Bão Cát Chương 13

Chương 13
Ngày 3 tháng 12, 5 giờ 55 phút chiều Núi Dhofar

Safia nhìn ra cửa sổ khi chiếc xe làm một cua lượn trên mỏm núi. Sau khi rời đường quốc lộ, đường nhựa đã nhường chỗ cho con đường rải sỏi mà giờ đây nhão nhoét với đất đỏ.
Họ tiến chầm chậm, luôn phải trông chừng đoạn đèo ngay
trước mặt.

Phía dưới, thung lũng phủ đầy màu xanh, giờ đã chuyển sang màu sẫm khi mặt trời lặn về phía Tây. Một vài cây bao báp hiện lên ở chân đèo, làm cho cảnh tượng càng thêm cổ quái. Một cái thác đang đổ nước xuống từ hai ngọn đồi kế bên, cột nước ánh lên dưới những tia nắng mặt trời cuối cùng trong ngày.

Khi Safia nhắm mắt lại, nàng hình dung hầu hết cảnh tượng nơi đây giống như thời gian nàng sống bên Anh.

Bầu trời đã tối dần, những đám mây treo lơ lửng trên các mỏm đồi cao hơn ở phía xa. Lúc này, khi mặt trời lặn xuống, gió bắt đầu thổi mạnh hơn, len lỏi qua các thân cây lớn.

 

Từ lúc chiếc xe leo lên dốc, máy thu trên xe đã phát bản tin địa phương. Cassandra cố lắng nghe xem có tin tức gì liên quan đến công tác cứu hộ chiếc thuyền buồm ShababOman. Tuy nhiên, người ta vẫn không tìm thấy ai sống sót, và mặt biển lúc này lại bắt đầu bị khuấy động bởi một cơn bão sắp tới. Tin tức đáng chú ý nhất trong bản tin thời tiết là về cơn bão cát ác liệt đã tràn qua A-rập Saudia và hướng vào phía sa mạc Oman, để lại phía sau sự tàn phá nặng nề.

Thời tiết hoang dã phù hợp với tâm trạng của Safia: âm u, đe dọa và không đoán trước được. Nàng cảm thấy như có một thế lực đang lớn dần lên trong cơ thể nàng, nằm bên dưới xương quai xanh, một cơn bão đang bị nén trong bình. Nàng vẫn tiếp tục căng thẳng. Điều đó gợi cho nàng nhớ đến một vụ tấn công sắp tới, nhưng giờ đây không còn nỗi sợ hãi mà chỉ là một điều chắc chắn. Nàng chả có gì cả nên cũng không có gì để mất. Nàng nhớ lại những năm ở London. Cũng như vậy thôi. Nàng tìm kiếm sự thoải mái bằng cách trở thành không là cái gì cả, tự cắt bỏ mọi thứ và tự cô lập mình. Nhưng giờ đây nàng đã thực sự thành công. Nàng thấy mình trống rỗng, chỉ còn lại mỗi mục đích: ngăn chặn Cassandra. Điều đó là đủ.

Cassandra như chìm đắm trong suy nghĩ của ả, chỉ thỉnh thoảng nhô về phía trước thì thào trò chuyện với John Kane. Cách đây vài phút, máy di động của ả rung lên. Ả trả lời cụt lủn, nói như thầm thì. Nàng chỉ nghe loáng thoáng nhắc đến tên Painter, cố dỏng tai nghe lén nhưng ả nói quá bé nên chả nghe thấy gì cả. Rồi ả cúp máy, làm hai cuộc gọi nữa và trở về trạng thái im lặng căng thẳng. Nỗi giận dữ dường như đang cuộn lên trong người đàn bà đó.

Từ lúc đó, Safia quay sang nhìn cảnh vật ven đường, cố phát hiện nơi nàng có thể ẩn nấp, phác họa địa hình trong đầu trong trường hợp có thể.

 

Lại 10 phút chậm rãi bò lên dốc trôi qua, một ngọn đồi lớn hơn hiện ra, nó vẫn đang tắm trong ánh nắng mặt trời. Quả chuông màu vàng của một cái tháp nhỏ lấp lánh dưới ánh nắng.

Safia ngồi phắt dậy. Ngôi mộ của Job.

- Có phải nó kia rồi không? - Cassandra hơi cựa quậy, mắt vẫn nhắm nghiền vì bực bội và giận dữ.

Safia gật đầu, cảm thấy giờ là lúc để khiêu khích kẻ đã bắt cóc mình.

Chiếc xe đi xuống sườn đồi cuối cùng, lượn một vòng quanh mỏm núi rồi lại tiếp tục leo lên đỉnh. Một tốp lạc đà đi chậm rãi theo dọc con đường khi chiếc xe của họ gần đỉnh núi. Những con vật lúc này đang nghỉ, khuỵu chân trước xuống. Một vài người đàn ông tản mác nghỉ dưới bóng cây bao báp, họ là những người dân của bộ lạc trên núi. Những con mắt của cả đám lạc đà và người đều dõi theo ba chiếc xe đang chạy.

Sau một đường cua, khu vực mộ hiện ra, gồm một tòa nhà màu vàng nhạt, một ngôi đền nhỏ và một khuôn viên cây cảnh và hoa. Nơi đỗ xe duy nhất là con đường đất nhỏ phía trước.

Giống như lúc trước, Kane cho xe dừng hẳn rồi bước ra mở cửa xe cho Safia. Nàng trèo ra, vươn vai cho đỡ mỏi cổ. Cassandra xuống cùng với họ trong khi hai chiếc xe kia cũng đã đỗ và tụi lính trên xe tỏa ra. Chúng đều mặc quần áo dân sự bằng ka ki hoặc quần bò levis, áo phông ngắn tay. Nhưng tất cả bọ n chúng đều mặc áo gió gắn logo của hãng Sun Tour, rộng thùng thình để che vũ khí. Chúng nhanh chóng tản ra làm thành một hàng rào gần đường, vờ như đang xem những mảnh vườn hoặc các bức tường. Hai tên cầm ống nhòm quan sát khu vực phụ cận.

Trừ đoạn đường dẫn lên đây, tất cả đường mòn khác đều dốc quanh co, gần như thẳng đứng theo vách đá. Thật khó có thể chạy trốn bằng đường bộ.

 

John Kane đến chỗ tụi lính, gật đầu rồi hỏi:

- Bắt đầu từ chỗ nào?

Safia chỉ về phía đền thờ và mái vòm. Từ ngôi mộ này sang ngôi khác. Nàng dẫn đường qua lối vào của bức tường.

- Khu vực này xem ra có vẻ ít người tới. - Kane nhận xét.

- Chắc phải có người quản lý quanh quẩn đâu đó. - Safia nói, chỉ tay về đoạn dây xích đã tháo treo lơ lửng trên một cánh cửa ra vào. - Chả ai khóa khu vực này cả.

- Hãy lục soát khu vực này đi. - Cassandra vẫy hai người.

Tuân lệnh, hai gã bắt đầu đi sục sạo.

Cassandra dẫn đường theo sau bọn chúng. Safia đi sau và tiếp đến là Kane. Họ bước vào trong sân, giữa ngôi đền và mái vòm màu vàng. Nổi bật lên ở chính giữa là một đống đổ nát nằm gần khu mộ. Một phòng cầu nguyện cổ xưa, được coi là những gì còn lại của ngôi nhà của Job.

Gần đó, cánh cửa dẫn vào ngôi mộ mở toang, không khóa giống như cửa ngoài.

Safia nhìn vào cánh cửa.

- Chắc phải mất chút thời gian. Trong đầu tôi chưa hề có ý tưởng gì nên bắt đầu từ đâu để tìm kiếm dấu vết tiếp theo.

- Nếu mất cả đêm thì hãy làm cả đêm.

- Chúng ta sẽ ở đây ư? - Safia hỏi, giọng không giấu nổi vẻ ngạc nhiên.

- Chừng nào mà cần thiết. - Cassandra lạnh lùng đáp lại.

Safia nhìn quanh cái sân. Nàng cầu mong sao cho người gác mộ đã bất cẩn không khóa khu vực này và đi chỗ khác mất rồi. Nàng lo ngại phải nghe thấy tiếng súng nổ ở đâu đó ngoài kia, chứng tỏ ông ta đã bị giết. Và thế còn những người hành hương khác đến sau thì sao đây? Liệu sẽ có bao nhiêu người bị


chết nữa?

 

Nàng cảm thấy thật bối rối. Cassandra mà càng nhanh chóng đạt được điều ả muốn thì càng có ít người vô tội bị giết. Nhưng điều đó có thể giúp được nàng. Một điều gì đó nàng rất ghét phải làm.

Không còn sự lựa chọn nào khác, nàng đi ngang qua sân rồi bước vào ngôi mộ. Nàng đã có cảm giác láng máng rằng mình cần tìm gì –nhưng không phải ở chỗ có thể nó được cất giấu.

Nàng đứng một lúc ở bực cửa. Khu mộ này nhỏ hơn ngôi mộ của Nabi Imran. Tường được sơn màu trắng, còn nền màu xanh lá cây. Hai tấm thảm Ba Tư màu đỏ trải song song phần mộ, cũng được phủ bằng vải lụa có in hình các bức vẽ minh họa từ kinh Coran. Dưới tấm vải là mặt đất trần trụi, nghe nói là xác của Job được chôn cất dưới đó.

Safia chầm chậm đi một vòng quanh mỏm đất. Ở đây không có bia mộ bằng đá cẩm thạch giống như tại khu mộ Imran, chỉ thấy rải rác những chiếc lư hương bằng đất sét đã ngả sang màu đen vì thường xuyên sử dụng, và một cái khay để khách đặt vào những đồng tiền phúng viếng. Ngoài ra căn phòng chả được trang trí gì trừ một cái bảng trên tường ghi lại tên của các vị tiên tri từ Moses, Abraham, Job, Jesu và Mohamed. Safia hy vọng họ không cần phải tới mộ của tất cả các vị đó trên đường tới Ubar. Nàng dừng lại ở ngưỡng cửa.

- Thế có cần dùng đến quả tim bằng sắt không? Chúng ta có phải sử dụng nó ở đây chứ? - Cassandra hỏi vọng từ phía cửa. Giống như lần trước, ả đã mang theo chiếc va li màu nhũ rồi đặt xuống ở phía cửa.

Safia lắc đầu, cảm giác có lẽ quả tim đó không cần ở đây. Nàng đi ra khỏi căn phòng, luồn qua chỗ đứng của Cassandra và Kane.

Khi Safia bước ra ngoài, nàng mới nhận ra rằng mình đã bước vào trong ngôi mộ mà vẫn đi giày. Nàng cũng không che mái tóc lại. Nàng chau mày.

 

Thế người gác mộ ở đâu rồi nhỉ?

Nàng nhìn quanh khu mộ, lo lắng cho sự an toàn của ông ta với hy vọng mong manh là ông ta đã biến mất rồi. Gió đã bắt đầu thổi mạnh, ào qua sân, làm cho nơi này trông càng cô quạnh, không một bóng người.

Nhưng Safia vẫn cảm thấy có cái gì đó... một điều gì nàng không thể nói ra được, gần như là sự trông đợi. Có thể là ánh sáng. Nó sẽ tỏa ra từ mọi thứ, từ khu mộ bên cạnh, bìa tường, ngay cả con đường rải sỏi bằng phẳng. Nàng cảm thấy như thể mình đã chờ đủ lâu để mọi thứ hiện ra với đầy đủ màu sắc và độ nét.

Nhưng nàng không còn thời gian nữa.

- Bây giờ thế nào đây? - Cassandra lại tiếp tục cao giọng.

Safia quay lại. Bên cạnh lối vào, một cánh cửa bằng kim loại gắn chặt vào nền nhà. Nàng cúi xuống cầm lấy tay nắm, biết được cái gì ở phía dưới.

- Cô đang làm gì vậy? - Cassandra hỏi.

- Công việc của tôi. - Safia cố nuốt cơn giận, hơn nữa nàng cũng quá mệt để nghe giọng khiêu khích của ả. Nàng kéo chiếc cửa lên.

Nằm giấu ở phía dưới là một hố nông khoảng 16 inch, đào qua đá. Ở phía đáy là hai vết chân: một vết của một người đàn ông to lớn còn vết chân kia của con ngựa.

- Những cái này là gì đây? - Kane hỏi.

- Nếu như các vị nh ớ câu chuyện tôi kể về Job. - Nàng giải thích. - Ông ta bị bệnh nặng cho đến khi Chúa ra lệnh cho ông ta đập bàn chân xuống và một dòng suối chữa bệnh hiện ra. Nàng chỉ vào một hố đá từ chỗ dấu bàn chân, nơi đây được coi là vết chân của Job, nơi ông ta đã giẫm chân xuống.

Nàng chỉ vào cái lỗ ở dưới đất.

- Và chỗ này là nơi dòng suối phun ra, lấy nguồn nước từ dưới chân núi.

 

- Nước đã dâng lên tận đỉnh đồi ư? - Kane ngạc nhiên.

- Có thể đó là một phép màu.

- Thế vết chân đó liên quan gì đến phép màu. - Cassandra hỏi.

Đôi lông mày của nàng hơi nhíu lại khi nàng nhìn xuống. Đó cũng là đá.

- Không có câu chuyện nào liên quan cả. - Nàng lẩm bẩm.

Tuy nhiên vẫn có điều gì đó luẩn quẩn trong trí nhớ
của nàng.

Dấu vết của bàn chân người đàn ông và con ngựa.

Tại sao điều đó nghe có vẻ quen quen nhỉ?

Trong khắp khu vực này đã có không biết bao nhiêu câu chuyện về người hay vật hóa đá. Một vài câu chuyện còn liên quan cả đến Ubar. Nàng cố lục lọi trong đầu mình. Hai câu chuyện như vậy trong Nghìn lẻ một đêm.

Thành phố hóa đá và thành phố làm bằng đồng - cả hai câu chuyện đều liên quan đến việc phát hiện ra một thành phố bị mất tích trên sa mạc, tại một nơi bị nguyền rủa đến mức mà ngay cả những cư dân ở đó đã bị cứng lại vì những tội ác của mình hoặc bị hóa đá hay biến thành đồng tùy theo từng câu chuyện. Đó là sự đề cập rõ ràng nhất tới Ubar. Trong câu chuyện thứ hai, những kẻ đi săn tìm báu vật đã không gặp được thành phố bị nguyền rủa một cách tình cờ. Có những dấu vết và vết tích dẫn đến cổng thành phố.

Nàng nhớ lại cái dấu vết quan trọng nhất từ câu chuyện này: Một pho tượng bằng đồng. Nó mô tả một người đàn ông cuỡi ngựa, tay cầm ngọn giáo, đầu gắn một dòng chữ. Nàng nhớ lại dòng chữ đó vì đã thuộc lòng câu chuyện, sau khi tiến hành nghiên cứu rất sâu một đề tài cho Kara về các điều bí mật của
A-rập.

 

Hỡi những kẻ đến với ta, nếu nhà ngươi không biết đường dẫn tới thành phố bằng đồng, hãy chà xát bàn tay vào người đàn ông cưỡi ngựa; anh ta sẽ quay lại rồi dừng và theo bất cứ hướng gì anh ta dừng lại, nó sẽ chỉ cho nhà ngươi đến thành phố
bằng đồng.

Tới Ubar.

Safia ngẫm nghĩ về đoạn này. Một pho tượng bằng kim loại xoay đi khi bị xát vào để chỉ đến biển dẫn đường tiếp. Nàng hình dung ra quả tim bằng sắt, cũng giống như cái la bàn trên mặt đá cẩm thạch. Sự tương tự là không thể lẫn đâu được.

Và bây giờ.

Nàng nhìn xuống cái hố.

Một người đàn ông và con ngựa. Hóa thành đá.

Nàng để ý rằng cách bàn chân và dấu vết con ngựa cùng chỉ vào một hướng như thể ông ta đã cưỡi trên con ngựa. Vậy thì đó có phải là hướng tới không? Nàng chau mày, cảm giác câu trả lời quá dễ dàng vì quá rõ.

Nàng hạ thấp cái nắp xuống rồi đứng đó.

Cassandra đứng bên cạnh nàng.

- Hình như cô đang sắp tới điều gì thì phải.

Nàng lắc đầu, lại chìm đắm trong sự bí hiểm. Nàng bước theo hướng của vết chân, nơi mà nhà tiên tri cùng hướng tới với con ngựa của mình. Nàng dừng lại ở lối vào của phế tích khảo cổ ngay sau ngôi mộ chính, bị phân cách khỏi một tòa nhà mới hơn bằng một lối đi hẹp. Phế tích là một kiến trúc không rõ nguồn gốc với bốn bức tường bị đổ sụp, không có mái che, mô phỏng một căn phòng nhỏ, mỗi chiều dài 10 bộ. Có lẽ trước đây nó là một ngôi nhà lớn hơn nhưng đã biến mất từ lâu. Nàng bước qua lối vào bên trong.

Trong khi Kane canh gác ở cửa, Cassandra theo nàng vào trong.

 

- Nơi này là cái gì vậy?

- Một gian phòng cầu nguyện cổ xưa. - Safia nói, nhìn lên phía bầu trời xám xịt khi mặt trời đã lặn xuống rồi bước lên tấm thảm cầu nguyện trên nền đất.

Nàng bước tới chỗ hai bức tường có những hốc nhỏ gắn vào bên trong dành cho những người cầu nguyện cổ xưa theo hướng cầu nguyện. Nàng biết cái mới hơn hướng vềMecca. Nàng bước tới cái khác, một cái hốc cũ hơn.

- Đây chính là nơi nhà tiên tri Job đã cầu nguyện. - Safia lẩm bẩm. - Luôn hướng tớiJerusalem.

Tới phía đông bắc.

Safia bước vào trong cái hốc rồi quay mặt về phía sau, ngược trở lại lối nàng vừa bước vào. Qua ánh sáng mờ mờ, nàng có thể nhìn thấy cái nắp bằng kim loại của hốc. Những bước chân đã dẫn tới đây.

Nàng nghiên cứu cái hốc. Đó là một bức tường vững chãi làm bằng sa thạch, hình vuông. Cái hốc được khoét trong một tảng đá lớn, bị thời gian hủy hoại. Nàng chạm vào phía tường trong.

Cũng là sa thạch... giống như bức tượng với quả tim bằng sắt được tìm thấy.

Cassandra bước tới phía nàng.

- Vì sao cô không chịu nói với chúng tôi những gì cô biết?

Nàng cảm thấy một họng súng lạnh ngắt chĩa vào mạng sườn. Safia cũng chả nhìn thấy ả đã rút súng ra từ khi nào.

Đặt bàn tay dựa lên bức tường, Safia quay về phía Cassandra. Không phải là khẩu súng buộc n àng phải nói mà chính là sự tò mò.

- Tôi cần có máy dò kim loại.

 


6 giờ 40 phút chiều

 

Khi màn đêm buông xuống, Painter rời con đường chính để đi vào con đường bên rải sỏi. Một biển chỉ đường có dòng chữ A-rập ghi "Jabal Eitteen 9 km".

Chiếc xe ngoặt từ con đường rải nhựa sang đường đất. Anh cũng không buồn chạy chậm lại, làm những viên sỏi bắn tung trên đường. Tiếng rít nghe thật khó chịu, giống như tiếng súng liên thanh. Điều đó càng làm anh thêm băn khoăn.

Omaha ngồi ở ghế trên, cánh cửa xe đã hạ xuống một nửa.

Danny ngồi ở băng ghế duới.

- Này, nhớ là con đường này không dành cho loại xe bốn bánh đâu. - Hàm răng cậu ta cũng va vào nhau lập cập như
chiếc xe.

- Tôi không thể nào liều cho xe chạy chậm được. - Painter nói với lại. - Khi nào đến gần hơn, tôi sẽ phải đi thận trọng, tắt đèn. Nhưng giờ thì chúng ta phải nhanh mới được.

Omaha lầu bầu đồng ý.

Painter kéo cần gạt khi xe họ trèo lên dốc. Chiếc xe khựng lại, quả là anh phải đánh vật với nó. Chiếc xe này đâu có phù hợp với chuyến đi dã ngoại vùng cao nhưng họ không còn cách
nào khác.

Khi quay lại từ quán cà phê internet, anh đã thấy đại úy
al-Haffi chờ đó với chiếc xe thùng Volkswagen đời 1988 rồi. Coral xem những thứ khác anh ta đã mua: ba khẩu súng trường Kalashnikov và hai khẩu súng lục loại 9 ly. Tất cả đều được mua bằng tiền bán con ngựa của Quốc vương Suntan. Chỗ vũ khí thì ổn với rất nhiều đạn nhưng chiếc xe lại không phải là thứ anh sẽ chọn. Viện đại úy không biết là họ sẽ rời thị trấn. Thời gian quá gấp, họ không còn thời gian để đổi phương tiện đi lại nữa.

 

Tuy nhiên thì ít ra chiếc xe cũng chở được tất cả bọn họ. Danny, Coral và hai người nhân viên lực lượng bóng ma sa mạc ngồi băng ghế dưới, Kara, Clay và viên đại úy ngồi ở hàng ghế phụ thứ ba. Painter cố thuyết phục họ không đi theo anh nhưng anh không có đủ thời gian. Tất cả đều muốn đi và điều không may là họ đã biết quá nhiều. Salalah không còn an toàn đối với họ nữa. Cassandra có thể cử những sát thủ tới bất cứ lúc nào để bịt miệng họ. Không thể biết được tai mắt của ả ở những nơi nào nhưng Painter chả biết tin vào ai cả. Vậy là họ túm với nhau lại thành một nhóm.

Anh ngoặt một cua gấp, ánh đèn phía trước rọi vào một con vật lớn đứng ngay giữa đường. Con lạc đà nhìn vào chiếc xe khi anh phanh gấp, dừng lại.

Con lạc đà nhìn xuống chiếc xe, cặp mắt nó đỏ lừ rồi chậm rãi ngước lên nhìn cả đoạn đường phía trước. Painter phải nhổm cả người lên để lái xe đi vòng quanh con vật.

Sau khi đã vượt qua, anh tăng tốc độ rồi lại phanh gấp khi chỉ vừa đi được một đoạn ngắn. Khoảng một chục con lạc đà đứng đầy đường, không ra hàng lối gì cả.

- Hãy nhấn còi đi. - Omaha nói.

- Và để báo cho tụi Cassandra biết là sắp có người tới à? - Painter làu bàu nói. - Chắc phải có người nào đó xuống dọn dẹp đường thì mới đi tiếp được.

- Tôi biết lũ lạc đà này. - Barak nói rồi nhảy ra ngoài.

Ngay khi anh ta vừa chạm chân xuống đất, một tốp người đã lao ra từ phía bụi cây và những cái hang gần đó. Họ chĩa súng trường vào chiếc ô tô. Painter nhìn thấy bóng người di chuyển qua tấm gương chiếu hậu. Còn có hai người nữa đứng chặn ở phía sau. Họ mặc những chiếc áo choàng dài thượt bụi bậm, đầu quấn khăn.

 

- Bọn thổ phỉ. - Omaha thốt lên, tay đã nắm chặt khẩu
súng lục.

Barak đứng cạnh cửa xe đã mở. Anh ta để cánh tay trần giơ lên, không có vũ khí gì.

- Không phải là thổ phỉ đâu. Họ là những người thuộc bộ lạc Bait Kathir. - Anh ta thì thào.

Những người dân du mục Bê-đoanh có thể phát hiện ra sự khác biệt giữa các bộ lạc từ khoảng cách xa vài trăm mét, từ cách họ quấn khăn trên đầu, đến màu sắc của áo choàng, đến bộ yên cương của lũ lạc đà và cách họ đeo súng trường. Trong khi Painter không có khả năng đó, anh đã tìm hiểu về những bộ tộc địa phương ở vùng nam bán đảo A-rập: người Mahra, Rashid, Awamirr... Anh cũng biết về bộ tộc Bait Kathir, những người sống trên vùng núi non và sa mạc, một nhóm người sống biệt lập, thường có thói quen đi đầu. Họ cũng trở nên rất nguy hiểm nếu bị kích động và bảo vệ lũ lạc đà của họ thậm chí còn hơn cả vợ con mình.

Một trong những người dân bộ lạc tiến lên phía trước, anh ta có nước da sạm nắng, gầy trơ xương.

- Salam alaikum. - Anh ta lẩm bẩm.

Đó quả là những từ lạ lùng thốt ra từ một người, tay vẫn cầm lăm lăm khẩu súng trường chỉ về phía chiếc xe.

- Alaikum as salam. - Barak đáp lại, bàn tay vẫn trần trụi. Anh tiếp tục bằng tiếng A-rập. - Có tin gì mới không?

Ngay lập tức anh ta hạ nòng súng xuống. Có tin gì mới không là một câu hỏi rất thông thường của tất cả những người dân bộ lạc khi gặp nhau. Nó có thể không cần câu trả lời. Rồi một loạt câu hỏi và trả lời giữa Barak và anh ta về thời tiết, về cơn bão cát sắp ập vào vùng sa mạc, về những người dân Bê-đoanh hoảng hốt tránh bão, những vất vả dọc đường và những con lạc đà bị mất.

 

Barak giới thiệu đại úy al-Haffi. Tất cả những ngư i dân sa mạc đều biết về lực lượng bóng ma sa mạc. Tiếng thì thầm giữa những người dân bộ lạc rồi những khẩu súng được hạ nòng xuống.

Painter cũng ra khỏi xe, đứng sát bên cạnh. Anh chờ đợi cho việc giới thiệu hoàn tất và chia sẻ tin tức. Không khí lúc này trở nên sôi động hơn bằng sự cảm thông và những giọng nói trở nên ồn ào. Painter khẽ thì thào với đại úy al-Haffi.

- Hãy hỏi họ xem có biết những chiếc xe Mitsubishi không?

Viên đại úy gật đầu, rồi cất tiếng hỏi với vẻ trịnh trọng. Những cái gật đầu trả lời anh ta. Người cầm đầu bộ lạc cho biết có ba chiếc xe Mitsubishi đã chạy qua đây khoảng 40 phút.

- Thế họ đã quay lại chưa? - Painter thúc giục, lúc này anh nói bằng tiếng A-rập, chậm chạp tham gia vào cuộc nói chuyện. Có lẽ do nước da màu sẫm của anh, rất giống người thổ cư ở đây nên đã giảm bớt cảm giác e ngại với người nước ngoài.

- Không. - Viên thủ lĩnh trả lời, vẫy tay chỉ về phía vùng vúi nhô cao. - Họ dừng lại ở ngôi mộ Nabi Ayoub.

Anh nhìn về phía con đường tối om trước mặt. Vậy là bọn chúng vẫn ở đó. Omaha đứng ở bên cửa xe. Anh ta đã nghe được câu chuyện trao đổi.

- Thôi đủ rồi, chúng ta đi thôi, anh ta lại giục giã.

Những người dân bộ lạc Bait Kathir bắt đầu lùa lũ lạc đà dọn đường cho chiếc xe đi qua khiến bọn chúng tỏ vẻ giận dữ.

- Khoan đã. - Painter nói, quay về phía viên đại úy. - Anh còn đồng tiền nào sau khi bán con ngựa không?

Anh ta nhún vai.

- Chả có gì cả ngoài vài đồng lẻ.

- Liệu có thể mua hoặc thuê vài con lạc đà được không?

Cặp mắt viên đại úy bỗng nheo lại.

- Anh cần lạc đà ư. Để làm gì cơ? Ngụy trang chắc?

 

- Để tiến gần đến chỗ ngôi mộ hơn. Chỉ một vài người trong bọn ta thôi.

Viên đại úy gật đầu rồi quay sang chỗ viên thủ lĩnh. Họ nói chuyện rất nhanh, hai nhà lãnh đạo trao đổi.

Omaha tiến về phía Painter.

- Đi xe nhanh hơn chứ.

- Trên đoạn đường này chả nhanh hơn đâu. Hơn nữa khi dùng lạc đà, chúng ta có thể tiến sát tới ngôi mộ mà không đánh động bọn Cassandra. Tôi đoan chắc rằng khi lên đây ả cũng đã để ý đến những người dân bộ lạc rồi. Sự có mặt của họ sẽ không gây chú ý, giống như một phần trong khung cảnh thiên nhiên hoang dã.

- Thế lên trên đó chúng ta sẽ làm gì?

Painter đã có sẵn kế hoạch trong đầu. Anh trao đổi với Omaha phần chính của kế hoạch. Khi anh nói xong cũng là lúc viên đại úy đã có được sự đồng ý của người thủ lĩnh bộ tộc.

- Ông ta sẽ cho chúng ta muợn lạc đà. - Viên đại úy nói.

- Bao nhiêu?

- Tất cả. - Viên đại úy trả lời trong sự ngạc nhiên của Painter. Hình như những người Bê-đoanh không mấy khi từ chối đề nghị của một người khách. - Nhưng có một điều kiện.

- Điều gì vậy?

- Tôi đã nói với ông ta ý định của chúng ta là giải cứu một người phụ nữ trong nhóm đang có mặt ở ngôi mộ. Họ gần như đồng ý giúp chúng ta. Đó sẽ là một niềm vinh dự đối với họ.

- Có thể là họ có điều kiện để bắn súng. - Barak nói
chen vào.

Painter quả là miễn cưỡng không muốn kéo thêm những người bộ lạc vào vòng nguy hiểm. Trong khi đó thì Omaha lại không chia sẻ sự miễn cưỡng của anh.

 

- Họ có vũ khí. Nếu như kế hoạch của anh thành công thì có thêm hỏa lực càng tốt.

Painter đành phải đồng ý.

Sau khi được anh đồng ý, viên thủ lĩnh cười toét miệng rồi tập họp người của ông ta lại. Người ta hạ thấp yên cương rồi biến thành vị trí có thể ngồi xổm để trèo lên dễ dàng hơn và đạn dược được phân phát như những món quà của một bữa tiệc.

Painter kéo nhóm của anh lại gần, đến trước chỗ ánh đèn pha ô tô rồi nói.

- Kara, tôi muốn cô ở lại phía sau chiếc xe này.

Cô định mở miệng phản đối nhưng có vẻ rất yếu ớt. Mặt cô lấm tấm mồ hôi, mặc dù gió lạnh trong đêm.

Painter cắt ngang lời cô.

- Chúng ta cần ai đó giấu chiếc xe khỏi chỗ đường cái, rồi lái lên theo hiệu lệnh của tôi. Clay và Danny sẽ ở cùng cô với một khẩu súng trường và súng lục. Và nếu như chúng tôi thất bại và Cassandra sẽ chạy trốn cùng với Safia thì bọn cô sẽ là những người duy nhất có thể đuổi theo chúng.

Kara chau mày, những đường nét khắc khổ hiện rõ trên khuôn mặt cô ta nhưng cô gật đầu.

- Tốt nhất là các anh không nên thất bại. - Cô ta nói một cách dứt khoát.

Trong khi đó thì Danny lại đang tranh luận với anh trai vì cậu muốn đi cùng. Omaha rất cương quyết.

- Em không có kính. Em rất dễ bắn nhầm vào anh cũng nên. - Tuy nhiên, anh đặt một tay lên vai cậu em. - Nhưng anh rất tin em sẽ làm tốt ở đây. Em là phòng tuyến cuối cùng. Anh không thể để mất cô ấy lần nữa.

Danny gật đầu rồi lui ra.

Clay thì lại chả có ý kiến phản đối gì việc bị để lại phía sau. Cậu ta đứng cách đó chừng một bước, điếu thuốc lá vẫn lập lòe trên ngón tay. Mắt cậu ta nhìn vào khoảng không hư vô. Cậu ta gần đến điểm cuối cùng có thể xử lý mọi chuyện như vậy.

Sau khi các vấn đề được quyết định, Painter quay lại chỗ những chú lạc đà đang chờ.

- Thôi hãy trèo lên nào!

- Này, anh đã cưỡi lạc đà bao giờ chưa đấy? - Omaha đứng phía sau anh khẽ hỏi.

- Chưa. - Painter liếc nhìn anh ta.

Lần đầu tiên trong ngày qua, Omaha nở một nụ cười toác miệng khi anh ta bước đi.

- Sẽ thú vị đấy.

 

 

7 giờ 5 phút tối

 

Dưới ánh sáng chói lòa của đèn pha ô tô, Cassandra nhìn một tên lính của Kane đang gí sát chiếc máy dò kim loại vào bức tường sau của ngôi mộ. Ngay chính giữa của bức tường, máy dò bỗng khựng lại. Ả quay sang phía Safia.

- Hình như cô biết rằng có thể sẽ tìm ra thứ gì đó, phải không?

Safia nhún vai.

- Quả tim bằng sắt được tìm thấy ở ngôi mộ Imran, nằm trong một pho tượng sa thạch. Nó chỉ tới đây. Tận trên núi. Điều đó chỉ có nghĩa rằng dấu vết tiếp theo sẽ là tương tự. Một mảnh sắt khác, giống như quả tim. Bí mật duy nhất là nơi nào nó được cất giấu.

Cassandra nhìn vào chỗ bưc tường. Mặc dù rất bực với người tù này, nhưng rõ ràng là người nữ chuyên gia bảo tàng này xứng đáng với giá trị của mình.

- Thế bây giờ sẽ làm gì?

 

Safia lắc đầu.

- Chắc lại phải đào ra thôi. Từ trong chỗ đá này. Giống như quả tim sắt ở trong pho tượng. - Nàng nhìn vào mặt Cassandra. - Chúng ta cần phải cẩn trọng. Chỉ cần một chút sơ suất thôi là cổ vật được chôn giấu sẽ bị phá hủy. Có khi phải mất hàng ngày mới khui được nó lên.

- Chắc không đến nỗi như vậy.

Cassandra quay người bước đi, để cho Kane canh giữ Safia. Bước qua phòng cầu nguyện, ả đi tới chỗ chiếc xe dọc theo con đường rải sỏi đến những mảnh vườn tối om. Khi ả đi ngang vào khu mộ chính, một bóng đen bỗng làm ả chú ý.

Rất nhanh, ả khuỵu gối xuống, rút vội khẩu súng từ trên bao đeo trên vai. Cassandra bọc ngay khu vực lối vào, chờ đợi chừng vài giây. Tiếng gió thì thào ở phía bụi cây trước mặt. Ả dỏng
tai nghe.

Không có gì cả. Không thấy có sự dịch chuyển nào từ
ngôi mộ.

Ả từ từ đứng dậy, tay vẫn chĩa khẩu súng về phía trước, bước tới chỗ lối vào, bước sang bên mép đường bằng đất để tránh gây ra tiếng lạo sạo trên sỏi. Ả đã tới cửa, ở một bên của gian phòng, rồi tiến vào. Những cửa sổ phía sau để lọt ánh sáng hắt ra từ khu vực gần đó. Chỗ này chẳng có đồ đạc gì. Ngôi mộ trống không.

Ả đứng thẳng người lên rồi nhét súng vào bao. Chỉ có những hình bóng và ánh sáng từ khu vực làm việc bên cạnh hắt sang. Có thể ai đó vừa bước vào khu vực này, che lấp ánh sáng từ chỗ đó.

Nhìn lại lần cuối, ả quay trở lại con đường. Với những bước đi quả quyết, ả đi tới một trong những chiếc xe, tự trách mình đã quá cảnh giác với những bóng đen.

Rồi ở đây, ả lại có đủ lý do để nhảy dựng lên.

 

Cassandra gạt ý nghĩ đó sang một bên khi bước tới chiếc xe. Chúng không chỉ chở người của Kane mà còn có những thiết bị khảo cổ. Biết chúng tiến hành một phi vụ tìm kiếm cổ vật nên Hiệp hội đã trang bị đầy đủ những thứ họ cần, từ xẻng, cuốc, búa, bàn chải, máy khoan... đó là chưa kể những thiết bị hiện đại, điện tử, kể cả hệ thống ra-đa dò tìm và thiết bị tiếp sóng vệ tinh. Chính những thứ đó cho phép có thể thăm dò tới 60 bộ dưới mặt đất để cung cấp một bản đồ thổ nhưỡng chi tiết của những thứ gì nằm dưới đất.

Cassandra bước tới một trong những chiếc xe đang tháo dỡ thiết bị dò kim loại. Ả biết thứ công cụ mình đang tìm.

Ả dùng xà beng để mở cái thùng đựng đồ, bên trong phủ đầy rơm và xốp bảo vệ thiết bị, một mô phỏng của Hiệp hội theo kiểu một dự án nghiên cứu của Sigma. Nó trông giống như một khẩu súng ngắn nhưng lại loe ra ở cuối nòng súng. Cái đó cũng phình to ra, đủ chứa số lượng pin để vận hành thiết bị.

Cassandra lắp xong chỗ pin rồi cầm lấy thiết bị, hóa ra nó khá nặng nên phải đeo lên vai rồi bước về phía phòng cầu nguyện.

Bọn lính của Kane rải quanh chu vi khu vực, đang canh gác cẩn mật. Không có chuyện đùa cợt hoặc tán gẫu. Kane đã huấn luyện bọn chúng rất thành thục.

Khi nhìn thấy vật trên tay ả, cặp mắt của Kane bỗng sáng lên. Safia quay lại từ chỗ nàng ngồi xổm bên cạnh bức tường. Nàng đã vạch ra một hình tam giác. Bề đáy là 1 fít còn chiều cao là 4 fít.

- Chúng ta cần thăm dò dọc theo cả khu vực này. - Nàng nói, đứng dậy chau mày khi nhìn thấy vật trong tay Cassandra.

- Một thiết bị đào bằng tia lazer, - Ả giải thích - dùng để đào qua đất đá.

- Nhưng?

- Quay lại. - Ả nhấc thiết bị khỏi vai rồi gí nó sát vào tường.

 

Safia bước sang một bên.

Cassandra bấm nút khởi động. Một chùm tia sáng màu đỏ sậm tỏa ra phía trước giống như từ một chiếc vòi phun nước. Mỗi tia là một khẩu súng bắn tia lazer nhỏ. Ả hướng nó vào khu vực vạch phấn, những tia li ti tạo thành một vòng tròn hoàn hảo.

Ả kéo chốt khởi động, thiết bị bắt đầu rung lên trên vai ả khi những tia lazer tỏa ra, xoay xoay ngày một nhanh. Một tiếng động phát ra làm điếc đặc cả tai. Ả vẫn tập trung, mắt nhìn thẳng vào phía trước. Ở chỗ đó, khi những tia sáng ăn vào bên trong tường, đất đá bắt đầu rã ra thành một đám mưa bụi. Hàng chục năm nay, các bác sỹ nha khoa đã dùng siêu âm để cạo cao răng. Nguyên tắc đó cũng được sử dụng ở đây, chỉ có điều là năng lượng được khuếch đại gấp nhiều lần. Sa thạch bắt đầu vỡ vụn dưới mũi khoan.

Cassandra cẩn thận quét tia sáng qua lại trên bức tường, loại từng lớp sa thạch. Tia cực ngắn chỉ có tác động đối với sa thạch, còn đối với những loại rắn hơn như đá granit thì không ăn thua gì, thậm chí còn vô hại cả với thịt sống. Điều tệ hại nhất là để lại vết bỏng nặng.

Ả tiếp tục làm việc ở khu vực trên bức tường, đưa mũi súng đi lại. Bụi đất phủ đầy ở phòng cầu nguyện nhưng gió thổi vào lại làm nó quang quẻ, sạch ngay lập tức. Sau ba phút, ả đã tạo ra được một lỗ sâu tới bốn inch vào bên trong bức tường.

- Dừng lại. - Safia hét lên, giơ tay vẫy vẫy.

Cassandra nhả nút khởi động rồi nghếch nòng súng lên cao.

Safia phủi chỗ cát bám trên mặt rồi tiến về phía bức tường. Gió ùa vào làm tan biến đi chỗ khói bụi qua mái vòm khi nàng ngả người về phía trước.

Cassandra và Kane cùng tiến đến. Kane chiếu đèn pin vào lỗ hổng vừa được tia lazer tạo ra. Một mẩu kim loại rỉ nhèm lấp lánh từ phía dưới.

 

- Sắt. - Safia nói với vẻ lo ngại pha lẫn sự tự hào và vẻ không thể tin được, giống như quả tim.

Cassandra lui lại rồi hạ thấp vũ khí của ả xuống.

- Nào hãy xem phần thưởng gì trong cái hộp quái quỷ này. - Nói rồi ả lại ấn tiếp cần khởi động tập trung quanh chỗ cổ vật.

Những tia lazer làm sa thạch biến thành cát bụi, loại bỏ bớt những lớp bên ngoài. Phần cổ vật hiện lên rõ dần, lấp lánh dưới ánh sáng đỏ sậm. Từ trên sa thạch, những chi tiết hiện ra: một cái mũi, đôi lông mày, con mắt, một góc môi.

- Đó là một khuôn mặt. - Safia nói.

Cassandra tiếp tục thận trọng, loại bỏ chỗ sa thạch như thể bùn để lộ khuôn mặt ở phía dưới. Nó dường như nhô ra từ dưới đá về phía họ.

- Ôi lạy Chúa! - Kane thì thào, lấy đèn pin rọi vào. Sự giống nhau quá đỗi như thể tình cờ.

Kane liếc nhìn Safia.

- Đó chính là cô...

 

 

7 giờ 43 phút tối

 

Painter ngồi trên lưng lạc đà, nhìn qua chỗ thung lũng tối đen chia cắt họ với ngôi mộ của Jabal Eitteen. Từ trên phía mỏm đồi cao, ngôi mộ lấp lánh dưới nền bầu trời không có trăng. Ánh sáng hắt ra từ kính nhìn đêm anh đang đeo, biến ngôi mộ thành một ngọn đèn hải đăng.

Anh nghiên cứu địa hình. Đó quả là một điểm có thể bảo vệ một cách lý tưởng. Chỉ có một lối lên: con đường đất chạy vòng mặt phía nam của ngọn đồi. Anh điều chỉnh tiêu cự kính. Anh đã nhìn thấy 14 tên lính nhưng không thấy bóng dáng Safia. Cô ta chắc đang ở trong khu mộ.

 

Ít nhất là anh nghĩ như vậy.

Chắc là cô ấy còn sống. Chuyện ngược lại là không thể tưởng tượng nổi.

Anh tháo ống kính ra rồi dịch lại vào một vị trí thoải mái hơn trên lưng con lạc đà. Nhưng không thể.

Đại úy al-Haffi ngồi bên phải một con lạc đà còn Omaha ngồi bên trái. Họ tỏ ra thật thoải mái, như thể đang ngồi trên ghế xa lông. Cái yên cương, gồm vài lượt gỗ đan với lá cọ tạo ra một thứ tương tự như đệm, đặt trên lưng con vật đúng vào chỗ hõm. Thế mà đối với Painter nó lại giống như một thứ dụng cụ tra tấn do một gã A-rập khốn kiếp chế ra. Chỉ chưa đầy nửa tiếng đồng hồ mà anh có cảm giác người như bị chẻ làm hai.

Vừa nhăn nhó, Painter chỉ về phía dốc.

- Chúng ta sẽ tiến thẳng thành một nhóm xuống dưới đáy thung lũng. Tôi cần 10 phút để tập họp lại. Sau đó, mọi người sẽ từ từ trèo lên ngôi mộ, gây ra tiếng ồn ào. Một khi các vị đến được chỗ ngoặt cuối cùng thì dừng lại ngồi ở đó giống như chuẩn bị qua đêm ở đó. Đốt một đống lửa. Lửa sẽ làm các tấm kính nhìn đêm bị sai lạc, để cho những con lạc đà ăn cỏ. Hoạt động đó sẽ giúp mọi người vào vị trí bắn tỉa thuận lợi. Rồi chờ tín hiệu của tôi.

Đại úy al-Haffi gật đầu rồi truyền đi mệnh lệnh trong khi anh ta chầm chậm đi xuống.

Coral chiếm lĩnh vị trí của đại úy bên cạnh Painter. Cô hơi khom người xuống ghế ngồi, mặt nhăn nhó. Hình như đồng nghiệp của anh cũng chả vui sướng gì hơn anh khi sử dụng cái phương tiện này.

Cô khoanh tay trên ghế tựa.

- Có lẽ tôi phải là người cầm đầu cuộc hành quân này. Tôi có nhiều kinh nghiệm về xâm nhập hơn anh. - Cô hạ giọng. - Và tôi cũng không bị bức xúc gì về chuyện cá nhân cả.

 

Painter nắm chặt yên cương khi con lạc đà di chuyển dưới mình anh.

- Tình cảm của tôi với Safia không liên quan gì tới khả năng của tôi cả.

- Ý tôi muốn nói là Cassandra, đồng nghiệp cũ của anh, cô nhíu lông mày, - có phải anh muốn chứng tỏ điều gì không? Liệu có điều gì đó liên quan đến cuộc hành quân này không?

Painter liếc nhìn về phía khu mộ đang ánh lên trên ngọn đồi bên cạnh. Khi tìm kiếm khu vực này, anh để ý thấy địa hình và nhân lực, một phần trong anh cũng tìm kiếm vài dấu hiệu của Cassandra. Cô ta đã điều khiển mọi thứ từ vụ Bảo tàng Anh. Nhưng anh vẫn chưa thấy khuôn mặt cô ta. Anh sẽ phản ứng thế nào đây? Cô ả đã phản bội, bắt cóc và giết người. Tất cả dưới danh nghĩa gì đây? Điều gì đã làm cô ta quay lại chống Sigma... chống lại chính anh? Hay chỉ vì tiền hoặc một cái gì khác nữa?

Anh không tìm được câu trả lời.

Anh nhìn chăm chú vào ánh đèn. Liệu đó có phải một phần lý do anh nằng nặc phải tham gia cho được vào phi vụ này? Để chính anh gặp cô ta. Để nhìn vào mắt cô ta.

Coral đã phá vỡ sự im lặng.

- Đừng nên tỏ ra thương hại gì cô ả cả. Không có sự tha thứ, không nên lưỡng lự. Phải lạnh lùng, nếu không anh sẽ mất tất cả.

Anh vẫn giữ im lặng khi những con lạc đà tiếp tục bước đi chậm chạp của chúng, con đường vất vả xuống dưới tận đáy của thung lũng. Cây cối mọc dày đặc hơn khi họ xuống con đường đất. Những cây bao báp cao lớn tỏa ra tán lá xum xuê trong khi loại cây me keo với thứ hoa màu vàng xòe ra như những lính gác. Khắp mọi nơi, cây leo chằng chịt tỏa ra một mùi hương nhè nhẹ.

Đám người dừng lại ở đoạn đường này của khu rừng rậm.

Những con lạc đà bắt đầu quỳ xuống để những người ngồi trên trèo xuống. Một trong những người bộ tộc Bait Kathir tiến tới chỗ con lạc đà chở Painter, giúp anh trèo xuống.

 

Người đàn ông ra sức dỗ dành con vật khi anh ta đứng trước nó. Farha là tên con lạc đà, có nghĩa là vui vẻ. Đối với Painter không có gì xa hơn là sự thật. Niềm vui duy nhất chỉ có là nhảy tót ra khỏi lưng con vật.

Con vật khuỵu xuống rồi hạ thấp người xuống phía trước dưới mặt đất, Painter trườn ra khỏi yên cương. Đôi chân anh tê cứng nhức nhối. Anh loạng choạng mất vài bước khi người đàn ông dỗ dành con vật, hôn vào mũi nó rồi nựng nó như một đứa trẻ. Người ta nói dân bộ lạc này yêu quý loài lạc đà hơn là vợ mình. Có lẽ điều này đúng với anh chàng kia.

Lắc đầu, Painter tiến đến nhập với nhóm người kia. Đại úy al-Haffi đã ngồi chồm hỗm bên cạnh viên thủ lĩnh bộ tộc đang vẽ vẽ gì đó trên nền đường, tay cầm ngọn đèn pin nhỏ, như đang tìm cách chia nhóm người của ông ta ra. Cả hai người đều nhìn Omaha và Coral khi họ chuẩn bị khẩu súng trường Kalashnikov. Mỗi người còn có thêm một khẩu súng lục của Israel làm vũ khí dự phòng.

Painter cũng tranh thủ kiểm tra lại vũ khí của mình, những khẩu súng lục kiểu Heckler&Koch. Trong bóng tối, anh tháo kiểm tra băng đạn 9 ly, 7 viên một băng. Anh có thêm hai băng đạn dự trữ cũng đã được nạp sẵn sàng ở thắt lưng. Thỏa mãn, anh đeo súng vào vai còn khẩu kia ở thắt lưng.

Omaha và Coral bước tới chỗ anh khi anh buộc cái túi nhỏ vào thắt lưng. Anh không kiểm tra ruột của nó sau khi đã mua đủ các thứ ở Salalah.

- Khi nào đồng hồ 10 phút bắt đầu chạy? - Omaha hỏi, chìa đồng hồ của anh ta khi anh ta dừng lại, ấn nút chỉnh chiếu sáng mặt đồng hồ.

Painter chỉnh lại đồng hồ của anh với chiếc đồng hồ
của Coral.

 

Coral bắt gặp cái nhìn của anh, vẻ lo lắng hiện lên cặp mắt xanh lơ của cô.

- Bình tĩnh, Chỉ huy.

- Lạnh như băng. - Anh thì thào.

Omaha chặn anh lại khi anh bước ra đường chính dẫn lên đỉnh đồi.

- Đừng có quay lại mà không có cô ấy đấy nhé. - Điều đó nghe như lời dọa dẫm nhiều hơn là lời thỉnh cầu.

Anh gật đầu, hiểu cả hai ý rồi bước ra.

10 phút.

 

 

8 giờ 5 phút tối

 

Làm việc dưới ánh đèn pha ô tô, Safia dùng cái xẻng con và bàn chải để bậy món cổ vật ra khỏi bức tường sa thạch. Gió đã mạnh lên, thổi tung bụi và cát, quanh quẩn trong bốn bức tường của gian phòng thờ không có mái. Safia cảm giác như nàng bị đóng bánh, một bức tượng sống bằng sa thạch.

Khi màn đêm buông xuống, nhiệt độ hạ xuống mau chóng. Tia chớp lập lòe ở phía nam, càng tiến đến gần hơn, cùng với tiếng ùng oàng báo hiệu cơn mưa sẽ tới.

Tayđeo găng, Safia vẫn cạo cạo trên bề mặt của cổ vật, rất lo nó bị xước mặt. Bức tượng bán thân khổ lớn như người thật lấp lánh duới ánh đèn, đôi mắt mở to, nhìn chăm chú vào nàng. Safia cảm thấy sợ cái nhìn đó nên quay sang tập trung vào công việc.

Cassandra và Kane thì thào ở phía sau nàng. Cassandra muốn dùng khẩu súng lazer để cậy món cổ vật cho nhanh nhưng Safia lại muốn cẩn trọng vì sợ làm hỏng. Nàng ngại những tia lazer có thể làm mờ các chi tiết.

 

Safia gạt sang bên mảnh đá cuối cùng, dù cố gắng không nhìn vào mặt pho tượng nhưng vẫn thấy mình thỉnh thoảng liếc vào nó. Khuôn mặt pho tượng giống hệt như mặt nàng. Có thể nó là phiên bản của nàng lúc còn trẻ. Có lẽ vào lúc 18 tuổi. Nhưng điều đó quả là không thể. Chắc phải hoàn toàn là sự tình cờ. Nó chỉ mô tả một người phụ nữ A-rập xê-út và là thổ dân tại đây. Tất nhiên Safia có một số nét giống ngay cả dòng máu pha trộn của nàng.

Tuy nhiên, nó vẫn làm nàng lo sợ. Giống như đang nhìn vào mặt nạ của mình lúc khâm liệm.

Đặc biệt là khi bức tượng được gắn trên một ngọn giáo,
dài 4 fít.

Safia lùi lại. Cổ vật nằm chính giữa hình tam giác được đánh dấu bằng phần trên bức tường của gian phòng thờ. Ngọn giáo bằng sắt dựng đứng lên còn pho tượng bán thân được gắn ở phía trên. Tất cả nằm trong một. Mặc dù cảnh tượng này làm cho nàng cảm thấy ớn nhưng Safia không hoàn toàn ngạc nhiên. Nó có ý nghĩa về mặt lịch sử.

- Nếu mất thêm nhiều thời gian nữa, tôi sẽ rút khẩu súng lazer ra, - Cassandra làm ngắt quãng dòng suy nghĩ của nàng.

Safia nhô người ra rồi chạm thử vào tảng đá giữ vật bằng sắt. Nó đung đưa theo tay nàng.

- Chờ một phút. - Nàng nói rồi bắt tay vào việc.

Kane dịch chuyển, bóng của gã nhảy múa trên bức tường.

- Liệu chúng ta có cần di chuyển nó không? Có thể nó đã đối mặt đúng hướng rồi cũng nên.

- Nó đang hướng về phía đông bắc. - Safia trả lời gã. - Quay trở về bờ biển. Điều đó là không đúng. Lại là một câu đố nữa phải giải đáp.

Theo sau lời nàng, pho tượng nặng nề rơi ra ngoài tảng đá, đổ xuống, mặt đập xuống phía trước. Safia tóm được cái vai.

 

- Đã đến lúc rồi. - Cassandra lẩm bẩm.

Safia đứng dậy, nâng niu pho tượng. Nàng nắm lấy ngọn giáo bằng cả hai bàn tay đeo găng của mình. Nó khá nặng. Với cái đầu bằng sắt nằm áp ngay tai nàng, Safia cảm thấy như có tiếng động nho nhỏ phát ra từ bên trong. Giống như trái tim. Có một vật gì nặng ở bên trong của pho tượng.

Kane đỡ lấy pho tượng từ tay nàng, nhấc lên như thể một
bị bông.

- Vậy chúng ta sẽ làm gì với cái này đây?

- Quay về ngôi mộ cũng giống như ở Salalah. - Cassandra nói.

- Không, - Safia bác ngay. - lần này không phải vậy.

Nàng lách qua chỗ Cassandra rồi dẫn đường. Nàng đang ngẫm nghĩ cách nào để làm chậm cuộc tìm kiếm lại. Nhưng nàng đã nghe thấy tiếng chuông leng keng từ chỗ những con lạc đà, vọng lên từ phía thung lũng. Có một nhóm người Bê-đoanh cắm trại gần đây. Nếu như có ai trong số họ lảng vảng lên đây...

Safia vội lao về phía trước rồi buớc tới chỗ cái hố gần lối vào của ngôi mộ. Nàng quỳ xuống rồi kéo nó mở ra. Cassandra chiếu đèn vào cái hố, rọi vào một đôi bàn chân. Safia nhớ đến câu chuyện làm cho nàng bước theo các bước chân đó: câu chuyện của người đàn ông cưỡi ngựa bằng đồng tay, cầm mũi giáo, trên đó có gắn một cái đầu người.

Safia ngó qua vai Cassandra tới chỗ Kane và cổ vật. Sau biết bao nhiêu thế kỷ, nàng đã tìm ra ngọn giáo đó.

- Bây giờ làm gì đây? - Cassandra hỏi.

Chỉ còn mỗi một đặc điểm nữa trong hố, chưa đem lại dấu vết: cái lỗ ở chính giữa hố.

Theo Kinh thánh và Kinh Coran, qua cái lỗ này có một con suối thần phụt nước và mang đến những phép lạ. Safia thầm cầu nguyện cho phép màu đến với chính mình.

 

Nàng chỉ vào cái lỗ.

- Hãy đặt nó vào đây.

Kane nhoài người ra, đặt phần sau của ngọn giáo khít vào cái lỗ.

- Khít chặt lại.

Gã lui lại. Ngọn giáo vẫn đứng, vững chắc. Pho tượng ở trên đó nhìn về phía thung lũng.

Safia đi vòng quanh ngọn giáo vừa được cắm. Khi nàng kiểm tra cái đó, mưa đã rơi lộp bộp xuống từ bầu trời đen sẫm, đập mạnh vào chỗ bụi cát và đá.

Kane lầu bầu.

- Thật tuyệt vời. - Gã lôi ra một chiếc mũ rồi đội sụp vào cái đầu trọc của mình.

Trong giây lát, mưa bắt đầu rơi nặng hạt hơn.

Safia đi vòng qua ngọn giáo một lần nữa, chau mày.

Cassandra chia sẻ nỗi băn khoăn của nàng.

- Chả có gì xảy ra cả.

- Chúng ta chắc là thiếu một thứ gì đó. Đưa cho tôi ngọn đuốc. - Nàng tháo chiếc găng tay bẩn ra rồi xòe tay để cầm đèn pin. Cassandra đưa cho nàng với vẻ lưỡng lự rõ ràng.

Safia chiếu dọc chiều dài của ngọn giáo. Chiều dài của nó được khắc với khoảng cách đều đặn. Liệu cái đó là trang trí hay còn là điều gì khác nữa? Không có ý gì. Safia đứng thẳng dậy rồi bước đến phía sau pho tượng. Kane đã đặt ngọn giáo, mặt hướng về phía Nam, ra phía biển. Rõ ràng là sai hướng.

Mắt nàng dịch về phía pho tượng. Nhìn chăm chú vào phía sau của đầu tượng, nàng phát hiện những ký tự nhỏ ở phía gáy, bị che khuất bởi đường tóc. Nàng gí ngọn đèn vào gần hơn. Những ký tự chắc phải bị xóa mờ bởi cát bụi nhưng nước mưa lại rửa sạch chúng. Bốn ký tự hiện ra.

 

 

Cassandra để ý thấy nàng đang chăm chú vào dòng ký tự liền hỏi.

- Cái đó có nghĩa gì?

Safia dịch lại, chau mày.

- Tên một người phụ nữ. Biliqis.

- Có phải là người phụ nữ được tạc tượng đây không?

Safia không trả lời, quá ngạc nhiên. Liệu có thể như vậy ư? Nàng bước quanh rồi ngắm nhìn khuôn mặt người phụ nữ.

- Nếu đúng vậy, đây quả là một phát hiện có ý nghĩa lịch sử. Biliqis là một người phụ nữ được tất cả các tôn giáo yêu kính. Một người đàn bà đã bị mất tích trong bí mật và huyền thoại. Người ta nói một nửa người, nửa phần hồn của sa mạc.

- Tôi chưa bao giờ nghe nhắc đến người đàn bà này.

Safia đằng hắng, vẫn quá ngạc nhiên trước sự phát hiện này.

- Biliqis được biết đến với tước hiệu của bà: Quận chúa củaSheba.

- Giống như câu chuyện của vua Solomon.

- Trong hằng hà sa số các câu chuyện.

Khi mưa rơi nặng hạt đập vào khuôn mặt đá, pho tượng trông như đang khóc.

Safia thò tay ra lau những giọt nước mắt trên mặt tượng.

Khi bàn tay của nàng chạm vào, pho tượng dịch chuyển như thể xoay trên đá trơn, lắc lư từ ngón tay của nàng. Nó xoay một vòng rồi chậm rãi từ từ dừng lại, nhìn thẳng vào hướng
đối diện.

Hướng về phía đông bắc.

Safia liếc nhìn về phía Cassandra.

- Bản đồ. - Cassandra ra lệnh cho Kane. - Hãy kiếm cái
bản đồ.

Nguồn: truyen8.mobi/t86763-bao-cat-chuong-13.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận