Tài liệu: Phật Thích Ca Mâu Ni người sáng lập ra đạo Phật

Tài liệu
Phật Thích Ca Mâu Ni người sáng lập ra đạo Phật

Nội dung

PHẬT THÍCH CA MÂU NI

NGƯỜI SÁNG LẬP RA ĐẠO PHẬT

(Ra đời ở thế kỷ V.Tr.CN)

Trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới hiện nay (Phật giáo, Thiên chúa giáo và Hồi giáo), thì Phật giáo ra đời sớm nhất (thế kỷ V Tr. CN) và có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia ở châu Á. Người sáng lập ra Đạo Phật là một người Ấn Độ sống cách chúng ta hơn 2500 năm. Đó là Đức phật Thích Ca.

Một số tài liệu lịch sử đáng tin cậy nói rằng, Phật Thích Ca là con trai thủ lĩnh người Sakia, một bộ lạc nhỏ cư trú ở chân núi Himalaya. Ngài đã từ bỏ gia đình đi tu hành và sáng lập ra giáo thuyết mới được rất nhiều người tin theo. Sau nhiều năm hành Đạo, Ngài đã đem giáo pháp mới của mình phổ biến tới các bộ lạc sống ở phía Bắc sông Hằng và các tiểu quốc Kôsala và Magadha. Ngài mất vào khoảng những năm 486 - 473 Tr. CN, thọ 80 tuổi. Tư liệu lịch sử chỉ vẻn vẹn có như vậy. Thế nhưng các môn đồ của đạo Phật sau này đã dựng nên một câu chuyện sống động, ly kỳ về cuộc đời của Ngài.

Cuộc đời của Phật Thích Ca được kể lại trong các truyền thuyết như sau:

''Vào một đêm, Mahamaia, người vợ chính của Suddhodana, Vua của người Sakia mơ thấy mình được đưa tới hồ thiêng Anavatápta Himalaya. Sau khi các Thiên thần tắm rửa cho bà trong hồ thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có đóa sen ở vòi bước tới và chui vào sườn bà. Ngày hôm sau, các nhà thông thái được vời tới để giải giấc mơ của Hoàng hậu. Các nhà thông thái cho rằng, giấc mơ là điềm Hoàng hậu có mang và sẽ sinh hạ được một Hoàng tử tuyệt vời, người sau này sẽ trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc người thầy của thế giới. Đến ngày, đến tháng, Hoàng hậu Mahamala trở về nhà cha mình để sinh con. Thế nhưng vừa tới khu vườn Lumbini, cách thủ đô Capilavastu của người Sakia không xa, Hoàng hậu trở dạ và vị Hoàng tử  đã ra đời. Vừa ra đời, vị Hoàng tử tí hon đã đứng ngay dậy, đi bảy bước và nói: “Đây là kiếp cuối cùng của ta, từ nay ta không còn phải luân hồi một kiếp nào nữa!”.

Đến ngày thứ năm, một nghi thức trọng thể được tổ chức và Hoàng tử được đặt tên là Siddhartha. Để ngăn cản Hoàng tử không nghĩ tới việc tu hành, đức Vua cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh người con trai của mình một cuộc sống vương giả. Hoàng tử được học mọi kiến thức để sau này trở thành một vị Vua tài ba anh minh trị vì đất nước Ấn Độ bao la. Thế rồi, nhà Vua và quần thần đã kén cho Hoàng tử một người vợ kiều diễm. Nhưng cuộc đời vương giả không cám dỗ được Hoàng tử trẻ tuổi. Bốn sự việc do các Thần tạo ra đã làm thay đổi hẳn cuộc đời của Hoàng tử Siddhartha. Đó là một lần khi đang dạo chơi trong vườn, Hoàng tử nhìn thấy một ông già gầy còm, ốm yếu và nhận ra một điều là mọi người rồi ai cũng sẽ phải già yếu như thế, ít lâu sau, Hoàng tử lại được chứng kiến cảnh người ốm và cảnh người chết. Ba sự việc trên làm cho Hoàng tử băn khoăn lo nghĩ về kiếp người và muốn cứu con người thoát khỏi thăng trầm luân đau khổ của kiếp luân hồi; sinh, lão, bệnh, tử. Chính sự việc thứ tư đã đem đến cho Hoàng tử niềm an ủi và hy vọng. Lần đó Hoàng tử nhìn thấy một vị hành khất dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự tại. Vừa nhìn thấy vị hành khất, Hoàng tử như bừng tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất như thế.

Được tin, đức Vua Suddhôđana tìm mọi cách ngăn cản Hoàng tử. Thế nhưng Hoàng tử không thể nào xua đi được bốn sự việc mà mình đã chứng kiến khiến lòng dạ Hoàng tử không lúc nào được thanh thản. Ngay cả tin mừng Công chúa Yashôdhara sinh cho chàng một Hoàng nam cũng không làm Hoàng tử Siddhartha vui. Ngay đêm hôm đứa con ra đời, khi mọi người đã ngủ say, Hoàng tử lặng lẽ đến nhìn con và vợ lần cuối; rồi đánh thức người đánh xe dậy, cùng mình cưỡi con ngựa Canthaca yêu quý rời khỏi Hoàng cung. Khi đã rời khỏi Đô thành, Hoàng tử trút bỏ bộ áo Hoàng tộc và mặc lên người bộ quần áo thường dân. Hoàng tử dùng kiếm cắt mớ tóc dài của mình và nhờ người đánh xe đem mớ tóc và bộ quần áo về trao lại cho đức Vua. Còn con ngựa Canthaca vì đau khổ phải chia tay với ông chủ của nó nên đã lăn ra chết ngay tại chỗ. Rời Hoàng cung dứt áo ra đi, Hoàng tử Siddhartha đã trở thành nhà tu hành.

Thoạt đầu Hoàng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu khổ hạnh. Sau đó, Ngài vào rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho Ngài các phép Thiền định và những triết lý của Upanishad. Học thuyết và thực hành giải thoát cá nhân của Upanishad không hấp dẫn Hoàng tử. Ngài đi tiếp và nhập vào nhóm năm người tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trường ép xác, Hoàng tử gần như chỉ còn bộ xương khô mà vẫn chưa tìm được chân lý giải thoát. Ngài bèn bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh và trở lại ăn uống bình thường.

Khi Hoàng tử Siddha 35 tuổi, một hôm Ngài đến ngồi dưới gốc cây bồ đề ở ngoại vi thành phố Gaia. Đây là vùng đất của Vua Bimbisara, Vua nước Magadha. Cho đến một hôm có nàng Sudjata, con gái của một nông dân trong vùng đem cho Ngài một bát cơm to nấu bằng sữa. Ăn xong, Ngài xuống sông tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi Thiền định và nguyện sẽ không đứng dậy nếu không tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự khổ đau. Và Hoàng tử đã ngồi dưới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm. Bảy tuần lễ đó là cả một chuỗi ngày đầy thử thách. Để phá sự Thiền định của Hoàng tử, con quỷ dữ Mara tìm đủ mọi cách làm Ngài nản chí. Thoạt đầu, quỷ Mara biến thành một sứ giả đến báo cho Hoàng tử là Đevađatta nổi loạn, bắt nhốt đức Vua cha vào ngục và chiếm nàng Yashodrara làm vợ. Thế nhưng tin dữ đó không làm cho Hoàng tử bận tâm, Mara bèn gọi các quỷ dữ lôi làm ra mưa to gió lớn gây ra động đất lụt lội, nhưng Hoàng tử vẫn ngồi bình thản dưới gốc cây bồ đề. Cảm phục trước ý chí kiên định của Hoàng tử, rắn Thần Naga dùng thân làm bệ che cho Hoàng tử ngồi, dùng bảy đầu làm tán che mưa gió cho Hoàng tử. Thấy thế, quỷ dữ Mara bèn dùng biện pháp quyết liệt và tinh tế hơn để công phá vào thành trì kiên định của Hoàng tử Siddhartha. Nó cho gọi ba cô con gái xinh đẹp của mình là các nàng Khát Vọng, Khoái Lạc và Dục Vọng tới múa nhảy mê hoặc nhà tu hành trẻ tuổi. Thế nhưng, biện pháp cuối cùng này của quỷ Mara cũng thất bại và lũ quỷ phải rời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng ngày thứ 49, Siddhartha đã tìm ra bí mật của sự đau khổ, đã hiểu được vì sao mà thế giới tràn đầy đau khổ và cũng tìm ra được cách chiến thắng những đau khổ. Ngài đã hoàn toàn giác ngộ và thành Buddha (Đấng giác ngộ). Sau khi giác ngộ. Đức Phật còn ngồi tiếp bảy ngày nữa dưới gốc cây bồ đề suy ngẫm về những chân lý diệu kỳ mà mình vừa khám phá. Ngài phân vân không biết có nên phổ biến Đạo pháp của mình cho thế giới không vì nó huyền diệu quá, khó hiểu quá đối với mọi người. Chính Thượng đế Brahma phải giáng trần, khích lệ Đức Phật truyền bá Đạo pháp của mình cho thế gian. Chỉ khi đó, Phật mới rời khỏi cây bồ đề đi tới khu Vườn Lộc Uyển gần Varanasi để giảng bài thuyết pháp đầu tiên cho năm người bạn tu khổ hạnh của mình. Sự kiện này được ghi chép lại như một trong những sự kiện quan trọng nhất của Đạo Phật và được gọi là Phật quay bánh xe Đạo pháp (chuyển Pháp luân). Giáo pháp mới của Phật đã gây ấn tượng mạnh đối với năm nhà tu khổ hạnh và họ lập tức trở thành môn đồ đầu tiên của Đức Phật. Vài ngày sau, số môn đồ của Phật đã tăng tới 60 người. Ngài phái các môn đồ của mình đi khắp nơi truyền bá Đạo pháp. Theo thời gian, số tín đồ theo Đạo pháp của Phật ngày càng đông và các tổ chức Tăng Già đã ra đời.

Các truyền thuyết kể nhiều về những năm tháng đi truyền đạo và những kỳ tích của Phật. Sau một thời gian truyền đạo ở các nơi khác, Phật trở về Capilavastu và đã giác ngộ cho cha, vợ, con trai Rahula cũng như nhiều triều thần khác, trừ người em họ Đevađatta. Ghen tức trước uy danh của người anh, Đevađatta thả con voi điên với âm mưu để nó vào giết Phật. Nhưng kỳ lạ thay, con voi điên hung dữ đã cúi đầu khuất phục trước Đức Phật uy nghi. Trong khi ở lại quê nhà, Đức Phật còn ngăn chặn được cuộc chiến tranh giữa người Sakia và người Côlia. Ngài một mình đi giữa những hàng quân của hai bộ lạc và giảng cho họ hiểu về sự vô lý của chiến tranh.

Các truyền thuyết còn kể lại rằng, một lần tại Sravasti, để chứng tỏ uy lực của mình đối với các giáo phái đối lập, Đức Phật đã bay lên không trung tỏa hào quang rực rỡ muôn hồng nghìn tía và biến hóa diệu kỳ trước mặt những người thù địch. Một câu chuyện khác về Đức Phật thật cảm động và đầy triết lý. Truyện kể rằng, lần đó, một người phụ nữ có con chết đã đến xin Phật làm cho đứa con của mình sống lại. Đức Phật nhận lời, nhưng đưa ra yêu cầu là người mẹ phải tìm được một nắm hạt cải của một gia đình bất kỳ nào đó nhưng phải là gia đình không hề có người chết. Người mẹ đi hết nhà này đến nhà khác mà không tìm thấy một nhà nào mà lại không hề có người chết. Cuối cùng, người mẹ kia hiểu rằng đau khổ và chết là sự tất yếu đối với mọi người và bà đã quy y theo Đạo Phật. Trong suốt bốn mươi năm trời, mỗi năm tám tháng, trừ bốn tháng mùa mưa, Đức Phật đi khắp nơi truyền bá Đạo pháp mới của mình cho mọi chúng sinh.

Đến năm 80 tuổi, biết mình tuổi cao, sức yếu, Đức Phật cùng các môn đồ trở về chân núi Himalaya nơi Ngài sinh ra và lớn lên. Trên đường, Phật đã chuẩn bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập được sau khi Ngài viên tịch. Và, tại một nơi thuộc ngoại vi Thành phố Cusinagara, Phật đã ra đi. Câu nói cuối cùng của Phật là: Hỡi các Tì Kheo, tất cả những gì đang tồn tại rối sẽ qua đi. Vậy các người càng nên không ngừng gắng sức!

Các truyền thuyết Phật giáo còn kể rằng: Sau khi Phật nhập Niết bàn, các môn đồ của Ngài tập hợp tại Ratjagriha. Thủ đô của Vương quốc Magatha. Trong cuộc kiết tập vĩ đại lần thứ nhất này, Upali một trong những môn đồ gần gũi nhất của Phật, thuật lại toàn bộ những điều mà Phật đã nói ra về việc tổ chức các gia tăng để lập thành bộ Luật (Vnayapitaka) của Phật giáo. Cũng trong cuộc kiết tập đó, Ananđa, một môn đồ giỏi của Phật, đã tập hợp tất cả những lời dạy của Phật liên quan tới giáo lý và đạo đức thành bộ Kinh (Suttapitaka). Về sau, các Phật tử còn tổ chức ba cuộc kiết tập nữa để hoàn thiện toàn bộ cả ba bộ Kinh, Luật, Luận được gọi chung là Tam Tạng kinh. Cứ sau mỗi lần kiết tập là Phật giáo lại thêm một bước hoàn thiện và thêm lan truyền sâu rộng không chỉ ở Ấn Độ mà còn ra cả các nước khác ở châu Á.

Sở dĩ Đạo Phật có một sức hút kỳ lạ đối với hầu hết các dân tộc ở châu Á vì các giáo lý của Phật chủ yếu tập trung vào tư tưởng giải thoát cho mọi chúng sinh khỏi biển khổ của cuộc đời. Hòn đá tảng trong tư tưởng giải thoát của Đạo Phật là khái niệm về Tứ diệu đế (Bốn chân lý diệu kỳ): Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Theo quan niệm của Tứ diệu đế, cuộc sống của chúng sinh chủ yểu là khổ (chân lý về khổ); nguyên nhân của khổ là do chúng sinh bị ràng buộc quá nhiều vào những ham muốn bình thường (chân lý về tập); do đó muốn khỏi khổ, chúng sinh phải diệt trừ tận gốc các ham muốn thái quá (chân lý về diệt); để diệt được các ham muốn, chúng sinh phải thực hành Đạo (chân lý về Đạo).

Dần dần, theo thời gian, các vị cao tăng người Ấn Độ như Nagasena, Vasumitra, Ashvagôsha, Nagarjuna, Asana, Vasubanđu,… đã phát triển các giáo lý của Đạo Phật thành một học thuyết tôn giáo, triết học hoàn chỉnh. Rồi các Vua chúa người Ấn Độ như Asôka (Adục), Canishka, các nhà sư người Ấn Độ Trung Quốc và các nước khác đã đem Phật giáo truyền bá ra khắp châu Á. Nhờ thế mà ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cămpuchia, Sri Lanka, Mông Cổ... đã ra đời cả một nền văn hóa nghệ thuật Phật giáo độc đáo.

Suốt 25 thế kỷ qua, Đức Phật, người sáng lập ra Đạo Phật, luôn được coi là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại.

PTS. NGÔ VĂN DOANH




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1059-02-633389382092534528/Nhung-nha-tu-tuong-va-triet-gia-noi-tieng...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận