Em Còn Muốn Chừng Nào Anh Còn Nhớ Chương 50


Chương 50
Trở về từ khách sạn, Julide giấu chiếc túi vải và củ khoai tây cuốn trong tờ giấy báo dưới gậm giường.

Nó biết hai đứa em lục lọi khắp nơi, nhất là Jaspy, từ hôm xảy ra chuyện ở chợ, con bé cứ bám lấy nó với hy vọng sẽ được giao cho một nhiệm vụ khác, hay ít ra cũng được nghe giải thích câu chuyện bí mật ấy, nhưng Julide chỉ đặt một ngón tay lên môi với vẻ bí mật và nói: “Im lặng nhé và khâu miệng lại, cây thánh giá bằng gỗ, cây thánh giá bằng sắt, nếu em nói em sẽ xuống địa ngục”, và đứa bé trịnh trọng bắt chước điệu bộ của nó.

Đến ngày thứ ba, nó không cưỡng lại được ý muốn mở chiếc túi. Khi kéo chiếc khóa sáng trắng, hai bàn tay nó run rẩy, nó không còn sợ bị bất ngờ nếu lén lút đi vào trong phòng khách sạn của người đàn ông, vả lại, đây không phải mùi kem cạo râu hay mùi xà phòng mà nó ngửi thấy khi cầm quần áo của anh và đưa lên mặt, mà là mùi nó ngửi thấy ở đó, mùi bụi và mốc của những khách sạn cũ được vệ sinh kém.

Không có đồ gì to tát trong chiếc túi. Nó nhận ra chiếc áo sơmi trắng và bộ quần áo anh mặc buổi sáng hôm nó gặp, tất cả đều sáng trắng bột và đã sờn, vài đôi tất, mấy cái áo lót, và bên trong chiếc túi còn có mấy cuốn sổ tay mà đọc qua không hiểu được gì. Ở mỗi trang có những hình vẽ và dòng chữ viết vội vã; nó không biết liệu đó có phải là ngôn ngữ của đất nước anh hay là một loại ngôn ngữ mà anh tự nghĩ ra, hoặc một thứ gì khác, một dạng chữ viết được một số người sử dụng vì lý do thuận tiện và nhanh chóng. Con bé tự hỏi, phải chăng ở đâu đó có tồn tại các lớp học tương tự như trường dạy tốc ký của nó, nơi bọn trẻ viết các hình và chữ Ả Rập ấy. Thế rồi theo bản năng mà con bé cũng không biết do đâu, có thể trong mối quan hệ thân thiết với Mado, mách bảo với nó đây là gì - những vết nứt của bầu trời, các hình khối và khe hở, các thay đổi liên tục của bầu trời, đã được ghi lại cũng cẩn thận và tỉ mỉ giống như người con gái già ghi lại cuộc đời của chị trong những vết nứt hình khối và thay đổi liên tục của mặt đất. Nó đã sửng sốt vì tự


lừa dối mình khi giả vờ đọc trong các quân bài của Nala lời tiên đoán - đó là câu chuyện của chị, nhưng ngược lại.

Nó cũng tìm thấy thứ khác trong ngăn túi trong. Nó tìm thấy một quyển hộ chiếu cũ, sờn góc; khi mở hộ chiếu, nó cũng không đọc được các dòng chữ trong đó, cho dù đó không phải là loại chữ trong các cuốn sổ tay. Trên trang đầu có dán một tấm hình đen trắng người đàn ông không cười, tóc cắt rất ngắn, đôi mắt tối và bí hiểm, các nét trên khuôn mặt bị tẩy vì ánh sáng chiếu mạnh.

Dưới tấm ảnh có tên anh viết bằng chữ La Mã, và đọc được nó còn khó hơn cả nhìn rõ khuôn mặt anh, bởi vì nó biết rằng chỉ duy nhất nó nhận ra anh. Nó mấp máy môi đọc nhiều lần, cố phát âm nhiều lần,
và nó tự hỏi không biết một ngày nào đó nó có đọc đúng?

Nó cũng thấy ngày sinh của anh, - ngoài cái tên bằng chữ La Mã, chỉ có các chữ số là nó có thể đọc được - và nó nhận thấy anh chỉ hơn nó vài tuổi.

 

Một khi chiếc túi đã bị mở, thì hình như con bé không thể giữ nó lại nữa; vì một lý do khó tả, con bé có cảm giác cái túi thuộc về nó, kể cả khi nó vẫn không biết có gì ở bên trong. Nhưng có lúc nó định mang lại chiếc túi đến khách sạn, có lẽ không bao giờ nó có đủ can đảm để bước qua cái cánh cửa ấy và để nói sự thật - nó không phải là người vợ chưa cưới của anh - tất nhiên nó có thể để lại trên bậc thềm khi buổi tối đến và đứng rình ở một góc phố để chắc chắn rằng người ta sẽ không lấy trộm mất, đợi cho đến lúc nhân viên lễ tân hay một trong số mấy người đàn ông kia mang cất đi. Rồi nó thấy hợp lý hơn là mang chiếc túi đến nơi người đàn ông đang ở; vị trí của chiếc túi là ở gần người chủ sở hữu của nó, con bé sẽ để lại ở quầy đón tiếp, ít có khả năng người ta hỏi tên của nó, con bé nghĩ, nó sẽ nói có người đưa cho nó chiếc túi này và nhờ nó trả lại cho người chủ, nó sẽ đưa cho người y tá hay cứ để ở phòng chờ và một người quét dọn nào đó sẽ xếp chiếc túi vào chỗ những đồ vật tìm thấy trong bệnh viện. Không để cho mình có thời gian thay đổi ý kiến, con bé cho mấy cuốn sổ tay và quyển hộ chiếu vào ngăn túi trong, gập quần áo và xếp vào trong túi. Rồi nó mặc áo khoác và gọi con chó Bắc Kinh; nó biết rằng có con chó, nó sẽ cảm thấy can đảm hơn. Nó sẽ buộc con chó ở cổng bệnh viện, nó biết con chó sẽ gầm gừ và sủa chừng nào nó vẫn chưa trở ra, các cô y tá chắc chắn sẽ buộc phải để cho nó đi ra. Nó cứ tự dối mình như thế để thấy yên tâm hơn.

Nó không biết làm gì với củ khoai tây màu vàng cam. Nó sợ nếu để ở trong túi, củ khoai sẽ bị mốc, mấy bộ quần áo của anh sẽ bị hỏng theo và sẽ rách nát trong bàn tay anh khi anh thử mặc chúng để ra viện. Cuối cùng, nó đi vào bếp tìm một cái thìa to, ra ngoài căn hộ và đi vòng quanh tòa nhà, bước bằng đầu mũi chân trên mặt đất ướt nhoẹt và bế con chó để chân nó khỏi dính bẩn. Đầu tiên, nó nghĩ sẽ vùi củ khoai tây dưới cửa sổ phòng ngủ của nó để có thể tưới nước vào các buổi tối lúc đóng cửa; nhưng cuối cùng, con bé cũng không biết vì sao nó lại thay đổi ý kiến và quyết định trồng dưới một rãnh nước, cách đó hai mét, nơi mặt đất lúc nào cũng ẩm ướt ngay cả giữa mùa hè, trong khi các chỗ khác bị khô và bụi. Có những túm cỏ dại mọc lên ở đó và con bé nhổ bỏ một đám để mầm cây có không khí và ánh mặt trời. Nó nghĩ, nếu người đàn ông tỉnh lại, nếu một ngày anh có hỏi đến củ khoai tây, thì chỉ cần cẩn thận đào lên và để vào trong một chiếc bát; có thể lúc đó đã có cả thân và lá cây, nhưng lúc này chỉ có một mẩu đất nâu mộc mạc.

Trước khi vào trong bệnh viện, nó buộc con chó vào cột đèn mà lần trước nó đã dựa chiếc xe đạp của bố. Rồi nó đặt chiếc túi xuống đất, lấy ra quyển hộ chiếu từ ngăn trong và mở trang có ảnh và tên, việc này đối với nó dường như là đơn giản nhất trong số các hành động phải làm, đặt quyển hộ chiếu trên bàn đón tiếp, đưa cái túi và rút lui. Nó vuốt ve con chó và đứng lên; thật lạ là con chó nhìn nó rời xa không hề rên rỉ mà khập khiễng đi đến đầu bãi cỏ trong tầm dây buộc và cuộn tròn nằm ngủ.

Trong sảnh, trong khi chờ đến lượt, con bé không ngừng nhìn xung quanh, lo sợ Mado xuất hiện bất ngờ trên hành lang từ căn phòng của người bị thương, có thể để đi mua thỏi chocolat trong chiếc máy tự động để gần cửa ra vào, hay nó hy vọng như thế? Nhưng nó không nhìn thấy chị ở đâu và một nỗi lo lắng nặng nề xuất hiện trong lòng nó, nỗi lo lắng mà nó đã trải qua lần trước, khi đến gõ cửa mà Mado không trả lời. Nó tự nhủ không biết có nên đến hỏi người y tá đón tiếp xem có nhìn thấy chị không, một phụ nữ đã nhiều tuổi có mái tóc màu da cam buộc các dây nơ bằng vải, người y tá không thể không nhận ra chị được.

Rồi nó không nghĩ đến Mado nữa. Nó không còn nghĩ đến chị nữa bởi vì lượt của nó đã đến, cô thư ký gọi nó bằng ánh mắt và bỗng nhiên nó chỉ nghĩ có một điều mà nó đã không lường trước, khả năng cô thư ký nói với nó: Anh ấy đã chết, hoặc Anh ấy đã ra đi hay Anh ấy đã từ bỏ chúng ta, và nếu như đúng là như thế thì liệu có cần ký, liệu nó có dám hỏi anh đã thật sự ra đi, và ở đâu? Nó đưa quyển hộ chiếu đã mở, đặt lên mặt bàn đón tiếp, quay về phía cô thư ký, và không mấy chắc chắn về cử chỉ của mình. Cô thư ký liếc nhìn nó rồi thốt lên:

- A, giấy tờ của người đẹp đang ngủ. Giờ chúng tôi có thể chỉnh lại tờ đăng ký nhập viện.

 

Chị ta ngước mắt và cười nhưng Julide không thể cười đáp lại. Chắc nỗi sợ của nó đã hiện lên khuôn mặt bởi vì cô thư ký bỗng nhìn nó thật ân cần và hỏi:

- Chị hy vọng là mẹ anh ấy vẫn khỏe chứ? Đã hai ngày rồi bà ấy không đến.

Julide đang đặt bàn tay trên mặt bàn - nếu bỏ ra, nó sẽ nhìn thấy mồ hôi trong lòng bàn tay dính đầy trên mặt bàn formica - nó ghì bàn tay xuống thật chắc để ngừng run, và khẽ đáp:

- Em không biết. Em cũng không gặp bà ấy.

Nó tưởng tượng ra tình huống tồi tệ nhất. Nó tưởng tượng Mado đang đi lang thang trên các đường phố của thành phố từ suốt ba ngày qua, ngủ dưới các mái cổng hoặc trong vườn nhà chị, không thể nào cho được chiếc chìa khóa vào trong ổ, không thể nào biết được phải làm gì với mẩu sắt tìm thấy trong túi chị, hoặc nếu ở nhà, chị đang ngồi trên chiếc ghế trong bếp hay trên ghế bành trong phòng khách, thẳng lưng và chiếc túi đặt trên đầu gối, lễ phép chờ đợi một nữ khách không đến và tò mò nhìn các đồ trang trí xung quanh, thấy thời gian dài và bỗng giật mình, rồi - như một đồ chơi khi người ta vặn lại dây cót - lại có cảm giác chị mới ở đây vài phút và lại kiên nhẫn chờ đợi. Con bé lấy chiếc túi và đặt lên bàn; cô thư ký nhận lấy và đặt xuống đất, rồi cầm quyển hộ chiếu và đặt trong cuốn sổ vào viện sau khi đã kiểm tra ngày tháng.

Julide tự nhủ rằng nó sẽ chạy ngay đến ngôi nhà vườn, lời hứa với Mado đã hết hạn, vả lại chắc chắn Mado cũng không còn nhớ nữa, mà ai biết được thậm chí chị còn nhớ nó nữa hay không; tuy nhiên, nó vẫn ở đây, đứng sững trước bàn đón tiếp, hai bàn tay vẫn dính trên mặt formica, cho đến lúc cô thư ký ngẩng đầu nói với nó:

- Anh ấy nằm trong phòng số 27. Em đã đến đó chưa? Ở cuối hành lang B. Hãy nói chuyện với anh ấy, chúng ta không bao giờ biết liệu họ có thể nghe được hay không, ngay cả khi họ đang bất tỉnh.

“Không quá năm phút”, Julide nói nhỏ, "không quá năm phút”, và cuối cùng nó cũng gỡ bàn tay ra khỏi mặt bàn, thấy các đầu ngón tay ẩm ướt, nó vụng về chùi lên cổ tay áo khoác. Nó đi ngang sảnh và tiến vào hành lang. Nó vẫn còn hy vọng Mado đã đi ngang qua đúng lúc cô y tá cúi đầu xuống, giờ chị đang trong đó, ngay đầu giường; nhưng khi nó nhẹ nhàng đẩy cửa, gian phòng trống rỗng.

Người ta đã tháo chiếc mũ thạch cao khỏi đầu người đàn ông nhưng Julide không biết điều đó, nó gần như đã quên cái ngày nó đến tìm Mado trong bệnh viện, nó gần như đã quên các vết bầm tím ghê sợ mà hôm nay đã biến mất. Nó thấy anh xanh và gầy, hốc mắt sâu; thật kỳ lạ, anh càng giống với tấm hình trong thẻ căn cước hơn là với người đàn ông trẻ mà nó đã gặp vào buổi sáng hôm đó, như có chân lý bất biến tồn tại.

Nó nhẹ nhàng khép cánh cửa, rồi đến gần chiếc giường. Người đẹp đang ngủ, như cô y tá gọi như thế, vẫn luôn được nối với những chiếc máy qua các ống truyền và dây nối. Julide quan sát chúng một lúc, rồi đưa mắt nhìn những tờ giấy đính dưới đuôi giường, các đường cong nhiệt độ, biểu đồ và số liệu. Người đàn ông trở thành bầu trời của chính mình, con bé nghĩ, là đối tượng theo dõi theo cách gần như y hệt với các hình vẽ và lời dẫn giải ghi trong cuốn sổ tay của anh.

Nó đứng gần chiếc giường. Nhiều phút trôi qua, nhưng nó vẫn không đi ra được. Căn phòng quá đỗi bình yên, gian phòng này còn nhỏ hơn cả phòng ngủ tường dán giấy mà nó chia sẻ với hai đứa em nhưng nó cảm thấy bình yên khi ở đây, nó cảm thấy thật nhẹ nhàng và tự do khi ở đây, nó không biết vì cái gì và vì ai, nó đã không cảm thấy bình yên đến thế kể từ khi Mado xua đuổi nó khỏi cuộc đời của chị. Thật vậy, nó không có cảm giác bình yên đến như thế kể từ thời nó còn leo trèo trên cành cây sung, trước Achille, trước ngày ra đi của bác Nala, trước sự bắt đầu của cái mà người này người khác, đầu tiên là bà mẹ, gọi là cuộc sống thực sự của nó.

Một giờ trôi qua, thậm chí còn lâu hơn thế, và dần dần hơi thở của nó cùng nhịp với hơi thở của người đang ngủ; nó có thể nhắm mắt và ngủ đứng được. Nó nhìn anh, nó nhìn anh lâu đến mức từ nay nó có thể biết rõ anh hơn bất cứ một ai khác, thậm chí biết rõ hơn cả Mado, vì nó biết cả vết sẹo nhỏ xíu dưới cằm anh có từ thời thơ ấu và đã bị chiếc mũ thạch cao che đi. Nó biết khuôn mặt xanh xao này, không một vết máu tụ, mà người con gái già đã không bao giờ thấy và sẽ không bao giờ chụp ảnh được.

Trời đã muộn, bên ngoài có tiếng chó sủa và con bé nhớ ra con chó Bắc Kinh. Có thể con chó đã thức dậy, có thể mặt trời đã khuất sau tòa nhà, và trời lạnh trên phần bãi cỏ nó nằm. Con bé cúi xuống người bị thương nhưng không dám hôn anh, nó chỉ đặt nhẹ các ngón tay lên má anh - những ngón tay khi nãy ướt mồ hôi vì lo sợ trên mặt formica của bàn đón tiếp - rồi quay lưng và đi ra. Nhưng đúng lúc nó cầm tay nắm cửa, một giọng nói cất lên sau lưng, một giọng khàn đục, một giọng nói xuất phát từ xa đến mức có thể được truyền đi qua một cái loa nào đó lắp đặt không chuẩn trong các máy theo dõi, và giọng này khẽ nói , rồi Non.

Trong khoảnh khắc một giây, Julide nghĩ đến câu chuyện người đàn bà biến thành tượng muối nhưng đã quá muộn, nó đã quay lại và bắt gặp đôi mắt mở to của người đàn ông; đó cũng là đôi mắt trở về từ xa xôi, đen và bí hiểm như trong ảnh trên thẻ căn cước, và đôi mắt ấy cầu xin nó đừng ra đi - nhưng nó mở cánh cửa rất nhanh và lao ra hành lang, vừa khóc vừa chạy về phía sảnh, run lên nức nở vì một nỗi buồn mà nó đã không thể tưởng tượng nổi và không biết vì ai - bản thân nó, Mado hay người không quen kia. Nó khóc cho giấc mơ không thể của người con gái già, nó khóc cho tính ngây thơ đã đưa nó đến tận đây mà không sợ hãi, cũng có thể nó khóc cho nỗi khiếp sợ về điều mới bắt đầu.

Nó đẩy cánh cửa kính và chạy về phía con chó, nhưng khi cởi dây dắt, nó nhìn thấy ai đó ngập ngừng ở cổng bệnh viện; con chó kéo sợi dây hướng về bóng người đó mà sủa. Mado, con bé kêu to, Mado! Và buông sợi dây dắt chó, nó chạy đến, cầm tay Mado và kéo chị lại phía sau. Ồ, chị đừng vào trong, nó van xin, chị đừng vào. Mado chệnh choạng, suýt ngã và nhìn nó ngạc nhiên.

Chị đã già đi nhiều quá, Julide hoảng hốt nghĩ, tưởng chừng chị không thể già hơn được nữa. Mái tóc chị đã không được chải từ nhiều ngày, chị mặc chiếc áo khoác và chiếc váy dính nhiều vết bẩn; tuy vậy, ánh mắt của chị vào lúc này vẫn như trước. Khi Julide lao vào trong vòng tay chị, Mado lau những giọt nước mắt của nó bằng lòng bàn tay:

- Thôi, beliyaa, chị thì thầm khẽ nói - lời dịu dàng của Nala đã hằn sâu trong trí nhớ của cả hai người - chuyện gì xảy ra vậy? Và Julide khóc nức nở: “Anh ấy đã tỉnh lại, ôi Mado, anh ấy đã tỉnh lại.”

Lúc này thì chính Mado mới là người cần được nâng đỡ, nhợt nhạt như mảnh vải, chị dựa vào vai Julide, từ từ bước về phía chiếc ghế dài gần đó, như thể nỗi đau đớn giống một con vật nuôi trong nhà đã nhảy từ vai người này sang vai người khác vậy; nỗi đau này quá lớn, và quá sắc nhọn, sắc nhọn đến mức Mado không thể tưởng tượng chị sẽ như thế này, một que sắt đâm sâu trong tim chị.

Vậy đấy, điều ấy đã đến. Điều chị lo sợ đã đến. Chị sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa - bởi vì làm sao chị có thể để cho anh nhìn thấy khuôn mặt mà chị mới phát hiện ra trong chiếc gương chải tóc, khi chị đã tìm thấy lại nhận thức và sự sáng suốt nên vội vàng mặc quần áo đi ra ngoài: khuôn mặt ấy bị tàn phá vì tuổi già và, tệ hơn nữa, vì lạc lối giống như sự lạc lối của ông già -Ông bạn Pierrot - sự lạc lối vẫn hiển hiện trong các nét mặt chị cho dù tinh thần của chị đã hoàn toàn minh mẫn, nó đã để lại dấu vết trên mặt chị giống như sự mệt mỏi hay một cơn sốt. Màu lá móng trên tóc chị đã nhạt đi để nhường chỗ cho một màu hồng lạ lẫm, màu hồng của vải nhung cũ ít được chăm sóc và đã giặt quá nhiều lần, phần chân tóc đã trắng hoàn toàn. Tuy nhiên, thật đau đớn làm sao vì không thể nói với anh lời từ biệt. Có thể chị đã nói rồi, chị nghĩ để tự an ủi, có thể chị đã nói rồi nhưng chị không nhớ; nhưng có, chị chắc chắn nhớ thói quen được thiết lập trong các lần đến thăm cuối cùng, mỗi lần chị đều nói với anh lời vĩnh biệt như thể lần nào cũng là lần cuối cùng vì sợ rằng anh sẽ tỉnh lại trong lần đến thăm tiếp sau, hoặc sợ chính bản thân chị quên trở lại. Tuy vậy, chị có thể cho đi tất cả để được gặp anh một lần nữa, chị sẽ ôm hôn anh và chụp hình lần cuối cùng khuôn mặt anh - khuôn mặt chắc chắn từ nay mang đầy sẹo, nhưng giống với khuôn mặt trước cú ngã.

Julide ngồi bên cạnh chị, dựa đầu lên vai chị như để làm dịu đi đôi chút nỗi buồn của chị.

- Đáng ra em không nên là người cuối cùng nhìn thấy anh ấy, nó khẽ nói như thể đã đọc được suy nghĩ của chị vậy. Em không có quyền. Em lấy làm tiếc,
rất tiếc.

Người con gái già nghĩ đến nỗi sợ hãi ám ảnh chị trước ngày hôm nay, nỗi sợ chị đã không biết người đàn ông trẻ mở mắt lúc chị có mặt; sự kinh ngạc chị sẽ đọc được trong ánh mắt anh lúc đó, sự rối loạn, cảm giác phản bội. “Như thế lại tốt hơn”, chị nói đi nói lại, tuy nhiên, que sắt như vẫn đâm trong da thịt chị: không bao giờ chị tưởng tượng được một người phụ nữ nào khác lại có thể đưa anh ra khỏi cơn mê. Chị nhìn Julide, mí mắt và môi nó sưng phồng vì nước mắt, mái tóc nó buông xuống đôi bờ vai, màu hung sẫm và sáng, khác xa mái tóc như lông nhung cũ của chị mà người ta có cảm giác sẵn sàng rụng ra cả nắm. Nhiều câu hỏi đã trực trên môi mà chị không dám lên tiếng; chị biết rõ là câu trả lời sẽ làm chị rất đau đớn, như một sự khôn ngoan, trực cảm nói với chị một khi những lời ấy nói ra thì sẽ là kết thúc, chị sẽ không chịu đựng nổi nữa. Cuối cùng, chị cũng nói được ra, nhưng đó không phải dưới dạng câu hỏi: Hỏi là vô ích, chị đã biết.

- Anh ấy đã nhìn thấy em, chị nói. Anh ấy đã nhìn thấy mặt em.

Julide quay mặt, gật đầu.

- Và anh tưởng đó là chị, Mado khó khăn nói nốt.

- Có thể, Julide buột lời, thế rồi, trong đà tuyệt vọng, nó thốt lên: - Vâng. Ồ, xin lỗi Mado, em không muốn,- em không muốn chiếm vị trí của chị.

"Thôi", chị nghĩ. Thôi, chị đã có lý, nỗi đau đã thật kinh khủng nhưng giờ đây không còn gì hết, gần như nỗi đau khi nhổ một chiếc răng. Sự tồn tại của nó đã bị tẩy xóa, không còn lại gì hết, và tuy nhiên, điều đó không phải hoàn toàn đúng, trong một ý nghĩa nào đó, nỗi đau chỉ mới bắt đầu tồn tại.

- Đừng khóc, beliyaa, - chị vuốt ve má con bé, khẽ nói. - Đừng khóc, như thế là tốt, thế là tốt - và thực sự chị cảm thấy dâng lên trong lòng những cảm xúc ngạc nhiên và thán phục giống như ngày trước chị đã từng có khi các tấm bản đồ hướng dẫn của Albanala và Julide đã giúp chị đi đến chính xác nơi chị muốn đến, lúc ấy chị yên tâm đi theo các chữ viết hay mũi tên trong khi không biết chút nào về thế giới xung quanh. “Em không chiếm chỗ nào hết”, chị nghĩ. Nhưng bất chấp tất cả, dù đau lòng, chị bỗng nhiên cầu xin:

- Hãy hứa với chị em sẽ yêu anh ấy. Hãy hứa, hãy hứa em sẽ yêu anh ấy như chị yêu anh ấy.

Lúc này, Julide nhìn chị và khẽ nói với nụ cười nhợt nhạt khiến hai người trở nên bình đẳng, bình đẳng thực sự, không ai trong họ bị thua thiệt hơn hay được nhiều hơn người còn lại.

- Chị không phải lo lắng. Chị đã rất yêu anh ấy. Đầu tiên chính vì thế mà em đã yêu, trước khi yêu anh ấy, chính vì thế mà em đã yêu.

Mado ngắm nhìn khuôn mặt nó, khuôn mặt đẹp đẽ mà sự cam chịu trong nhiều năm qua đã biến mất, khuôn mặt hờ hững nhưng sống động, chị biết tất cả những gì anh phải chịu ơn chị và chị cảm thấy tự hào, một niềm kiêu hãnh không tên. Chị nghĩ rằng điều đó cũng là khó đối với Julide, im lặng, giữ bí mật này suốt cuộc đời, và chị, trong một chừng mực nào đấy, sẽ được giải phóng khỏi điều đó, vì lãng quên hay vì cái chết; nhưng hiện tại con bé không có khả năng ấy, chị cũng không, và lần đầu tiên kể từ rất lâu và có lẽ cũng là lần cuối cùng, chị nghĩ đến Albanala, người đã biết nhìn nhận rất rõ sức lực và trái tim của họ.

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/91609


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận