số và sản phẩm của nó

Tài liệu
Phép thần kỳ của các con số và sản phẩm của nó

Nội dung

PHÉP THẦN KỲ CỦA CÁC CON SỐ VÀ SẢN PHẨM CỦA NÓ

 

Những năm gần đây mối quan tâm tới vấn đề những nguyên tố siêu urani tăng lên đột ngột. Chứng minh cho điều đó chỉ cần dẫn ra đây sự kiện vào năm 1999, một trong những nhà vật lý hàng đầu Nga - Vitaly Lazaryevich Ginzburg (sinh năm 1916) người đoạt giải Nobel năm 2003, đã xếp các nghiên cứu về các nguyên tố siêu nặng và các hạt nhân ngoại lai thuộc vào số 30 ''vấn đề lý thú và đặc biệt quan trọng'' của vật lý thế kỷ XXI. Số là lý thuyết hạt nhân từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX đã tiên đoán sự tồn tại của ''đảo Bền vững'' của những nguyên tố siêu nặng trong miền Z nhận giá trị từ 110 đến 114 và có thể có cả các nguyên tố nặng hơn (trong vùng Z = 126). Chính vì thế nên vào thời đoạn sắp kết thúc thế kỷ XX, ở Dubna việc người ta tiến hành tổng hợp đồng vị có thời gian sống tới cỡ 30 giây của nguyên tố 114 có số khối lượng 289 đã trở thành một sự kiện đầy ấn tượng.

Đó chính là nguyên do của sự phụ thuộc mà thoạt nhìn thấy rất lạ, khi tăng trọng lượng của các hạt nhân lại xuất hiện giới hạn bền của chúng, còn ở xa hàng rào này tính ổn định của các nguyên tố siêu nặng lại tăng lên đột ngột?

Ta biết rằng, các nucleon được giữ trong hạt nhân bằng các lực hạt nhân trong khi đó các lực điện làm cho các proton đẩy nhau lại có xu hướng phá hủy hạt nhân. Tính ổn định của hạt nhân tựa hồ như phụ thuộc vào tỷ số giữa hai lực này: ưu thế của năng lượng đẩy tĩnh điện so với năng lượng gắn kết của các lực hạt nhân không thể không kéo theo sự phân rã hạt nhân thành các phần nhẹ hơn. Theo tính toán trong quan niệm này thì khi Z tăng lên, tính ổn định của các hạt nhân, có nghĩa là cả số các nguyên tố bền, phải giảm xuống. Thực tế lại phát hiện thấy cả hai đại lượng sau cùng này lại lớn hơn hai lần so với kết quả tính toán. Hóa ra là tính bền vững của hạt nhân được quyết định phần nhiều bởi các hiệu ứng vỏ. Ngay từ đầu những năm 1930, các nhà vật lý đã nhận thấy có sự phụ thuộc lạ lùng: các hạt nhân, có số notron N hay số proton Z bằng 2, 8, 20, 28, 50, 82 và 126 thì có tính ổn định cao hơn hẳn. Vì vào thời đó, người ta hoàn toàn không hiểu được hiện tượng này, nên các con số bí ẩn kia cũng như các hạt nhân có Z hay N nhận các giá trị này được gọi là các số thần kỳ (magic number) và các hạt nhân thần kỳ. Các hạt nhân, ở đó các số proton lẫn số notron đều là số thần kỳ được gọi là hạt nhân thần kỳ hai lần. Đó là các đồng vị ổn định nhất, ví như đồng vị chì 208Pb với Z = 82 và N = 26. Chính vì thế mà chúng được biểu diễn trên bản đồ bằng các ''đỉnh'' cao nhất.

Quy luật nêu trên đã được xác nhận chẳng những bằng việc xác định thời gian sống của những đồng vị khác nhau, mà còn bởi độ phổ biến (độ thường gặp) của chúng trong thiên nhiên (nguyên tố càng ổn định, chúng càng được giữ tại lâu trong vỏ Trái Đất). Các nguyên tố như thế, như thiếc có Z = 50, bari có N = 82 hay đồng vị 208pb nói trên đây, trên Trái Đất có nhiều hơn các nguyên tố nằm cạnh chúng trong bảng Mendeleyev rất nhiều.

 

GEORGI ANTONOVICH GAMOV (GEORGE GAMOW)

Georgi Antonovich Gamov tức George Anthony Gamow là một trong những đại biểu nổi tiếng nhất của nền khoa học Nga và khoa học thế giới thế kỷ XX. Số phận khoa học của ông thành đạt bao nhiêu thì cũng bi kịch bấy nhiêu. Lúc 24 tuổi ông là người đầu tiên trong đội ngũ kiệt xuất của các nhà vật lý lý thuyết trẻ Xô viết được công nhận toàn thế giới do khám phá xuất sắc: giải thích được phân rã  của hạt nhân nguyên tử bằng hiệu ứng đường hầm cơ lượng tử (năm 1928) và có tiếng tăm khắp nước Nga Xô viết ở tuổi 28 (năm 1932), Gamov được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô.

Gamov được sinh ra ở Odessa ngày 4 tháng 3 năm 1904 trong một gia đình quý tộc dòng dõi. Cha ông dạy văn học Nga ở trường trung học, ông nội là đại tá trong quân đội Sa Hoàng, còn ông ngoại là tổng giám mục ở Odessa. Nguồn gốc quý tộc nhiều lần đã làm phiền Gamov khi ông sống ở nước Nga Xô viết. Sau khi tốt nghiệp phổ thông (năm 1921), Gamov vào học khoa toán lý trường đại học Novorossisk (nay là trường đại học Odessa), còn năm sau đó chuyển sang phân ban vật lý của trường đại học Petrograd.

Trong số các thầy giáo của ông có nhà toán học Grigori Mikhalovich Fikhtengolts (1888-1959) và nhà vật lý Aleksandr Aleksandrovich Friedmann (1888-1925). Gamov làm luận văn tốt nghiệp về quang học với giáo sư Dmitri Sergeyevich Rozhdestvensky (1876 - 1940), người đã khuyên ông theo học lớp nghiên cứu sinh.

Tuy nhiên, Gamov không quan tâm đến các nghiên cứu thực nghiệm mà chỉ quan tâm  đến các nghiên cứu lý thuyết. Dưới ảnh hưởng của Friedmann ông bắt đầu nghiên cứu các bài toán vũ trụ luận tương đối tính, nhưng cái chết đột ngột của người thầy đã phá vỡ kế hoạch công việc đã dự định của ông. Mối quan tâm tiếp theo của Gamov là cơ học sóng mới xuất hiện, bài báo khoa học đầu tiên của ông cùng viết với người bạn tên là Dmitri Dmitriyevich Ivanenko (1904 - 1994) là về cơ học sóng.

Trong những năm tháng sinh viên, Gamov là thành viên của một nhóm (gọi đùa là băng nhạc jazz) gồm những ngôi sao tương lai của nền vật lý lý thuyết Nga: anh chàng tóc vàng dài bù xù Johnny (chính là Gamov), Dimus như ổ bánh mì (Ivanenko), Gần Dau cao, gầy guộc với mái tóc đen bướng bỉnh (Landau) và những người khác. Gần gũi với nhóm có Matvei Petrovich Bronstein (1906 - 1938) - có biệt danh Abbat (tu viện trưởng). Kết quả của mối giao thiệp gần gũi đó là bài báo (đây là công trình duy nhất mà Gamov, Ivanenko và Landau cùng viết) đề tặng người con gái xinh đẹp nhất của khoa. Trong công trình này, vào năm 1927, các tác giả đề nghị xây dựng một hệ đơn vị vật lý dựa trên các hằng số cơ bản c, h  và G (xem mục phụ ''Lực - một đại lượng không thứ nguyên'').

Năm 1928, cùng với nhóm các nhà khoa học trẻ, Gamov được cử đi công tác bốn tháng tại trường đại học Gottingen nổi tiếng - trung tâm hàng đầu về vật lý lượng tử. Lúc đó, vấn đề khoa học chủ yếu là áp dụng các ý tưởng lượng tử vào việc mô tả các quá trình trong nguyên tử.

Tuy nhiên, Gamov lại chọn đề tài nghiên cứu là lý thuyết hạt nhân nguyên tử, lúc đó ít được quan tâm ở Gottingen. Khi đọc bài báo của Rutherford về tán xạ của các hạt  trên urani, Gamov lập tức tìm ra câu trả lời cho câu hỏi phân rã  của Urani có thể diễn ra như thế nào. Phải, năng lượng của các hạt  bên trong hạt nhân thấp hơn rào thế năng tại biên của nó rất nhiều. Nhưng hiệu ứng đường hầm cho phép nó vượt qua được rào thế này. Các tính toán hoàn toàn trùng với các dữ liệu thực nghiệm, và ngoài ra, còn có thể làm chính xác thêm nhiều kích thước của hạt nhân.

Một ngày trước lúc kết thúc chuyến công tác, Gamov đã đến Copenhagen, hy vọng gặp được Niels Bohr ''gần như huyền thoại''. Và chẳng những Gamov gặp được bậc thầy mà còn kể cho ông ấy nghe về lý thuyết phân rã của mình. Bohr đã đề nghị cho Gamov suất học bổng của Viện Hàn lâm khoa học Đan Mạch để ông làm việc một năm tại Viện vật lý lý thuyết. Gamov đã đồng ý. Mùa đông năm 1929, nhà vật lý trẻ sang thăm nước Anh, và báo cáo về cấu tạo hạt nhân nguyên tử ở Hội Hoàng gia Anh làm cho chính Rutherford phải quan tâm.

Sau khi kết thúc công việc với Bohr, mùa xuân năm 1929 Gamov quay về Liên Xô nơi  ông được đón tiếp nhiệt liệt. Các báo viết nhiều về khám phá của nhà vật lý trẻ Xô viết, Demiyan Betnyi còn làm cả một bài thơ long trọng dành cho ông. Cũng mùa thu năm đó Gamov được nhận học bổng của Quỹ Rockefeller, ông tới làm việc với Rutherford ở phòng thí nghiệm Cavendish. Từ nước Anh, năm 1931 ông về nước. Nhưng bây giờ, các giới hữu trách đã có thái độ rất dè chừng với Gamov. Người ta từ chối cấp hộ chiếu ra nước ngoài để ông đi Roma dự Đại hội lần thứ nhất về hạt nhân nguyên tử. Lúc đó Gamov cùng người vợ trẻ định bí mật rời khỏi nước Nga: họ mạo hiểm vượt biển Hắc hải trên chiếc thuyền thoi. Ba ngày đêm, những người chạy trốn lênh đênh trên biển cả, nhưng cơn bão biển ập tới ném họ lên bờ biển nước Nga.

Vào thời kỳ đó, theo đề nghị của Bohr, nhà vật lý nổi tiếng người Pháp, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, đồng chủ tịch ủy ban liên lạc khoa học Pháp - Nga Paul Langevin đã gửi cho chính phủ Liên Xô thư đề nghị xin phép cho Gamov tới dự Đại hội Solvay về vật lý hạt nhân năm 1933. Langevin hứa người được ông bảo lãnh sẽ quay về nước Nga. Gamov đã có giấy phép ra nước ngoài, nhưng ông muốn được đi cùng với vợ mình. Ông đã bị từ chối. Chỉ sau khi Gamov gặp được Bộ trưởng Ngoại giao V. M. Molotov (N.I.Bukharin tổ chức cuộc gặp này), đôi vợ chồng nhà khoa học mới được đi Brussell và đã không quay về nữa (sau khi được sự đồng ý của Langevin thông qua Marie Curie). Năm 1935, V. I. Vernadsky khi gặp Gamov ở Pari đã hỏi ông có phải đã bị buộc phải ra nước ngoài sống không, nhà vật lý đã trả lời ngắn gọn ''Khủng bố và hỗn loạn''. Năm 1938, Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô loại Gamow khỏi danh sách các viện sĩ thông tấn. Quyết định ấy chỉ được huỷ bỏ vào năm 1990!

Khát khao được tự do sáng tạo và hoàn toàn đứng ngoài chính trị, tự nguyện rời bỏ Tổ quốc, Gamov đã định cư ở Mỹ, nơi ông sống cho đến khi mất vào năm 1968. Ông chuyên nghiên cứu các vấn đề vật lý hạt nhân, năm 1936 cùng với nhà vật lý Mỹ Edward Teller (1908 - 2003), công bố công trình với các quy tắc chọn Gamow- Teller nổi tiếng trong lý thuyết phân rã . Nhưng về sau ông ngày càng chú ý tới các vấn đề vật lý thiên văn. Trong một số công trình hàng đầu, Gamov đã tính toán các mô hình sao với các nguồn năng lượng nhiệt hạch, nghiên cứu vai trò của nơtrinô trong các vụ nổ sao siêu mới. Tuy nhiên, thành tựu chủ yếu của ông là vào những năm 1946 - 1948 ông đã đưa ra lý thuyết ''Vũ trụ nóng'' và tiên đoán về “bức xạ tàn dư” (bức xạ phông Vũ trụ, phổ của nó gần giống phổ của vật đen tuyệt đối ở nhiệt độ gần 3 K, đã được khám phá vào năm 1965 bởi Arno Allan Pensias và Robert Woodrow Wilson). Năm 1956, Gamov tiên đoán nhiệt độ của bức xạ này là 6 K (các phép đo chính xác cho giá trị 3,5 K). Sau các công trình của Francis Crick và James Watson đưa ra mô hình cấu tạo ADN vào năm 1953, Gamov là người đầu tiên đưa ra các nguyên tắc giải mã và chính ý tưởng mã nhóm ba từ bốn ký hiệu (năm 1954) cho phép các nhà sinh học xác lập hoàn toàn mã di truyền. Gamov không được trao giải thưởng Nobel. Nhưng ít ai trong số các nhà bác học thực hiện được ba khám phá khoa học mà mỗi cái (mà lại trong các lĩnh vực hoàn toàn khác nhau: Vật lý hạt nhân, Vũ trụ học và di truyền học) đều đáng được đề nghị nhận giải thưởng này.

Gamov nhà phổ biến khoa học sáng giá, đã viết các cuốn sách: ''Ông Tompkins trong đất nước những điều kỳ lạ'' (năm 1939), “Ông Tompkins nghiên cứu nguyên tử” (năm 1944) ''Sự sinh và tử của Mặt Trời'' (năm 1940), ''Tiểu sử Trái Đất” (năm 1941), ''Một, hai, ba,.. vô tận'' (năm 1947), ''Sự ra đời của Vũ trụ'' (năm 1952), ''Ba mươi năm rung chuyển vật lý học'' (năm 1966), ''Ông Tompkins trong chính mình'' (năm 1967), ''Đường đời tuyệt vời của tôi'' (năm 1970). Vào năm 1956, George Gamow được trao giải thưởng Kalinga của UNESCO dành cho những người phổ biến khoa học xuất sắc.

 

ANTOINE HENRI BECQUEREL

 

Lịch sử biết đến không ít ví dụ ở đó các đại biểu của một gia tộc lần lượt nối tiếp nhau trong nhiều năm nổi trội trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của hoạt động con người. Các nhà toán học, cơ học và vật lý học Bernoulli, các nhà thiên văn học Cassini, các nhà vật lý Curie...

Đứng đầu khoa vật lý ở Viện bảo tàng lịch sử tự nhiên Paris và đồng thời cả Viện lưu trữ (nơi bảo quản) nghệ thuật và nghề thủ công trong suốt 110 năm, từ 1838 đến 1948 là những người trong gia đình Becquerel. Nói đúng ra, khoa vật lý đã được thành lập cho ông nội của Henri Becquerel là Antoine Cesar Becquerel (1788 - 1878), Viện sĩ viện Hàn lâm khoa học Paris (từ năm 1829) và là chủ tịch Viện (từ năm 1838).

Người con trai thứ ba của Antoine là Alexandre Edmond Becquerel (1820 - 1891) ''được thừa kế'' khoa vật lý vào năm 1852. Khi giúp cha tiến hành các thí nghiệm, ông đã quan tâm tới sự phát lân quang của các tinh thể và ngay từ năm 1858, trong một công trình của mình ông đã nhận xét rằng ''các hợp chất của urani phát sáng rõ nhất''. Năm 1879, sau khi cha mất, Alexandre Edmond đã trở thành giám đốc Bảo tàng lịch sử tự nhiên.

Con của Edmond, Antoine Henri Becquerel (1852-1908), sau khi tốt nghiệp Trường Bách khoa Paris (năm 1874), đã bảo vệ luận án tiến sĩ tại khoa các khoa học tự nhiên trường Đại học tổng hợp Paris (năm 1888) và vào năm 1889, đã được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học Paris. Sau khi Alexandre Becquerel mất, Henri là người đứng đầu khoa vật lý ''của gia tộc'' (năm 1891). Truyền thống này chấm dứt vào năm 1948, sau khi con của Henri là Jean Becquerel xin từ nhiệm.

Tại khóa họp Viện Hàn lâm khoa học Paris ngày 20 tháng Giêng năm 1896, Henri Becquerel là người đầu tiên hiểu rõ rằng các tia X vừa được Rontgen phát hiện là đi từ một vệt sáng, tạo ra ở chỗ mà các tia catôt va đập vào thành của ống chân không làm cho nó phát quang. ''Các chất phát lân quang liệu có phát ra bức xạ như thế không?'' - Becquerel suy nghĩ. Ông đã kiểm tra phỏng đoán của mình trong phòng thí nghiệm bằng cách lấy các mô hình chất phát lân quang khác nhau (trong đó có muối urani) đã được thu thập 15 năm về trước, lúc ông còn làm việc với cha mình. Các tiêu bản phát lân quang được đưa ra phơi dưới ánh sáng Mặt Trời - như thế chúng ''đã được thâu nạp''. Sau khi tiêu bản được đưa vào buồng tối, sự phát sáng yếu dần: vật chất ''giải toả''. Thí nghiệm thật đơn giản: Becquerel bọc kính ảnh bằng hai lớp giấy đen không cho ánh sáng qua được và đặt trên nó chiếc đĩa có các tinh thể phát lân quang. Sau khi tráng phim người ta phát hiện thấy có các đường viền của các tinh thể.

Có cảm tưởng ''hình như sự phát lân quang được cảm ứng bởi ánh sáng Mặt Trời, đã khiến cho các tiêu bản phát ra tia X giống như sự phát quang xuất hiện dưới tác dụng của các tia catôt kích thích thành thủy tinh của ống chân không làm nó phát ra tia X''. Vào cuối tháng hai năm 1896, Becquerel còn dự tính một thí nghiệm nữa: dưới chiếc đã đựng muối urani, đặt lên trên bản phim đã được gói kín bằng giấy không cho ánh sáng đi qua, ông đặt một cây thánh giá bằng đồng. Ông không đưa đĩa muối urani ra phơi sáng nữa: mấy hôm đó ở Paris trời u ám đầy mây. Và Becquerel trong lúc chờ Mặt Trời xuất hiện, đã đem dụng cụ thí nghiệm của mình cất vào ngăn kéo ở bếp. Chủ nhật mồng 1 tháng ba năm 1896, không chờ được đến ngày trời đẹp nữa, ông đã quyết định đem phim ra rửa, và ông hết sức kinh ngạc thấy rằng trên phim hiện lên đường viền màu đen hình cây thánh giá.

Con trai Becquerel là Jean lúc đó 18 tuổi, đã nhớ lại rằng khám phá này đã làm cha ông bối rối: các muối urani đã phát bức xạ đi xuyên qua các lớp giấy không cho ánh sáng lọt qua và để lại một vết rõ nét trên phim mà không cần ''nạp'' bằng ánh sáng.

Henri Becquerel vô tình đã nghiên cứu tỉ mỉ hiện tượng phóng xạ tự nhiên, nhưng ông thậm chí đã không ngờ tới việc khám phá này sẽ tạo ra thay đổi lớn lao nào trong các quan niệm về cấu trúc vật chất, những phát minh nào tiếp theo đó, và chúng được phản ánh trong số phận của loài người như thế nào. Do khám phá ra tính phóng xạ Henri Becquerel được nhận giải Nobel về vật lý năm 1903.

 

PIERRE VÀ MERIE CURIE

Cặp vợ chồng Curie cùng chia giải thưởng Nobel với Henri Becquerel. Chính Marie đã đưa ra thuật ngữ tính phóng xạ. Năm 1911, bà Curie, như người ta vẫn gọi bà một cách kính trọng như thế trên toàn thế giới, đã được trao giải thưởng Nobel lần thứ hai, nhưng lần này là giải về hóa học do khám phá ra các nguyên tố hóa học mới: poloni và rađi. Lặp lại kỷ lục độc đáo này của Marie Curie chỉ có hai người khác: Linus Pauling, người được nhận giải Nobel về hóa học (năm 1954) và giải thưởng Nobel vì hòa bình (năm 1962), cũng như John Bardeen, các thành tựu khoa học của ông được đánh dấu bằng hai giải thưởng Nobel về vật lý: năm 1956 (do tạo ra được chiếc tranzito bán dẫn đầu tiên cùng với W. Brattain) và năm 1972 (do đưa ra lý thuyết vi mô về tính siêu dẫn, cùng với L.Cooper và J. Schrieffer).

Pierre Curie (1859 - 1906) sinh ra trong gia đình bác sĩ. Ông học bậc tiểu học ở nhà, khi 16 tuổi ông đã trở thành sinh viên đại học Sorbonne. Sau khi được nhận bằng thạc sĩ năm 1877, ông đã giảng dạy 22 năm ở trường vật lý và hóa. Pierre Curie có đóng góp lớn vào các lĩnh vực khác nhau của vật lý. Cùng với người anh tên Jacques, Pierre Curie đã khám phá ra hiệu ứng áp điện thuận: khi nén hay kéo các tinh thể thạch anh theo những phương nhất định, trên biên của nó xuất hiện điện tích (năm 1880). Tiếp theo hiệu ứng này là hiệu ứng áp điện nghịch: sự biến dạng cơ học của tinh thể thạch anh khi các biên của nó bị nhiễm điện. Ngày nay người ta đã biết có tới trên năm trăm các chất tinh thể có các tính chất áp điện. Jacques và Piene Curie đã chế tạo được các cảm biến áp điện đầu tiên để đo các điện tích nhỏ và các dòng điện yếu. Pierre Curie đã nêu ra lý thuyết hình thành các tinh thể, phát biểu nguyên lý tổng quát trong sự phát tnển của chúng, đưa ra khái niệm năng lượng bề mặt của các mặt biên tinh thể (1884 - 1885). Nghiên cứu tính đối xứng của các tinh thể, ông đưa ra nguyên lý mang tên ông cho phép khôi phục tính đối xứng của tinh thể khi chịu tác dụng của tương tác bên ngoài (năm 1894).

P. Curie đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ lên các tính chất từ của vật thể. Năm 1895, ông phát hiện rằng ở các chất nghịch từ, độ từ thẩm không phụ thuộc nhiệt độ còn ở các chất thuận từ thì nó tỷ lệ nghịch với nhiệt độ (định luật Curie). Năm 1895 được đánh dấu bằng một khám phá mới: nhiệt độ mà khi cao hơn nó các tính chất từ của sắt biến mất, còn các tính chất khác thì biến đổi nhảy vọt (điểm Curie).

Maria Sklodowska (1867 - 1934) được sinh ra trong gia đình một thầy giáo ở Vacsava (Ba Lan khi đó nằm trong thành phần Đế quốc Nga). Maria học giỏi ở trường phổ thông nhưng học đại học đối với phụ nữ ở Nga khi đó là một mơ ước viển vông, và Maria tám năm làm gia sư và gửi toàn bộ tiền lương kiếm được cho chị gái Bronislawa đang theo học ngành y ở Paris. Năm 1891, người chị tốt nghiệp và lấy chồng. Cũng năm đó Maria sang Paris với chị gái và vào học trường Sorbonne. Năm 1893, bà đứng đầu trong các bài thi tổng kết về vật lý, còn năm 1894, đứng thứ hai trong các bài thi môn toán.

Cuộc gặp gỡ đáng ghi nhớ của Pierre Curie và Maria Sklodowska diễn ra năm 1894; ngày 25 tháng bảy năm 1895 họ thành vợ chồng và bà trở thành Marie Curie.

Lập tức ngay sau khám phá của Becquerel về tính phóng xạ (năm 1896), họ bắt đầu công cuộc nghiên cứu có hệ thống các vật liệu phóng xạ, tiến hành các thí nghiệm đúng là tại kho chứa đồ. Mấy năm trời Marie làm việc không có lương và chỉ đến năm 1904, khi mà Pierre Curie trở thành giáo sư vật lý ở Sobonne, người ta mới tuyển bà làm trợ lý. Trong thực tế, công việc chung của cặp vợ chồng bà là sự hợp tác bình đẳng. Rửa đi rửa lại nhiều tấn quặng urani, họ mới tách được từ đó nguyên tố mới poloni (để tôn vinh đất nước Ba Lan mà tên gọi Latinh là Polonia, quê hương của Marie), và rađi (từ tiếng Latinh radio = ''phát ra các tia''). Năm 1903, Marie Sklodowska - Curie trở thành người phụ nữ đầu tiên ở Pháp có học vị tiến sĩ.

Sau khi vợ chồng Curie được nhận giải thưởng Nobel, người ta thành lập ở Sorbonne khoa vật lý và một phòng thí nghiệm (năm 1904) mà về sau trở thành Viện Rađi. Pierre Curie thường đau ốm. (Từ những tờ giấy đã ngả màu vàng trong các tạp chí của phòng thí nghiệm của vợ chồng ông, đến nay vẫn phát ra phóng xạ mạnh, nguy hiểm đối với sức khỏe con người). Pierre Curie qua đời vì một chuyện bất hạnh: ngày 19 tháng tư năm 1906, khi đi qua đường ông bị trượt chân và cỗ xe qua đường đã cán lên.

Marie Curie chỉ còn lại hai cô con gái: Irène và Eve.Irène (1897-1956) nối gót cha mẹ đã chọn con đường trở thành nhà vật lý. Năm 1935, bà cùng với chồng là Frédéric Joliot. Curie (ghép họ vợ với họ của mình như một dấu hiệu thừa kế các nghiên cứu được Pierre và Marie khởi xướng) được nhận giải thưởng Nobel về hóa học. Khoa vật lý được xây dựng ở Sorbonne cho Pierre đã được chuyển sang cho Marie. Năm 1910, bà Curie công bố cuốn sách

mang tính nền tảng về tính phóng xạ, và bốn năm sau đứng đầu phòng thí nghiệm phóng xạ ở Viện rađi mới được khai trương (ở Paris). Trong thời gian chiến tranh thế giới I, cùng với Irène, Marie Curie đã dùng tiền quyên góp của mình trang bị các máy móc Rontgen cho các bệnh viện dã ngoại và đứng đầu cơ quan y học phóng xạ của Hội chữ thập đỏ. Sau khi chiến tranh kết thúc, Marie Curie đi nhiều nước đọc bài giảng về các vấn đề khoa học. Nhờ những nỗ lực của bà ở Viện radi đã thu thập được một khối lượng lớn các chất phóng xạ cho các mục đích nghiên cứu (trước khi xây dựng được những máy gia tốc đầu tiên). Chính số vật liệu này đã góp phần đáng kể cho phát minh của Irène và Frédéric Joliot - Curie về tính phóng xạ nhân tạo.

Trong số học trò và cộng tác viên ngoại quốc ở phòng thí nghiệm Joliot - Curie những năm 1930 - 1940 có Tiền Tam Cường (1913 - 1992) (Trung Hoa) và Ngụy Như Kon Tum (Việt Nam).

Để tỏ lòng kính trọng vợ chồng Curie, người ta đã đặt tên cho đơn vị hoạt động phóng xạ ngoài hệ SI của các đồng vị là curi (Ci) và nguyên tố hóa học có số nguyên tử 96 là curi (Cm).




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1219-02-633401526829979394/Thien-anh-hung-ca-sieu-Urani/Phep-than-ky...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận