Ngày 6 tháng 7, 4 giờ 44 phút chiều
Eo Hormuz
Chiếc thủy phi cơ Nga, loại Beriev 103, cất cánh từ sân bay quốc tế đảo Qeshm, rồi bay là là trên mặt nước eo Hormuz.
Gray rất ấn tượng với độ quanh rất ngắn của sân bay. Máy bay của họ từ Istanbul mới chỉ hạ cánh cách đây mươi phút. Chiếc thủy phi cơ đã chờ ở đó: đầy nhiên liệu, động cơ được đốt nóng, hai cánh quạt chầm chậm khởi động. Chiếc thủy phi cơ này chỉ có thể chứa được sáu người kể cả phi công, có ba hàng ghế, mỗi hàng hai ghế.
Nhưng nó bay nhanh.
Bay sang đảo Hormuz mất không quá hai mươi phút. Họ đã đi rất nhanh. Tuy nhiên, chỉ còn hai giờ để tìm ra chìa khóa cuối cùng, sử dụng nó cùng với những cái khác để giải mã văn bản angelic trong mẫu đá.
Gray đã dùng thời gian trên chiếc máy bay do Seichan thuê thông qua cánh buôn lậu nghiên cứu giải mã phức tạp của mẫu đá. Mặc dù đi trên một chuyến bay ngắn như vậy, mỗi phút đều có giá trị. Ngồi một mình ở hàng ghế cuối, anh lại lôi cuốn sổ tay ra, trên đó đầy rẫy các dữ liệu và khả năng. Anh đã thử cố gắng chuyển tất cả ký tự trong mẫu đá thành các từ giống như Vigor đã làm với văn bản angelic của Vatican, đọc thành Hagia. Nhưng anh vẫn chưa thấy tiến triển gì.
Cho dù có sự giúp đỡ của Vigor.
Lúc ở trên máy bay, hai người đã chụm đầu vào cái sơ đồ. Vigor thông thạo ngôn ngữ cổ. Nhưng tỏ ra không hiệu quả. Việc giải mã trở nên cực kỳ khó khăn vì họ không biết mặt nào trong bốn mặt của mẫu đá là điểm xuất phát và phải đọc theo hướng nào theo chiều kim đồng hồ hay ngược lại.
Điều này dẫn đến tám khả năng.
Cuối cùng Vigor dụi mắt, chấp nhận thất bại." Không có chìa khóa thứ ba, chúng ta không bao giờ hình dung ra nó."
Gray từ chối tin điều ấy. Cả hai thậm chí còn tranh luận một hồi. Họ cùng đồng ý tách ra một lúc để không cãi cọ về câu đó. Gray biết rằng phần lớn chuyện bực mình của anh liên quan đến nỗi đau trong anh. Ngay lúc này anh vẫn muốn nôn oẹ. Mỗi khi nhắm mắt lại, anh vẫn hình dung khuôn mặt mẹ. Anh thấy vẻ trách móc trong đôi mắt của bố.
Vì vậy Gray dứt khoát không nhắm mắt, lại bắt tay vào công việc.
Đó là tất cả những gì anh có thể làm.
Gray lại nhìn chăm chú vào một trong các ký tự trên những trang giấy.
Có thêm bảy khả năng nữa ở những trang tiếp theo.
Cái nào là đúng? Bắt đầu từ đâu?
Phía trước, một tiếng ngáy to thu hút sự chú ý của anh. Kowalski đã bắt đầu ngủ. Có thể ngay cả trước khi máy bay rời đường băng.
Vigor ngồi bên cạnh, vẫn ngẫm nghĩ trên mảnh nhật ký bằng lụa. Chắc chắn là điểm chết. Ngài linh mục cau mày nhìn sang anh chàng đang ngáy, tháo đai an toàn rồi đi xuống ngồi cạnh Gray. Ông cầm mảnh lụa trong tay.
Một giây phút bối rối kéo dài.
Gray gấp cuốn sổ tay lại." Trở lại đó... trước đó."
"Tôi biết." Vigor nói rồi thò tay ra vỗ nhẹ lên tay anh. "Tất cả chúng ta đều băn khoăn. Nhưng tôi muốn theo đuổi ý kiến của anh. Anh cứ suy nghĩ đi."
Gray ngồi thẳng dậy: "Vâng."
"Tôi muốn anh giải mã trên mẫu đá. Song vì chúng ta sắp sửa hạ cánh, giờ có lẽ là lúc tốt nhất để xem có thể tìm được chìa khóa thứ ba ở nơi nào trên đảo Hormuz."
"Tôi nghĩ chúng ta đã biết cần tìm kiếm ở chỗ nào rồi." Gray nói.
Không thể cưỡng lại, anh lại mở cuốn sổ tay ra rồi đập vào ký tự angelic tìm thấy ở mặt sau cái hộ chiếu vàng
Họ so sánh nó với một tấm bản đồ hòn đảo và phát hiện ra cái vòng tròn đen kịt đánh dấu vị trí các phế tích của một lâu đài Bồ Đào Nha, được xây dựng khoảng một thế kỷ trước khi những chiếc chìa khóa được cất giấu. Vào thời hoàng kim, nó đã từng là một vị trí tiền tiêu vững chắc. Xây trên một eo đất, bị phân cách bởi một cái hào, nó nhìn xuống thành phố Hormuz và các cảng neo đậu. Với các học giả Vatican việc tìm kiếm nơi để giấu một cái chìa khóa cho hàng thế kỷ, lâu đài xem ra là nơi lý tưởng.
Họ đang đi tới điểm phế tích đó.
Vigor gật đầu: "Đúng là lâu đài Bồ Đào Nha. Nhưng điều tôi muốn nói là tại sao chúng ta lại tìm kiếm ở đó. Nếu biết vậy, chúng ta có thể hình dung ra tìm cái gì trong đống đổ nát của lâu đài."
"Ok, vậy chúng ta bắt đầu từ đâu?"
Vigor chỉ ra cửa sổ máy bay. Có thể nhìn thấy hòn đảo ở phía trước."Hormuz đã từng là một thương cảng quan trọng, buôn bán ngọc ngà châu báu, hương liệu và nô lệ. Quan trọng đến mức, người Bồ Đào Nha đã chiếm từ thế kỷ XVI rồi xây dựng lâu đài của họ. Nhưng dưới thời Marco, đối với Kublai Khan, nó cũng quan trọng đến mức phải gả một người con gái trẻ thuộc hoàng tộc của mình đến lấy chồng tận đấy."
"Kokejin, cô công chúa xanh."
"Đó chỉ thuần túy là một sự thu xếp thương mại. Thực ra, nhà vua Ba Tư mà công chúa dự định kết hôn đã chết khi Marco và Kokejin đang trên đường đi. Cô công chúa kết hôn với con trai nhà vua. Nhưng đây lại là một cuộc kết hôn vụ lợi. Cô đã chết chỉ ba năm sau đó. Có người nói cô chết vì chính bản thân mình, nhưng cũng có người nói bởi vì cô hy vọng vào một tình yêu khác."
Gray quay lại: "Ngài không nói..."
"Ngay cả Marco cũng không kết hôn sau khi Kokejin chết. Và khi Marco chết, ông ta có hai báu vật trong phòng. Cái hộ chiếu vàng mà Kublai Khan đã đưa cho ông ta. Ngoài ra còn có một cái vòng đầu, nạm châu báu." Vigor nhìn vào Gray. "Một cái vòng đầu của công chúa".
Gray ngồi phắt dậy, tưởng tượng ra cuộc hành trình kéo dài hai năm của Marco, đi du lịch và thám hiểm những vùng đất tuyệt vời. Marco vẫn còn tương đối trẻ khi ông rời lâu đài Kublai Khan ở độ tuổi ba mươi. Kokejin khoảng mười bảy tuổi khi rời Trung Quốc, mười chín tuổi khi tới Ba Tư. Không thể tưởng tượng là họ đã yêu nhau, thứ tình yêu không bao giờ tồn tại bên ngoài Hormuz.
Gray cố thoát ra khỏi cơn đau đầu mà anh đang phải chịu đựng. Anh nhớ đến viên gạch ở Hagia Sophia, phía trong lóng lánh với màu xanh hoàng gia, một bí mật giấu trong đá. Nhưng liệu có phải hòn gạch cũng tượng trưng cho trái tim của Marco, biểu trưng cho mối tình bí mật của ông với Kokejin?
"Vậy là chúng ta quên dấu vết khác để lại cho chúng ta." Vigor tiếp tục. Ông nhấc mảnh lụa lên. "Câu chuyện đã được thêu trên lụa. Tại sao lại là lụa?"
Gray nhún vai. "Đó là vật liệu từ Viễn Đông nơi Marco du lịch."
"Đúng, nhưng liệu nó còn có ý nghĩa gì khác không?"
Gray nhớ lại hình ảnh Vigor cúi rạp xuống những dòng chữ, thậm chí kiểm tra bằng cả kính lúp. "Thế ngài phát hiện ra điều gì?" Anh hỏi.
Ngài linh mục nhấc mảnh lụa lên." Thứ lụa này không phải mới khi được thêu văn bản lên. Lụa đã được mặc mỏng và không đều. Tôi tìm thấy dầu và những vết ố cũ."
"Vậy đó là một mảnh lụa đã được dùng rồi?"
"Nhưng nó được dùng vào việc gì?" Vigor hỏi. "Một trong những ưu việt thường thấy của chất liệu lụa - đó là do nó hiếm và đắt tiền nên thường được dùng như khăn choàng hay khăn liệm của hoàng gia."
Vigor chờ đợi, nhìn thẳng vào Gray. Anh dần hiểu ra, hình dung một hòn gạch màu xanh rỗng. Sự ngạc nhiên như xen vào giọng nói của anh. "Ngài có nghĩ đấy có thể là khăn liệm Kokejin."
"Có thể. Nhưng nếu tôi nói đúng thì tôi biết chúng ta phải tìm kiếm điều gì trong lâu đài cổ đó."
Gray cũng biết điều ấy.
"Ngôi mộ của Kokejin."
*
* *
4 giờ 56 phút chiều
Ngồi trên ghế phụ lái, Seichan nhìn bao quát toàn cảnh hòn đảo khi chiếc thủy phi cơ hạ xuống một cái vịnh được che khuất. Đó không phải là một hòn đảo lớn, bề ngang chưa quá bốn dặm. Phần giữa của đảo là đá và đồi núi, rất hiếm những vạt màu xanh. Ven biển toàn là đá lởm chởm với những vũng nhỏ, nơi ẩn náu của các toán buôn lậu. Nhưng về phía bắc, sườn đồi lại xuôi thoai thoải ra biển. Ở đây, đất đai xanh mướt cùng với loại cây chà là và đất ruộng được cày cấy, có một thị trấn nhỏ với những ngôi nhà mái rạ.
Từ trên không, có thể thấy dấu vết một thành phố cổ xưa, rộng rãi với các nền đá hoành tránh, vài phiến đá lớn được khuân đến từ mạn đồi núi phía bên kia của đảo, dăm ba ngôi nhà xiêu vẹo trông như đống đổ nát và một cái cột cao duy nhất, đã từng được dùng làm ngọn đèn hải đăng dưới thời Bồ Đào Nha.
Nhưng đó không phải là điểm đến của họ.
Chiếc thủy phi cơ nghiêng cánh rồi hạ xuống một eo đất trải dài ở phía bắc đô thị cổ. Ngay trên dải đất là phế tích của lâu đài cổ. Có thời nó đã bị chia cắt khỏi đô thị cổ bằng một cái hào rộng, nhưng giờ đây bị bùn lấp đầy và trở thành một đường rãnh kéo dài từ đông sang tây.
Khi bay qua khu phế tích, Seichan đã nghiên cứu mục tiêu của họ. Lâu đài sừng sững được bao bọc bằng các bức tường cao ven biển nhưng ở phía tây đã bị nước biển xói mòn. Về phía đông nhờ nằm kề bên một cái vịnh hiền hòa nên đỡ hơn.
Máy bay nghiêng xuống để hạ cánh ở vịnh, thấp dần rồi trườn trên nước. Seichan nhìn thấy những khẩu thần công bằng sắt hoen gỉ trên nóc pháo đài, và sáu khẩu nữa trên bãi biển, giờ đây được dùng để neo thuyền. Lúc này có một cái thuyền nhỏ được buộc vào một khẩu thần công. Một thân hình màu nâu, trần trụi, trừ chiếc quần soóc, đang giơ tay vẫy máy bay.
Seichan nghĩ đó là anh chàng hướng dẫn mà cô đã yêu cầu trước ở làng. Chỉ có hai tiếng thôi nên họ cần có ai đó hiểu biết rõ về vùng đất này.
Chiếc thủy phi cơ đỗ sát bờ biển, phun ra một làn nước khi dừng lại. Seichan chúi người về phía trước, mạn sườn đau nhói. Trước đó cô đã xem lại vết thương trong phòng tắm sân bay. Chỗ băng bó vẫn ẩm do vết rò rỉ nhưng không còn màu đỏ nữa mà chỉ nhờ nhờ.
Cô đã sống.
Viên phi công lái chiếc máy bay quanh khi cái xuồng nhỏ lao về phía họ. Người hướng dẫn của họ ngồi ở sau, tay đặt lên bánh lái.
Giây phút sau, cánh cửa mở ra rồi cả toán leo từ máy bay xuống. Người hướng dẫn té ra lại là một đứa trẻ khoảng mười hai, mười ba tuổi, người toàn xương, cười luôn miệng. Rõ ràng cậu bé muốn thực tập thứ tiếng Anh bồi của mình.
"Chào mừng tới Hormuz, chào các ông và cô! Tôi tên là Fee’az!"
Gray giúp Seichan ngồi vào xuồng, nheo mắt. "Đây là người hướng dẫn có kinh nghiệm của cô ư?"
"Trừ phi anh sẵn sàng nấu chảy một trong mấy cái hộ chiếu bằng vàng, đó là thứ tiền tốt nhất chúng ta có thể mua ở đây."
Và cô ta đã tiêu thứ đô la có giá trị nhất để đưa họ tới đây nhanh nhất.
Cô nhìn Gray ngồi xuống ghế. Cặp mắt anh đã bắt đầu ngắm nghía cái lâu đài. Cô nhìn thấy nỗi băn khoăn như gồ lên trên đôi vai của anh. Khuôn mặt anh nếu nhìn từ mọi góc cạnh trông thật khắc khổ, từ cái cằm đến gò má. Anh đã bị giằng xé, tan tác và cũng thật yếu đuối.
Về chuyện mẹ và bố anh.
Khẽ lắc đầu, Seichan quay đi. Cô cũng không thể nhớ nổi bố mẹ mình. Chỉ có một hình ảnh tồn tại: một người đàn bà bị kéo ra cửa, khóc lóc, với tay về phía cô rồi biến mất. Cô cũng không chắc đấy có phải là mẹ mình không nữa.
Fee’az chèo về phía bãi biển trồng cọ và khu phế tích cao ngất của lâu đài. Kowalski thò tay xuống nước, ngáp dài. Vigor nhìn về phía làng. Một lễ hội nào đó đang diễn ra, tiếng nhạc vẳng lại.
Gray quay lại nhìn Seichan, vẻ mặt vẫn như mọi khi, cặp lông mày nhíu lại như hỏi liệu đã sẵn sàng chưa.
Cô gật đầu.
Khi Gray quay lại, anh bỏ chiếc áo khoác mỏng chỉ mặc áo sơ mi kaki. Cô để ý ánh sáng lấp lánh từ cổ áo. Bàn tay anh vô tình chạm vào một vật bằng bạc bên trong sơ mi.
Cái phù hiệu con rồng.
Cô đã đưa cho anh gần như một trò đùa từ một phi vụ hợp tác trước đây. Nhưng Gray vẫn giữ và đang đeo nó. Tại sao? Điều này làm cô bỗng thấy ấm áp một cách không thể giải thích nổi - nhưng không phải từ sự mến mộ, mà như là một cảm giác pha trộn giữa lúng túng và ngượng ngùng. Liệu Gray có nghĩ rằng cô đưa cho anh phù hiệu đó như một biểu lộ tình cảm? Cô phải hài lòng, song vì một lý do nào đấy nó lại làm cô bực mình.
Mũi xuồng va mạnh vào cát làm lưng cô đau nhói.
Họ đã tới bờ và bắt đầu tháo dỡ đồ đạc.
Seichan ném chiếc túi cho Kowalski đựng một ít vật dụng, trong đó có chiếc laptop, vài quả lựu đan cay và sáu hộp đạn cho bốn khẩu súng lục.
Gray đưa tay ra đỡ cô ra khỏi xuồng nhưng cô đã gạt tay anh ra rồi nhảy lên.
Fee’az buộc chiếc xuồng vào một trong những khẩu thần công han gỉ rồi vẫy họ về phía một lối vào rộng rãi dẫn tới những bức tường của lâu đài. Cao hơn ở phía trên, những lỗ châu mai nhỏ nhô ra từ các bức tường nơi đã có thời binh lính Bồ Đào Nha dùng để canh gác lâu đài.
Tất cả men theo bức tường tới một cái sân trong bằng đá hoang phế. Những bụi cây gai mọc lên qua các vết nứt đe dọa có thể đổ ụp bức tường bất cứ lúc nào, vài cây chà là mọc từ khoảnh vườn cũ. Ở mọi chỗ gió cát thổi ào ào qua những mảnh tường còn lại tạo nên một thứ âm thanh ma quỷ ghê rợn.
Fee’az giơ tay chỉ về phía lâu đài chính. Nó vươn lên sáu tầng, trên đó vẫn thấy nhô ra vài khẩu thần công han gỉ.
"Cháu sẽ chỉ cho các bác những chỗ có rất nhiều thứ để xem." Cậu bé tự hào nói.
Cậu toan kéo mọi người đi thì Vigor đã túm lấy vai cậu. "Này cháu, ở lâu đài có cái điện thờ nào không?"
Cậu bé trợn mắt hồi lâu rồi nét mặt dãn ra với nụ cười thường trực:
"Mọi người khát nước à?"
Vigor cười: "Ồ không, một cái nhà thờ."
Lông mày cậu bé nhíu lại. "Ồ, các vị theo đạo Thiên chúa. Được thôi. Tất cả đều tốt. Hồi giáo cũng thích Kinh thánh. Đó là một cuốn sách thần thánh. Chúng tôi cũng có các vị thánh. Thánh Hồi giáo. Nhưng đức tiên tri Mohammed là người tuyệt vời nhất." Cậu bé liến thoắng một cách tự hào.
Vigor bóp vai cậu, nhận ra cậu bé đang day dứt giữa việc là một tín đồ Hồi giáo ngoan đạo và một hướng dẫn viên du lịch chu đáo.
"Một cái nhà thờ ấy mà?" Ông hỏi lại.
Cậu bé gật đầu lia lịa. "Căn phòng các cây thập tự." Cậu dẫn họ đi về phía cửa tối om.
Kowalski lắc đầu trước những câu nói của cậu bé rồi bước theo.
"Cậu bé cần phải cắt bỏ những phần quái gở đi."
Gray cười, một nụ cười hiếm hoi như ánh mặt trời trong cơn mây đen.
"Chúng ta đi nào." Anh thì thầm với Seichan khi đi ngang qua. Anh tiến gần, thò tay ra nắm lấy tay cô.
Seichan gần như theo phản xạ định nắm lấy tay anh, nhưng thay vì đó, giận dữ với bản thân mình, cô lại nắm chặt bàn tay mình. Phản ứng của cô không xuất phát từ sự tức giận hay tuyệt vọng.
Từ cảm giác tội lỗi nữa.
Cô căm ghét việc phải nói dối người đàn ông này.
*
* *
5 giờ 18 phút chiều
"Ồ, đây chắc sẽ là một cái nhọt ở mông." Kowalski nói.
Gray không tranh luận.
Điện thờ nằm trên tầng một của lâu đài, tất cả các lối đều dẫn vào phía trong. Sau khi đi qua tiền sảnh, họ phải dùng đèn pin để đi ngang qua những hành lang phía sau, thấp tè. Càng đi sâu vào trong càng im lặng. Gió như ngưng thổi. Chỉ có những tiếng loạt soạt từ những tổ chuột, chạy trốn trước ánh đèn rọi vào.
Căn phòng dừng lại ở một cái cửa thấp, muốn qua không những phải cúi đầu thấp xuống mà gần như bò vào. Vigor là người đầu tiên bước vào cùng với cậu bé dẫn đường. Một tiếng kêu ngạc nhiên bật ra từ miệng ông khi bước vào trong. Gray bước vào sau.
Anh đứng đó lia đèn pin vào cái điện thờ tối om.
Nằm ở phía trên có một cái cửa sổ hình cây thập tự giúp ánh sáng le lói chiếu vào nhưng không nhiều. Cái cửa sổ rất hẹp, quá hẹp để trèo vào nhưng có thể cũng là một điểm chốt để bảo vệ lâu đài.
Từ phía cửa sổ một tia sáng chiếu thẳng vào một tảng đá cao ngang thắt lưng.
Ban thờ của điện.
Căn phòng hoàn toàn trống rỗng.
Nhưng không phải là không được trang trí.
Ngang qua mỗi bề mặt -tường, sàn, trần và ngay cả trên ban thờ, những cây thập tự được chạm vào đá. Hàng trăm nếu không nói là hàng nghìn cây thập tự. Chúng khác nhau về kích cỡ, từ những cái nhỏ bằng ngón tay đến những cái to cỡ bằng người thật.
"Quả là không nghi ngờ gì khi họ gọi đây là căn phòng của những cây thập tự." Vigor nhận xét.
Gray ngắm nghía những cây thập tự, nhớ lại cây thập tự mờ mờ được khắc vào tường đá cẩm thạch ở Hagia Sophia. Anh lấy ra chiếc thập tự bằng bạc, cây thánh giá của Friar Agreer." "Bây giờ việc chúng ta phải làm là tìm những cây thánh giá nào bằng cỡ cái này."
Vigor bước tới rồi nói cậu bé để họ ở lại đó một mình.
Cậu bé có vẻ lúng túng khi thấy ngài linh mục chỉ vào cây thánh giá trên tay Gray.
"Chúng tôi phải cầu nguyện." Ngài linh mục giải thích. "Chúng tôi sẽ ra ngoài sau khi xong."
Cậu bé gật đầu rồi nhanh chóng bước đi. Cậu không dám đi quá nhanh, chắc sợ bị bắt gặp vậy trong lúc một buổi hành lễ Thiên chúa giáo đang diễn ra. Bước đi cậu nghi họ đang tế thần những đứa trẻ.
Sau chỉ còn cả nhóm ở lại, Gray cố trấn tĩnh mặc dù vẫn bối rối vì sức ép quá lớn của thời gian còn lại. "Một trong những cây thánh giá ở đây phải giống hệt như cây thánh giá của cha Friar Agreer. Chúng ta phải tìm xem cái nào."
Anh chia nhóm ra.
Bốn người, bốn bức tường.
Vậy là còn lại sàn và trần.
Gray đặt cây thánh giá lên ban thờ, để sẵn sàng cho mọi người có thể xem và so sánh. Anh cũng xé bốn tờ giấy trong cuốn sổ tay rồi vẽ lại đúng kích thước của nó đưa cho mọi người.
Tất cả họ tìm kiếm. Gray để ý sự dịch chuyển của tia sáng trên ban thờ theo chiều mặt trời lặn như thể thời gian đang chạy trốn khỏi anh. Anh đã kết thúc phía bức tường chỗ mình. Không có gì. Mồ hôi túa ra dính chặt quần áo vào người. Anh bắt đầu đến sàn. Những người khác, cũng lần lượt đến với anh. Seichan xem trên ban thờ.
Cây thập tự quan trọng nhất, cái được tạo ra bởi ánh sáng mặt trời tiếp tục dịch chuyển không ngừng khắp phòng.
"Không phải ở dưới sàn rồi." Vigor nói, mặt đỏ bừng, duỗi thẳng chân. Ông đứng dậy, một tay đỡ dưới lưng.
Đằng sau ban thờ, Seichan lắc đầu.
Cũng không có được may mắn.
Gray nhìn lên trên.
Mái trần thấp, nhưng không quá thấp để có thể chạm được. Cần phải trèo lên mới có xem hết những cây thập tự trên đó có cái nào vừa không.
"Có thể là tôi sai." Vigor nói. "Có thể mộ của Kokejin ở nơi nào khác trong lâu đài. Tất cả những cây thánh giá này biết đâu chỉ là những dấu vết giả."
Gray khẽ lắc đầu. Không. Họ đã mất trọn một giờ rồi. Họ không còn thời gian để lục soát toàn bộ lâu đài này. Họ đã tập trung vào điện thờ. Không còn đường lui nữa, không thể đoán tiếp lần nữa.
"Mộ của Kokejin chắc phải ở đây." Gray khăng khăng.
Vigor thở dài. "Vậy là chỉ còn cái trần."
Gray chỉ định Kowalski đỡ cho linh mục trèo lên. Anh bước đến phía Seichan.
"Này, ông bạn, tôi chẳng hiểu gì cả." Kowalski càu nhàu.
Phớt lờ anh ta, Vigor chỉ lên các bức tường. "Chúng ta sẽ bắt đầu từ các góc ngoài. Hai người làm phần giữa."
Seichan trèo lên ban thờ. "Tôi có thể với được chỗ này."
Khi cô đứng lên, một tia sáng mặt trời chiếu vào lưng cô. Cô đã cởi chiếc áo ngoài và chỉ mặc mỗi chiếc áo phông màu đen. Gray để ý những đường cong trên cơ thể cô khi cô đứng dậy, độ căng phồng của vải bông trước ngực cô. Dù có bao nhiêu sự phiền muộn trong lòng nhưng là một người đàn ông, anh không thể không ngưỡng mộ cảnh đó... nhưng rồi anh lại cảm thấy tội lỗi về chuyện này.
Ồ, bây giờ không phải lúc...
"Tôi e mình đã thấy có khả năng..." Seichan lẩm bẩm, kiễng chân cao lên.
Rồi cô nhăn mặt hạ chân xuống. Bàn tay xoa vào chỗ đau. Cô đã làm vết thương bị chạm mạnh.
Gray trèo lên bên cạnh. "Để tôi giúp cô."
Anh đưa một chân cho cô trèo lên, chìa bàn tay ra để làm chỗ tựa.
Cô cầm lấy cây thánh giá bạc rồi trèo lên bàn tay của anh.
Khi anh đứng thẳng người nâng cô lên, cô giữ thăng bằng một tay trên đầu anh rồi đưa cây thánh giá lên phía trần. Mông trái của cô chạm vào má anh.
Trời, mình chết ngạt mất thôi.
"Tôi nghĩ... tôi thấy," Seichan thì thầm. "Nó khít! Chỗ này có thể đặt cây thánh giá vừa khít. Thật vừa vặn"
Gray ngửa cổ lên, nhưng tất cả những gì anh có thể nhìn thấy là phía dưới bộ ngực của cô.
"Liệu cô có thể nói là Đức Chúa đang nhìn về cái gì?" Anh hỏi, cố nhớ lại lúc ở nhà thờ Hagia Sophia.
"Nhìn xuống ban thờ." Cô trả lời, nhưng hình như bị phân tán. "Cây thánh giá nằm lọt trong một khối đá tròn. Khi tôi nhét nó vào, tôi cảm thấy như có tiếng gì cạch một cái. Rồi đá hình như lỏng ra. Khi đặt cây thánh giá vào tôi nghĩ có thể xoay nó. Có thể vặn ra được hoàn toàn."
"Tôi nghĩ cô không nên..."
Anh nghe có tiếng đá nứt. Một tiếng rầm thật mạnh, nhưng nó không đến từ phía trên. Gray nhìn xuống mũi chân mình.
Ban thờ tụt xuống dưới chân anh, tụt hẳn xuống nền, kéo anh theo nó.
Seichan ngã vào lòng anh, ôm chặt lấy cổ anh.
Mảnh đá lao xuống đất làm Gray khuỵu một chân xuống. Bụi bay mù mịt. Một trong những viên gạch ở nền bị vỡ tung, đập vào ban thờ rồi lăn vào khoảng tối trước mặt.
Gray nhìn lên. Mặc dù nó làm anh sợ quá nhưng họ chỉ ngã xuống khoảng bốn feet. Vigor và Kowalski nhìn trợn tròn mắt về phía họ.
"Tôi nghĩ các bạn đã tìm thấy cái gì đó." Kowalski chìa cây đèn pin ra.
Gray chớp mắt nhưng anh cũng cầm lấy chiếc đèn. Seichan trèo ra, phủi bụi. Vẫn ngồi xổm, Gray chiếu vào chỗ hốc vừa lộ ra dưới cái điện thờ. Một đường vòm tối om.
Anh chui vào chỗ tảng đá ban thờ, tụt xuống nền, Seichan sát ngay vai anh.
Vigor và Kowalski cũng trèo vào theo.
Hai cổng vòm đan vào nhau tạo ra một cái mái của một hốc nhỏ, bằng cỡ nửa điện thờ. Soi đèn pin, một hốc nhỏ được đào sâu bên bức tường phía sau làm thành một đường vòm nữa.
"Một ngôi mộ." Vigor nói.
Bên trong là một thân hình nằm vắt ngang qua phiến đá trần, được quấn bằng mảnh vải trắng.
"Mộ của Kokejin." Vigor nói. "Chúng ta đã tìm thấy rồi."
Mặc dù rất phấn khích, nhưng tất cả đều mang vẻ kính cẩn. Gray và Vigor bước lên. Họ cần phải chắc chắn. Vigor làm dấu thánh rồi lẩm bẩm cầu kinh.
Ngài linh mục thò tay vào tấm vải liệm.
"Nếu có cái gì đó động đậy," Kowalski thì thầm, rất hốt hoảng. "Tôi sẽ ra khỏi đây, mọi người nhớ đấy."
Vigor phớt lờ anh ta rồi kính cẩn lật tấm vải lên từ một bên. "Lụa." Ông thì thào.
Bụi bay lên khi ông kéo tấm lụa.
Cái xương sọ lộ ra. Nằm trên cùng là một cái vòng vàng, có gắn hạt ngọc lấp lánh..
"Cái vòng đầu của công chúa." Vigor nói giọng lạc hẳn đi.
Gray nhớ lại câu chuyện của Vigor về chuyện Marco đã đem cái vòng đầu cùng với ông ta xuống mồ.
Bàn tay ông run rẩy. "Marco chắc đã di chúc lại rằng nó sẽ được mang trả lại. Thậm chí có thể thu xếp làm sao cho xác của cô ta được di chuyển và gìn giữ trong vòng bí mật trước khi cuối cùng cô vĩnh viễn nằm ở đây."
Gray thò tay ra và thấy bàn tay của ông cũng đã ở đó. "Cái hộ chiếu thứ ba... chìa khóa thứ ba."
Họ đang bị bức bách về thời gian.
Gray kéo tấm lụa ra khỏi chỗ hài cốt.
Vigor hét lên rồi lui lại.
Ngay cả Gray cũng ngạc nhiên, lạnh cả người.
Không chỉ có một cái xác nằm dưới tấm lụa.
Hai bộ xương nằm bên trong ngôi mộ, trong vòng tay của nhau.
Gray nhớ lại câu chuyện của Vigor về nhà thờ San Lorenzo, nơi Marco được an táng năm 1324, nhưng cuộc khai quật về sau đó cho thấy cái xác đã biến mất.
"Như vậy không phải chúng ta đã tìm thấy không chỉ là mộ của Kokejin mà của cả Marco Polo." Cả hai đều nói.
Gray nhìn chăm chú vào cặp tình nhân đang trong vòng tay của nhau.
Điều họ không đạt được trong cuộc đời cuối cùng đã có sau cái chết.
Cùng bên nhau.
Mãi mãi.
Gray phân vân không biết anh có bao giờ tìm được một tình yêu vĩ đại như vậy không. Nó làm anh nhớ đến bố mẹ anh, đã cùng nhau trải qua biết bao nhiêu khó khăn, thử thách và bây giờ đang bị bắt cóc...nhưng họ không bao giờ từ bỏ nhau.
Một ai đó phải cứu họ.
*
* *
11 giờ 1 phút sáng
Washington DC
Painter ước ao mình có mặt lúc đó nhưng sẽ chỉ làm chậm nhóm phản ứng. Từ trụ sở thông tin của Sigma, ông nhìn đoạn băng video thu trực tiếp gửi về. Nó được phát ra từ một trong những chiếc camera đặt trong mũ chụp của các nhóm đặc nhiệm.
Mười phút trước đây, họ đã có giây phút nghỉ ngơi
thực sự.
Suốt buổi sáng, ông đã chạy đi chạy lại để lần theo dấu vết của tất cả các cuộc gọi từ ngài linh mục Verona về bờ biển nước Mỹ. Gray đã nói là Amen Nasser gọi vào máy của ngài Vigor. Để lần theo cuộc gọi đó, Painter đã phải khua cả Vatican cũng như Bộ An ninh quốc nội. Cuối cùng khi Seichan tham gia vào nhóm, ông có thể sử dụng con bài khủng bố quốc tế. Trước đó, hầu hết các cửa thường
đóng lại.
Tuy nhiên, phải mất thời gian lâu hơn ông tưởng, nhưng Painter biết từ nơi nào cuộc gọi xuất phát. Một nhóm hành động đã chờ lệnh của ông để xuất phát.
Ông nói vào micro. "Xuất phát!"
Cánh cửa xe mở ra. Đường dẫn chiếc camera kích hoạt. Nhóm áp gần tới từ các hướng, trước và sau, đi chậm, súng trường lăm lăm trong tay.
Tốp xung kích lao vào tòa nhà như một cơn bão.
Một cú đập mạnh vào cửa trước. Tín hiệu biến mất khi người quay phim theo chân những người khác vào trong tòa nhà. Cả nhóm tỏa ra.
Painter chờ đợi.
Không thể ngồi lâu hơn được nữa, ông đứng dậy, đặt tay lên mép bàn. Các nhân viên kỹ thuật đứng túm tụm xung quanh, nhìn lên các màn hình trong khi hình ảnh từ vệ tinh đưa xuống từ Indonesia. Một trận bão lớn với sức gió cấp cuồng phong đã bao phủ hầu hết khu vực này, ngăn cản việc tìm kiếm con tàu Người con gái của biển cả. Cơn bão cũng làm nhiều máy bay tìm kiếm từ Australia và Indonesia không thể cất cánh được.
Việc chậm tiến độ càng làm ông sốt ruột. Mối lo ngại cho tính mạng của Lisa và Monk trong ông cứ tăng dần.
Rồi cú theo dõi cuộc gọi.
Ông cần phải thắng.
Ít nhất là ở đây.
Qua tai nghe, ông nghe thấy tiếng trao đổi của nhóm hành động, báo cáo đan xen cùng các cuộc gọi ra ngoài. Cuối cùng, một giọng nói rõ ràng vang lên, đến từ người quay phim. Anh ta dừng lại trước một cái giống như móc treo thịt. Những chiếc móc treo xuống từ trần.
"Giám đốc Crowe, chúng tôi đã hoàn tất việc lục soát cửa hàng bán thịt. Chúng tôi không phát hiện được mục tiêu. Khu vực này không có ai cả."
Hình ảnh trên màn hình nhằng nhịt khi người quay cúi xuống - rồi đứng thẳng, giơ ngón tay lên khuôn hình.
Những ngón tay ướt đẫm.
"Thưa ngài, chúng tôi thấy có vết máu."
Ồ, không...
Một kỹ thuật viên liếc nhìn ông, nói điều gì đó mà anh ta nhận xét qua thái độ của Painter, rồi nhanh chóng quay lại.
Một giọng nói cắt ngang nỗi tuyệt vọng của ông, đến từ phía cửa.
"Giám đốc Crowe.."
Một phụ nữ đứng trên bục cửa, mặc bộ quần áo xanh hải quân. Mái tóc hạt dẻ của cô buộc túm lại, khuôn mặt ánh lên vẻ lo lắng và buồn phiền. Ông hiểu vẻ băn khoăn trong đôi mắt của cô.
"Kat..." ông nói, ngồi thẳng dậy. Đó là vợ của Monk.
"Dì tôi đang trông Penelope. Tôi không thể chỉ ngồi ở nhà được nữa."
Ông hiểu và giơ một tay lên."Chúng tôi có thể cần sự giúp đỡ của cô."
Cô thở dài và gật đầu.
Đó là tất cả những gì họ có thể làm được.
Bằng bất cứ cách nào có thể.
*
* *
6 giờ 4 phút chiều
Vigor nhìn chăm chú vào hai bộ xương quắp chặt vào nhau.
Marco và Kokejin.
Sự phát hiện làm ông lạnh cả người trước ngôi mộ. Những người khác không đến nỗi xúc động như vậy, Seichan len vào giữa Gray và Vigor.
Cô chỉ một cánh tay." Chiếc hộ chiếu bằng vàng thứ ba."
Gray kéo chiếc khăn liệm sang một bên. Nằm gọn giữa hai bộ xương, bị lấp bởi hai ống xương cánh tay, một ánh vàng lóe qua những mẩu xương.
Đó là chiếc hộ chiếu thứ ba.
Và nằm bên cạnh là một cái ống đồng với chiều dài quen thuộc.
Bản viết thứ ba và cuối cùng.
Cũng với vẻ kính cẩn, Gray lấy ra những thứ đó. Anh cũng lấy ra cái vòng đầu trên chiếc sọ nữa. "Có thể có dấu vết gì chăng." Anh lý luận.
Vigor không tranh luận. Sau khi ngôi mộ đã được mở ra, nó sẽ nhanh chóng bị lấy cắp nếu không được trông nom.
Tất cả họ trèo trở lại điện thờ.
Lên đến trên, họ tụ tập ở một góc phòng. Gray lật cái hộ chiếu bằng vàng để lộ ra một ký tự angelic thứ ba.
"Như vậy chúng ta đã có tất cả rồi." Seichan nói.
"Nhưng không phải tất cả câu chuyện." Gray nói. Anh lấy ra cuốn sổ tay và gật đầu với Vigor. "Chúng ta hãy nghe xem nào."
Vigor chẳng cần đợi phải thúc giục gì thêm nữa. Ông bật nắp cái ống đồng và kéo ra miếng vải. "Lại là lụa rồi." Ông bình luận rồi thận trọng giở ra.
Mẩu chuyện cuối cùng dài hơn, dài tới khoảng một phần tư của nền điện thờ. Vigor dịch từ ngôn ngữ tiếng Ý địa phương của Marco. Câu chuyện tiếp tục bằng ngôn ngữ angelic kể về việc nhóm của Marco bị vây hãm trong một căn phòng trên tòa tháp.
Ông đọc to câu chuyện.
"Những bóng lạ đó giơ lên cao cái cốc lễ và bằng phương pháp rất rõ ràng và mạnh mẽ năn nỉ yêu cầu chúng tôi uống. Với cách thức như vậy, chúng tôi sẽ được bảo vệ khỏi bệnh dịch tai ác đã biến thành phố chết thành địa ngục khi người ta ăn thịt
đồng loại.
Với lời hứa như vậy, mỗi người chúng tôi đều nhấp một ngụm mà đến khi nhìn gần vào và nếm thì chính là máu. Chúng tôi cũng được thúc giục ăn một mẩu thịt sống đặt trên một cái lá cọ mà khi nhìn gần vào và nếm thì giống như một loại bánh mỳ ngọt. Chỉ sau khi đã tiêu thụ hết tôi mới nghĩ đến việc hỏi rõ nguồn gốc của sự ban tặng như vậy. Người lính của Khan trả lời; và như vậy chứng tỏ chính chúng tôi đã trở thành kẻ ăn thịt người bởi vì đó chính là máu và bánh mỳ ngọt lọc ra từ một người
đàn ông.
Vậy là chúng tôi đã được đối xử với cách thức tồi tệ như vậy mà sau này lại là đạo đức vì nó đã thực sự bảo vệ chúng tôi khỏi cơn đại dịch lớn. Nhưng cũng phải trả giá cho việc chữa bệnh. Friar Agreer không được phép tham gia vào uống máu và ăn bánh mỳ ngọt. Có nhiều tiếng xầm xì, chỉ vào cây thập tự và người đàn ông đeo nó. Cuối cùng, chúng tôi được phép rời nếu chúng tôi để Friar Agreer lại.
Với vẻ mặt rất thánh thiện, Friar Agreer khăng khăng yêu cầu chúng tôi trốn đi. Tôi khóc rất nhiều nhưng vẫn phải tuân lệnh người. Với lời nói cuối cùng, người đưa cho tôi cây thánh giá để trả lại nó cho Giáo hoàng. Hình ảnh cuối cùng của con người cao thượng đó là cảnh người bị dẫn đi về hướng ngược lại; và tôi đoán được điểm đến của họ. Một ngọn núi vĩ đại sừng sững nhìn xuống khu rừng, được chiếu sáng bởi ánh trăng tròn vành vạnh và cũng là nơi ẩn náu của hàng nghìn khuôn mặt ma quỷ."
"Lạy Chúa." Vigor lẩm bẩm.
Ông chậm rãi đọc văn bản.
Sau khi thoát ra khỏi thành phố, Marco Polo đã kể lại cảnh bệnh dịch đã hoành hành ở hạm thuyền của ông như thế nào, việc những con thuyền và thủy thủ bị kẹt ở một hòn đảo hoang vắng. Chỉ có những người uống thuốc do những người có bóng hình ánh sáng ban cho mới thoát không nhiễm bệnh. Marco đã rời thành phố chết với đủ thuốc bổ sung để chữa cho bố và bác mình cùng Kokejin và hai người hầu gái. Họ đành phải đốt những chiếc thuyền và xác của những người chết, nhiều người trong đó vẫn còn sống.
Vigor đọc đoạn cuối cùng.
"Xin Chúa tha tội cho linh hồn tôi vì đã bất kính không thực hiện lời hứa với cha tôi, giờ đã yên nghỉ. Tôi phải thú tội lần cuối cùng. Tại nơi địa ngục đó, tôi đã phát hiện ra một cái bản đồ của thành phố, một cái sơ đồ tôi đã phá hủy theo ý nguyện của bố tôi, nhưng tôi quyết sẽ không quên. Tôi đã ghi lại nó ở đây lần nữa để giữ lại kiến thức này khỏi bị vĩnh viễn mất đi. Xin ai đó đọc nó cần phải nhớ: Con đường tới địa ngục đã mở ở thị trấn ấy, nhưng tôi biết nó vẫn luôn luôn đóng."
6 giờ 22 phút chiều
Khi Gray lắng nghe câu chuyện và phần kết thúc khó hiểu của nó, anh lại tìm cách giải mã câu đố trong cuốn sổ tay của mình. Nó giúp anh tập trung lắng nghe Vigor trong khi cân nhắc bí mật trong tay. Nó đã làm anh bớt lo lắng nỗi sợ hãi vẫn đang ngự trị trong đầu.
Và khi câu chuyện khép lại, anh bắt đầu hiểu.
Mình quả là một thằng ngu.
Anh nghiên cứu cuốn sổ tay, dụi mắt, nhìn thấy câu trả lời được giấu trong mã. Và cùng với ba chiếc chìa khóa, có lẽ đây là cách để đọc nó.
Anh lật từng trang sổ, tìm ra trang đúng. Khi tìm thấy nó, anh cúi sát hơn, dùng ngón tay để lần ra. Liệu có đúng không nhỉ? Anh cần phải điều tra thêm.
Gray nhìn lại đồng hồ.
Với hơn một tiếng đồng hồ nữa còn lại, liệu mình còn đủ thời gian không?
Trước khi anh có thể tìm ra, tiếng súng trường tự động nổ chát chúa vọng đến nghe như tiếng pháo nổ. Bùm, bùm,bùm...
Gray nhảy bật lên.
Lạy Chúa, ồ không, liệu Nasser đã tìm ra họ rồi chăng?
Anh đi ngang qua lối ra khỏi điện thờ rồi bước vào gian sảnh tối om.
"Hãy tập họp mọi thứ lại với nhau." Anh thúc giục mọi người không hề ngoái đầu lại. "Ngay bây giờ!"
Nhờ ánh sáng mặt trời le lói phía sau, Gray nhận ra một bóng người bé nhỏ chạy về phía mình. Những bước chân trần trên nền đá-rồi một tiếng nói cất lên, cân bằng giữa sự khẩn thiết và trốn tránh.
"Nhanh lên."
Đó là Fee'az. Cậu bé không chậm chạp, chạy thẳng về phía họ.
Gray túm lấy vai cậu bé khi nó lao đến, thở không
ra hơi.
"Nhanh lên, tụi buôn lậu!"
Fee’az không chờ nữa, cậu quay trở lại sảnh bên ngoài rồi đi về hướng đối diện, dọc theo phía sau của lâu đài.
Gray quay lại phía những người khác. "Hãy vơ lấy những gì có thể... bỏ những thứ còn lại!"
Họ lao theo Fee’az.
Đứa bé chờ họ ở giữa gian sảnh rồi lủi về phía trước.
Cậu ta tiếp tục kể câu chuyện. Rõ ràng là dù có mối đe dọa từ bọn buôn lậu nhưng lưỡi cậu ta vẫn không yên. "Các ngài đi lâu quá. Lễ cầu nguyện ấy. Cháu ngủ. Dưới bóng những cây cọ." Cậu vẫy tay về phía cái sân trong. "Chúng không nhìn thấy cháu. Gần như ở trước mặt. Cháu tỉnh dậy rồi chạy biến. Chúng bắn nhưng may mà cháu chạy nhanh..."
Như để chứng minh, cậu bé lao vèo qua phòng sau và gian sảnh.
Đằng sau họ, những tiếng kêu vang lên, cho thấy tụi chúng đã vào tới lâu đài.
Fee’az dẫn họ tới cầu thang thô sơ đi xuống phía dưới. "Đi lối này!"
Họ tới một cái hầm hẹp và thấp, chỉ cao hơn lối để bò một tí. Nó dẫn về phía nam. Cậu bé vội vã lao lên phía trước.
Chừng khoảng năm mươi bước, bỗng dừng lại ở một cái lò cũ bằng sắt gỉ nhèm. Những thanh sắt đã bị người ta cưa đi từ lâu. Họ đạp mạnh đi trên cái hào đầy bùn đất. Những bức tường đá đổ gục làm nên đường phân cách.
Gray liếc nhìn lại phía sau. Đoạn này chắc phải là đường thoát nước cổ xưa của lâu đài.
Vẫy mọi người cúi thấp xuống, Fee’az dẫn họ đi men theo hào về phía cái vịnh phía đông. Những tiếng la hét vẫn vọng lại từ lâu đài. Tụi buôn lậu chắc chưa biết được những con chuột đã chạy trốn.
Đến bờ nước, Gray nhìn thấy chiếc máy bay vẫn đang chờ ở đó, chưa bị đụng gì tới.
Fee’az giải thích: "Tụi buôn lậu không bao giờ ăn cắp máy bay mà chúng chỉ tìm cách lấy những thứ vặt vãnh thôi." Cậu ra hiệu bằng cách xòe các ngón tay ra rồi nhún vai. "Thỉnh thoảng chúng cũng giết người, ném xác xuống cho cá mập. Nhưng chúng không lấy những thứ gì lớn. Chính phủ sẽ đem máy bay và súng to tới."
Thật ra thì mối nguy hiểm cũng không lớn.
Tuy nhiên, để cẩn thận họ dùng mái chèo để khẽ khàng chèo chiếc xuồng tới chỗ chiếc thủy phi cơ. Fee’az vẫy chào khi mọi người lên khoang máy bay.
"Hãy quay lại đây nữa nhé." Cậu bé nói rồi bắt tay mọi người.
Gray cảm thấy cần phải tặng cậu bé cái gì đó sau khi nó đã giúp họ vượt qua hiểm nguy. Ạnh vớ lấy cái ba lô, lục lọi bên trong rồi đưa cho cậu bé cái vòng đầu bằng vàng của công chúa.
Cặp mắt cậu bé sáng lên, cầm vật báu bằng cả hai tay rồi đẩy trả lại cho Gray" Cháu không thể nhận được."
Gray vẫn đưa cho bé. "Cháu chỉ cần hứa với ta một điều".
Cậu ngước nhìn anh.
"Có hai cái xác, chính xác hơn là hai bộ xương trong lâu đài. Dưới căn phòng thập ác." Anh chỉ về phía lâu đài, rồi lại về phía những ngọn đồi xa. "Hãy đem các bộ xương đó đi, đào một một cái hố sâu rồi chôn họ, cùng với nhau."
Cậu bé cười, không biết có phải là Gray đang nói đùa không.
"Cháu có hứa không?"
Cậu gật đầu. "Cháu sẽ rủ anh và bác cháu giúp đỡ."
Anh đặt cái vòng đầu vào cậu bé. "Cái này là của cháu."
"Cảm ơn chú." Cậu bắt tay Gray và với tất cả vẻ trịnh trọng của một lời ban phước. "Hãy trở lại nhé!"
Gray trèo lên máy bay.
Vài phút sau họ đã lên không trung, lao thẳng trên vùng vịnh rồi quay về hướng sân bay quốc tế.
Gray trở về phía ghế sau, ngồi cạnh Vigor.
"Anh đưa cái vòng của công chúa cho thằng bé?" Ngài linh mục hỏi, dõi theo cậu bé đang khuất xa dần.
"Để chôn Marco và Kokejin."
Vigor quay lại phía anh: "Nhưng những phát hiện như vậy - lịch sử..."
"Marco đã làm quá đủ cho lịch sử. Nguyện vọng cuối cùng của ông được chôn cất trong bình an bên cạnh người phụ nữ mình yêu. Tôi nghĩ chúng ta còn nợ ông ấy quá nhiều. Bên cạnh đó, chúng ta không cần cái vòng đầu."
Vigor nhìn anh chăm chú, một con mắt nheo lại, cố gắng phán xét anh cũng như sự hào phóng của anh.
"Nhưng anh đã nghĩ rằng vật ấy có thể chứa đựng một dấu vết gì. Vì thế anh đã lấy nó." Đôi mắt ông mở to và giọng cất lên. "Lạy trời, Gray, thực tế anh đã giải xong mã chữ angelic rồi."
Gray kéo cuốn sổ tay ra. "Không hoàn toàn. Hầu hết."
"Thế nào?"
Seichan nghe lỏm câu chuyện của họ rồi quay lại nhập bọn, len vào giữa. Kowalski quay lại, nhô đầu về phía ghế sau.
Gray trả lời vị minh mục."Tôi đã 3bf9 giải mã bằng cách vứt bỏ những giả thuyết cũ của chúng ta. Chúng ta vẫn tìm một mã có một từ thay thế."
"Giống như ký tự ở Vatican đọc là HAGIA"
"Tôi nghĩ cái đó đưa ra nhằm tung hỏa mù. Bí mật lớn ở mẫu đá không phải là câu đố thay từ."
"Hãy chỉ cho chúng tôi." Seichan nói.
"Trong một thời khắc." Gray nhìn đồng hồ. Tám phút trôi qua. "Tôi vẫn còn một phần của câu đố chưa nghĩ ra.
Ba cái chìa khóa. Chìa khóa được sắp xếp theo một trật tự nhất định."
Anh mở máy tính cá nhân rồi gõ ba ký tự angelic.
Gray tiếp tục: "Với cái mã ở mẫu đá luôn ở phía ánh sáng, những chìa khóa này chỉ phục vụ một mục đích. Tiết lộ cách đúng để đọc được mã. Cái mẫu đá có bốn mặt. Nhưng các vị bắt đầu từ mặt nào? Theo hướng nào?"
Anh lại mở cuốn sổ tay rồi tìm ra trang giấy văn bản gốc mà Seichan đưa cho. "Những ký tự khắc bằng vàng là rất quan trọng, chúng phải được viết ở đâu đó trong mẫu đá. Vậy chúng là..."
Gray khoanh tròn chúng.
"Theo trình tự này chỉ xuất hiện một lần. Nó độc đáo. Hãy để ý cách nó dẫn một mặt của mẫu đá sang cái tiếp theo. Nó sẽ định ra nơi bắt đầu đọc và theo hướng nào."
Anh bổ sung thêm một mũi tên.
"Vậy các vị phải lập lại trật tự của trình tự này để phù hợp với các chìa khóa." Anh lại lật các trang giấy trong cuốn sổ tay, tìm kiếm qua tám điều khác biệt mà anh và Vigor đã nêu ra trước đó. Anh tìm thấy cái cần tìm rồi khoanh vòng các ký tự gốc." Đây là cách thích hợp mà bản đồ phải được trải ra để đọc chính xác."
Seichan cúi sát hơn. "Anh đang nói đến bản đồ nào?"
"Đó là cái tôi để ý lúc ở điện thờ." Anh nói. "Hãy xem."
Anh lấy ra một cái bút chì rồi xuyên những lỗ qua trang giấy và đánh dấu vào trang trắng tiếp theo.
"Anh đang làm gì vậy?" Vigor hỏi.
Gray giải thích. "Hãy chú ý một vài dấu phụ - những khoanh tròn nhỏ trong văn bản angelic - sẫm đi trong khi những cái khác lại không. Chúng ta biết được từ chiếc chìa khóa thứ hai là tại sao các dấu phụ màu đen kết thúc đánh dấu lâu đài Bồ Đào Nha. Vậy những vòng tròn đen sẫm ở mẫu đá cũng sẽ là vật đánh dấu. Nhưng để đánh dấu cái gì? Song nếu lấy ra những vòng tròn màu đen vào một trang giấy trắng, loại đi tất cả những cái khác, ta sẽ có cái này."
"Đúng là chắc." Kowalski nói, giọng châm biếm.
Gray xoa tay lên cằm, tập trung. "Có một điều gì đó ở đây. Tôi có thể cảm nhận được."
"Có lẽ anh cần phải nối các vạch chấm với nhau." Kowalski nói, tiếp tục châm biếm. "Có khi nó lại hình thành một mũi tên đánh vần là chơi ở đây."
Seichan cau mày: "Này tốt nhất là anh nên ngậm
miệng lại."
Gray không cần sự can thiệp của họ. Không phải bây giờ. Kowalski là một tay lái xe cừ khôi, thiện chiến trong các cuộc đấu súng, nhưng Gray cần những lời khuyên trí tuệ, không phải kiểu trẻ con giống như nối các chấm.
Rồi anh nhận ra.
"Ôi, lạy Chúa!" Gray ngồi dậy, cầm cái bút chì nắm chặt hơn. "Kowlski nói đúng đấy!"
"Tôi à?"
"Anh ta à?" Seichan đáp
Gray quay lại chỗ Vigor, nắm lấy khuỷu tay ông. "Dấu vết đầu tiên là ở tháp Nghinh phong."
Vigor nhíu mày rồi tròn xoe mắt. "Cái đó chứa tháp thiên văn của Vatican, nơi Galileo đã chứng mình trái đất quay xung quanh mặt trời!" Vigor đập vào các văn bản. "Đấy là những ngôi sao!"
Gray cầm lấy bút chì. Anh đang nhìn chăm chú vào tờ giấy và nhận ra biểu mẫu thông thường. "Đây là sao chổi." Anh vẽ vào tờ giấy.
Vigor cũng nhận ra. " Đó là sao chổi Draco, con rồng."
Seichan thò đầu ra khi cô nhìn xuống. "Có phải ngài nói rằng đó là bản đồ định vị sao không?"
"Nó trông giống vậy." Gray lấy cái tẩy bút chì gãi lên đầu. "Nhưng làm sao mà một chùm sao lại nói với chúng ta phải đi đến chỗ nào?"
Không ai trả lời.
"Nó không thể." Cuối cùng anh thừa nhận.
Tim anh lại đập mạnh hơn. Họ đang mất gần hết thời gian. Anh đã dẫn họ vào con đường sai lầm?
Vigor ngồi dậy. "Chờ chút." Ông lẩm bẩm. "Hãy nhớ câu chuyện của Marco. Văn bản cuối cùng. Ông ta nói ông vẽ
cái bản đồ của thành phố chứ không phải bản đồ đến
thành phố"
"Và?" Gray hỏi.
Vigor cầm lấy tờ giấy, xoay tròn. "Cái đó không phải là những ngôi sao. Nó phải là sơ đồ của thành phố chết. Đấy là cái văn bản của Marco bắt đầu. Có thể Vatican cũng mắc sai sót tương tự như chúng ta. Họ hiểu nhầm bản đồ của Marco theo phương thức như vậy. Họ cũng nghĩ đây là bản đồ định vị theo sao."
Gray lắc đầu. "Có sự trùng hợp tình cờ, một thành phố lại có sơ đồ giống hệt như mẫu của sao chổi Draco. Nếu như tôi không nhầm, thậm chí các ngôi sao bên ngoài đường ranh giới Dragon cũng đánh dấu sự sắp xếp của những ngôi sao thật sự."
Vigor gật đầu. "Nhưng hãy nhớ là trong nghiên cứu của tôi về những nền văn minh cổ đại từ thời Ai Cập đến Mesoamerica, nhiều nền văn mình đã xây dựng những tượng đài và thành phố theo kiểu ngôi sao, làm để bắt chước chúng."
Gray nhớ đến một bài học tương tự: "Giống như những kim tự tháp ở Ai Cập được coi là đại diện cho những ngôi sao trên đai Orion."
"Chính xác! Ở nơi nào đó tại Đông Nam Á có một thành phố lấy mẫu theo sao chổi Draco."
Seichan đột nhiên vùng dậy. "Đúng rồi!" Cô thốt lên. "Tôi nhớ một điều... điều tôi nghe nói... có những phế tích ở Cambodia. Gia đình tôi có gốc gác ở khu vực ấy. Việt Nam và Cambodia."
Seichen vội đến chỗ đồ của cô, lục lọi rồi lấy ra chiếc laptop. "Trong này có cuốn Bách khoa toàn thư."
Seichan ngồi xuống giữa đầu gối Vigor và Gray. Cô gõ tên chương trình rồi đánh rất nhanh, nhấn đúp và một bản đồ số hiện lên trên màn hình.
"Đây là tổ hợp đền đài Angko, do người dân Khơ Me trên đất Cambodia xây dựng từ thế kỷ thứ IX."
"Hãy chú ý cách bố trí của ngôi đền." Seichan nói. "Nơi cái đền được xây. Tôi đã được nghe câu chuyện về những phế tích được sắp xếp theo vòng ngôi sao."
Với một ngón tay Gray vẽ đường nối các đền theo một phương thức và gõ những đền còn lại. Anh giơ lên bản đồ sao đầu tiên và đặt nó cạnh máy tính đang mở.
"Nó giống nhau như một." Vigor nói, băn khoăn. "Thành phố Chết của Marco, chính là thành phố cổ xưa Angkor Wat."
Gray cúi xuống ôm lấy vai Seichan. Cô thấy căng thẳng nhưng không lui lại. Gray thấy mình nợ mỗi người một chút, ngay cả Kowalski, quan điểm tưởng chừng giản đơn của cậu ta đã phá vỡ được bế tắc, đi đến giải pháp.
Gray xem đồng hồ.
Không còn phút nào rảnh nữa.
Anh giơ tay về phía Vigor. "Máy điện thoại của ngài. Giờ đã đến lúc phải mặc cả."
Vigor chuyển cho anh máy điện thoại và cục pin.
Anh lắp cục pin vào, cầu mong may mắn. Anh gọi vào số của Nasser, do Seichan cung cấp. Vigor tiến tới nắm tay anh như biểu lộ sự ủng hộ.
Máy điện thoại reo một hồi và được trả lời.
"Chỉ huy Pierce." Một giọng lạnh tanh và giận dữ.
Gray thở lấy hơi, cố kiềm chế. Anh cần phải vững vàng và bình tĩnh.
"Máy bay của tôi sắp hạ cánh" Nasser tiếp tục, không thèm chờ khẳng định. "Vì sự phản bội của mày, tao sẽ cho mày lựa chọn ai trong số bố mẹ mày sẽ chết trước, mẹ hay bố. Tao sẽ cho mày nghe tiếng la hét của họ. Tao hứa là người đó sẽ là kẻ may mắn hơn đấy."
Mặc lời đe dọa của gã, Gray vẫn bình tĩnh. Nếu như Nasser không nói dối thì cả bố mẹ anh vẫn còn sống.
Lấy được sự tự tin ở điều đó, Gray cố nói giọng bình tĩnh, mặc dù quai hàm anh bạnh ra do kiềm chế. "Tao đề nghị đổi tính mạng của họ."
"Mày chẳng có gì để đổi cả." Nasser đáp lại.
"Ngay cả nếu như tao nói với mày là tao đã giải được câu đố trên mẫu đá?"
Không gian im lặng trả lời hắn.
Gray tiếp tục: "Nasser, tao biết thành phố chết của Marco nằm ở đâu."
E rằng ngay cả điều này cũng chưa đủ để lung lạc tên khốn kiếp, Gray nói những từ tiếp theo chậm rãi để không có sự hiểu nhầm. "Và tao biết cách chữa trị loại vi rút chủng Juda."
Vigor quay lại phía anh, kinh ngạc.
Im lặng tiếp tục trên điện thoại.
Gray chờ đợi. Anh nhìn vào bản đồ Angkor Wat trên máy tính. Anh có cảm giác hai cánh của cuộc hành quân của Hiệp hội - một theo đường khoa học, còn đường kia theo lịch sử - sắp chập với nhau.
Nhưng ai sẽ bị đập tan giữa hai cái đó?
Cuối cùng Nasser trả lời, giọng của hắn run lên vì giận dữ.
"Thế mày muốn gì?"