Trên Biển Khơi Dưới Đá Thẳm Chương 3


Chương 3
Thật là một nơi tuyệt vời.

Simon nín thở nhô đầu qua cửa hầm đúng lúc Barney kêu lên: "A... a..." và hắt xì hơi ầm ĩ. Bụi bốc lên mù mịt còn cái thang thì rung lên bần bật.

"Khiếp," Barney vùng vằng nói vọng từ bên dưới trong lúc quay mặt tránh đôi chân Simon đang rút lên.

Nước mắt chảy ràn rụa, Simon mở mắt ra và chớp chớp. Trước mắt và xung quanh nó là một căn gác xép rộng thênh thang, có bề dài và bề rộng bằng kích thước cả ngôi nhà, với hai cửa sổ đầy bụi bặm gắn vào mái nhà nghiêng dốc đổ. Trong gác xép lộn xộn hàng đống những đồ vật kỳ diệu nhất mà nó đã từng được thấy.

Hộp, rương, hòm, tủ nằm bừa bộn khắp nơi, xen kẽ giữa những thứ đó là hàng đống vải bạt màu xám bẩn thỉu, các cuộn dây thừng bện thô sợi; những chồng báo và tạp chí qua thời gian đã ngả sang màu nâu vàng; một khung giường bằng đồng và một cái đồng hồ quả lắc bị mất mặt ngoài. Nhìn kĩ hơn, Simon còn thấy những thứ lặt vặt hơn: một cái cần câu cá gãy; một chiếc mũ rơm nằm chễm trệ trên góc một bức tranh sơn dầu để lâu ngày, giờ chỉ còn là một khối đen nhờ nhờ; một cái bẫy chuột trống trơn; một con tàu nhỏ trong một cái chai; một cái hòm có mặt ngoài bằng thủy tinh chứa đầy những viên đá nhỏ; một đôi ủng cao đến đùi ngả thõng thượt sang một bên cứ như thể đang mệt mỏi lắm, và một vài cái ca uống nước méo mó bằng thiếc.

"Úi chà !" Simon thốt lên.

Nghe thấy tiếng léo nhéo cự nự ở phía dưới, nó đu lên qua khung cửa, lăn người sang một bên để mở đường cho Jane và Barney. Hai đứa lồm cồm trèo lên theo.

"Anh Simon!" Jane kinh hãi nhìn nó. "Anh bẩn thế!"

"Hừ, thật đúng là đồ con gái. Xung quanh chỗ này mày không thấy chỉ toàn bụi thôi hay sao. Để tao phủi đi là xong." Nó đập đập vào chiếc áo bẩn nhem nhuốc đang mặc nhưng chẳng ăn thua gì. "Nhưng ở đây tuyệt vời đấy chứ? Nhìn mà xem."

Barney, vừa ngạc nhiên vừa sung sướng, đang dò dẫm bước qua sàn nhà bề bộn. "Có bánh lái của một con tàu cũ này... một cái ghế bập bênh này... và cả một cái yên ngựa nữa. Không biết ông thuyền trưởng có bao giờ cưỡi ngựa không nhỉ?"

Jane từ nãy vẫn cố làm ra vẻ hờn dỗi nhưng không thành công. "Thế này mới giống là đang đi thám hiểm chứ nhỉ. Biết đâu mình lại tìm thấy cái gì ở đây cũng nên."

"Đúng là một kho báu. Đây chính là cái mà bọn thổ dân đang thèm khát. Nghe tiếng gào thét phẫn nộ ở dưới kia mà xem."

"Chúng đang nhảy quanh đống lửa còn lão thầy mo thì đang nguyền rủa bọn mình."

"Thế thì, cứ kệ cho lão ta tha hồ mà nguyền rủa," Barney vui vẻ nói. "Chúng mình có đủ dự trữ thức ăn cho bao nhiêu lâu ấy chứ. Em đói rồi."

"Không, làm sao mà em đã đói được. Mới có bốn giờ thôi."

"Đến giờ bữa trà rồi còn gì. Khi đang chạy trốn thì người ta ăn ít, nhưng thành nhiều bữa vì người ta không đời nào dám dừng lại quá lâu. Nếu bọn mình là người Eskimo biết đâu mình đã gặm dây giày rồi đấy. Trong sách em đọc nói là... "

"Thôi quên mấy quyển sách của mày đi," Simon vừa nói vừa thọc tay vào balô. "Đây, cầm lấy quả táo này rồi im mồm đi. Tao muốn xem xét mọi thứ cẩn thận trước khi chúng ta nghỉ ngơi ăn uống, mà tao đợi được thì mày cũng phải đợi được chứ."

"Em chịu chẳng hiểu tại sao phải thế," Barney trả lời, nhưng nó vui vẻ cắn một miếng táo và đi loanh quanh trong căn phòng, biến mất phía sau đám khung giường bằng đồng cũ kĩ và một cái chạn bát trống ngoác.

Suốt nửa tiếng đồng hồ, mấy đứa trẻ lục lọi trong chốn mơ sung sướng đầy bụi bặm những thứ phế liệu, những đồ đạc và đồ trang trí đã sứt mẻ. Cứ như đang được đọc truyện về cuộc đời ai đó vậy, Jane nghĩ bụng khi em ngắm nhìn cái cột buồm nhỏ như que diêm của chiếc thuyền buồm bất động trong cái chai thủy tinh màu xanh. Tất cả những vật này đều đã từng được sử dụng, đã từng là một phần trong đời sống hàng ngày ở ngôi nhà dưới kia. Ai đó đã từng ngủ trên chiếc giường này, hồi hộp theo dõi kim đồng hồ nhích từng phút một, và mỗi buổi sáng lại hào hứng đón lấy từng quyển tạp chí được đưa đến. Nhưng tất cả những con người ấy đã chết từ lâu hoặc đã đi rất xa rồi và giờ đây mọi đầu thừa đuôi thẹo trong cuộc đời của họ chất đống ở nơi này, trong quên lãng. Tự dưng Jane cảm thấy buồn buồn.

"Em đói quá rồi," Barney than vãn.

"Chị khát quá. Chỉ toàn thấy bụi là bụi. Thôi, lấy trà của bà Palk ra đi."

"Căn gác này chán chết," Simon nói, vừa ngồi bệt xuống mép một bức tranh sơn dầu đã rạn và cởi balô. "Tất cả những cái hòm có vẻ hay ho nhất thì lại bị khóa mất rồi. Nhìn cái kia chẳng hạn." Nó hất đầu về phía một cái hòm kim loại màu đen, có hai ổ khóa han gỉ ở trên nắp. "Tao cá là đầy những đồ quý giá của gia đình này."

"Ôi, biết làm sao được," Jane tiếc rẻ. "Bọn mình không được động vào cái gì đã bị khóa mà, phải không?"

"Khối thứ có bị khóa đâu," Simon nói, đưa cho em chai nước chanh. "Cầm lấy. Phải tu đấy vì bọn mình quên mang cốc rồi. Đừng có lo, bọn mình sẽ không ăn trộm gì đâu. Mặc dù tao không nghĩ là bao lâu nay đã có ai thèm ngó lên đây."

"Thức ăn cơ," Barney nói.

"Mấy cái bánh nướng ở trong túi kia. Tự lấy mà ăn. Mỗi người bốn cái, tao đếm rồi đấy."

Barney thò bàn tay lấm lem ra lấy bánh.

"Barney!" Jane ré lên. "Lau tay đi! Em sẽ ăn toàn vi trùng và rồi sẽ mắc bệnh thương hàn hay là - hay là bệnh dại hoặc đại loại thế. Đây này, dùng khăn của chị mà lau."

"Bệnh dại là do chó dại chứ," Barney nói, khoái chí nhìn vết ngón tay đen sì trên chiếc bánh. "Ôi dào, bố nói là mọi người cứ hay nhặng xị thái quá về mấy con vi trùng. Ôi, thôi được rồi, chị đừng có vẫy vẫy cái thứ dở hơi ấy trước mặt em nữa, em cũng có khăn tay sạch chán. Không biết là con gái có bao giờ xì mũi không nữa."

Barney bực dọc thọc tay kia vào túi quần, và đột nhiên, mặt nó nhăn lại ghê tởm. "Eo ôi, khiếp!" nó kêu lên và rút ra một lõi táo màu nâu đã dập nát. "Quên mất. Kinh quá!" Nó ném cái lõi vào tận góc xa của căn gác xép. Cái lõi nảy lên, trượt đi và lăn vào bóng tối.

Simon cười ranh mãnh. "Bây giờ thì mày sẽ lôi lũ chuột ra đây mất thôi. Gác xép nào mà chẳng đầy chuột. Bọn mình sẽ nghe thấy những tiếng chít chít lí nhí tham ăn ấy, rồi thấy những đốm sáng xanh lè và khắp cả sàn nhà sẽ toàn chuột là chuột. Trước tiên, lũ chúng nó sẽ ăn lõi táo, rồi sau đó sẽ bám theo bọn mình."

Mặt Jane tái mét. " Không, chắc sẽ không có chuột trên đây chứ, phải không?"

"Nếu có thì chúng đã gặm đống báo kia rồi," Barney nói vẻ hy vọng. "Đúng không?"

"Tao đoán là chúng không thích mực. Căn nhà cũ nào mà chẳng đầy chuột. Ở trường cũng có chuột, thỉnh thoảng lại nghe thấy tiếng chúng đuổi nhau trên mái. Giờ nhớ lại thì mắt chúng không xanh mà là màu đỏ quạch." Giọng của Simon dần mất đi vẻ hứng khởi ban đầu. Chính nó cũng bắt đầu cảm thấy hơi mất vui vì câu chuyện về lũ chuột. "Tao nghĩ có lẽ mày nên nhặt cái lõi táo đó lên, nhỡ đâu..."

Barney thở dài đánh thượt một cái, đứng dậy, cắn hai phát hết cả cái bánh và trợn mắt lên nuốt gọn. "Nó đâu rồi nhỉ? Chắc chỉ quanh quẩn đâu đó thôi. Em không hiểu tại sao họ chẳng để cái gì ở góc này cả."

Nó bò lổm ngổm bằng tay và đầu gối trên sàn, không theo hướng nào rõ rệt. "Lại đây giúp em với. Em không tìm thấy." Rồi nó nhận ra có một lỗ hổng hình tam giác trên bức tường nghiêng của căn gác xép nơi các tấm ván tường tiếp xúc với mặt sàn. Nó ghé mắt nhìn vào và thấy những tia sáng ngày lờ mờ lọt qua khe ván. Ngay bên trong lỗ hổng là đầu mút của những tấm ván sàn và nó cảm thấy khoảng ánh sáng rộng mênh mông.

"Em nghĩ chắc nó lăn qua cái lỗ này," Barney gọi to. "Để em thử nhìn xem."

Jane băng qua sàn về phía nó. "Ôi cẩn thận nhé, có thể có chuột đấy."

"Không có đâu," Barney nói, khi đã chui được nửa chừng qua cái lỗ. "Có ánh sáng lọt qua khe ván nên em có thể nhìn thấy, đôi chút thôi. Chẳng thấy lõi táo đâu cả. Em nghĩ có khi nó đã kẹt xuống giữa khe ván sàn và bên dưới rồi. Oái!"

Barney bỗng giật hẫng một cái.

"Cái gì thế? Ra khỏi đây mau lên!" Jane kéo mạnh quần của Barney.

"Em chạm phải cái gì đó. Chắc không phải là chuột, vì nó không chuyển động. Nó lại biến đâu rồi... đây rồi! Sờ y như là miếng bìa các-tông. Eo ôi - cái lõi táo chết tiệt cũng ở ngay cạnh."

Giọng Barney đột nhiên nghe to hẳn lên khi nó lùi ra khỏi lỗ, mặt nó đỏ phừng, đôi mắt chớp chớp. "Đây rồi," nó nói, giơ cái lõi táo lên vẻ đắc thắng. "Bây giờ thì lũ chuột sẽ phải ra đây mà lấy. Em vẫn không tin là có chuột."

"Thế mày tìm thấy gì khác nữa vậy?" Simon tò mò nhìn cái vật cuộn tròn rách bươm trong tay kia của Barney.

"Em nghĩ là một mảnh giấy dán tường. Anh chị ăn hết chỗ bánh rồi à, đồ tham lam," Barney quay trở lại, ván sàn kêu lên cọt kẹt theo mỗi bước chân của nó. Nó ngồi xuống, lôi chiếc khăn tay ra, cố tình vẫy vẫy khăn trước mặt Jane rồi mới lau tay và bắt đầu nhai tóp tép một miếng bánh nữa. Trong lúc tất cả đang ăn, Barney với tay lấy cuộn giấy nó vừa tìm thấy và ngẫu nhiên trải ra, giẫm ngón chân lên một đầu còn tay thì cầm một que gỗ đẩy đầu kia ra xa cho đến khi cuộn giấy trải phẳng ra trước mặt chúng.

Thế rồi, khi nhận ra đó là vật gì, lũ trẻ bỗng nhiên quên phắt việc ăn bánh và trố mắt nhìn.

Vật mà Barney vừa trải ra không phải là giấy, mà là một tấm giấy da dày, màu nâu, dẻo dai như thép, với những vết rạn dài gồ lên ở những chỗ bị cuộn lại. Bên trong tấm giấy da có dán một tấm khác: sẫm hơn, trông có vẻ cũ hơn, đã rách mép và trên đó viết chi chít những chữ kỳ lạ màu nâu sẫm.

Bên dưới những dòng chữ, tấm da co lại, như thể bị cháy sém cách đây đã lâu lắm, thành những mảnh nhỏ chỉ còn dính hờ với nhau, được xếp lại cẩn thận như cũ và dán vào tấm giấy da bên ngoài. Nhưng chỉ ngần ấy cũng đủ cho bọn trẻ nhìn thấy ở phía dưới một hình vẽ đơn giản trông giống như đường viền của một bản đồ.

Cả bọn lặng im trong giây lát. Barney không nói gì, nhưng nó có thể cảm thấy một niềm háo hức kỳ lạ sôi sục trong lòng. Nó lẳng lặng cúi người về phía trước, cẩn thận vuốt lại bản viết cổ cho phẳng và đẩy que gỗ sang một bên.

"Này, để anh đi lấy cái gì đó đè lên mép," Simon nói.

Chúng đặt một cái chặn giấy cũ, một cái ca bằng thiếc và hai khúc gỗ đã được phủi bụi cẩn thận vào bốn góc của miếng da, rồi cùng ngồi xổm xuống nhìn.

"Trông nó cổ kinh khủng," Jane nói. "Đến hàng thế kỷ, hàng nghìn năm rồi ấy chứ."

"Giống như giấy tờ trong tủ kính ở viện bảo tàng, có màn che để ánh sáng không chiếu vào."

"Nó từ đâu ra nhỉ? Sao nó lại ở chỗ này?"

"Chắc là ai đó đã giấu nó ở đây."

"Nhưng nó có vẻ còn cổ hơn cả ngôi nhà ấy. Đấy, chỉ cần nhìn là biết, còn gì nữa, một số chữ gần như mờ hết cả."

"Người ta không chủ ý giấu nó đâu," Barney tự tin nói mặc dù chẳng biết tại sao. "Chắc là ai đó chỉ ném nó vào chỗ mà em vừa tìm thấy thôi."

Chợt Simon reo lên làm cả bọn giật nảy người theo. "Thật là tuyệt! Bọn mày có nhận thấy là mình đã kiếm được một tấm bản đồ kho báu chính hiệu không? Nó có thể dẫn chúng ta đến nơi nào đó, đến cái gì đó; những đường hầm bí mật, những hang động ngầm - kho báu ở Trewissick" - Simon uốn lưỡi nắn nót từng chữ một cách thích thú.

"Không thấy hình bản đồ mấy, toàn là chữ viết thôi."

"Ờ, thì đó là chỉ dẫn. Hãy tìm ở căn phòng nhỏ trên tầng hai, tao đoán là nó sẽ hướng dẫn như vậy, ở tấm ván sàn thứ hai trên, ờ, à, ý tao là, phía bên trái..."

"Khi họ thảo bản viết này thì vẫn chưa có sàn ván gỗ đâu."

"Thôi đi, không cổ đến mức đó đâu."

"Em cá là nó cổ lắm rồi," Barney thì thào. "Hãy nhìn chữ viết này mà xem. Không thể đọc được, toàn bằng ngôn ngữ gì rất kì cục."

"Dĩ nhiên mày sẽ đọc được nếu mà biết cách nhìn," Simon sốt ruột nói. Trong trí tưởng tượng nó đã thấy mình chui nửa người qua một tấm ván trượt, rồi mở tung cái nắp hòm ra để lộ cả một kho báu bí mật chưa ai biết tới. Nó gần như có thể nghe được cả tiếng những đồng tiền vàng kêu xủng xoảng.

"Thử nhìn xem nào." Nó nhoài người tới và nhìn chăm chú vào bản viết cổ, sàn nhà cứng và thô ráp dưới đầu gối nó. Yên lặng một hồi lâu. "Ồ," cuối cùng Simon miễn cưỡng thốt lên.

Barney không nói gì, nhưng nhìn Simon bằng ánh mắt cực kỳ diễn cảm.

"Thôi được rồi," Simon nói. "Không cần phải ra vẻ tự phụ thế đâu. Đây không phải là tiếng Anh. Nhưng như thế không có nghĩa là mình sẽ không có cách nào để đọc được."

"Tại sao lại không phải bằng tiếng Anh nhỉ?"

"Làm sao mà tao biết được."

"Ý em là," Barney nhẫn nại nói, "mình đang ở nước Anh, vậy thì có thể là tiếng gì khác chứ?"

"Tiếng Latinh," Jane bất ngờ nói. Từ nãy đến giờ em vẫn yên lặng nhìn bản viết cổ qua vai Simon.

"Tiếng Latinh ấy à?"

"Vâng. Tất cả các bản viết cổ đều viết bằng tiếng Latinh. Các thầy tu thường dùng lông ngỗng làm bút viết và vẽ chim, hoa hay hình ngoằn ngoèo nào đó quanh những chữ viết hoa."

"Làm gì có cái gì ngoằn ngoèo ở đây. Có vẻ như nó được viết khá là vội vã. Thậm chí tao còn chẳng thấy chữ hoa nào cả."

"Nhưng tại sao lại là tiếng Latinh chứ?" Barney hỏi lại.

"Chị không biết, các thầy tu toàn dùng ngôn ngữ đó, thế thôi, đó là một thói quen của họ. Chị đoán tiếng Latinh thì nghe có vẻ tôn giáo."

"A, anh Simon có học tiếng Latinh mà."

"Đúng rồi, anh Simon, dịch đi," Jane ranh mãnh giục. Ở trường em vẫn chưa bắt đầu học tiếng Latinh, nhưng Simon đã học được hai năm rồi và vẫn lấy thế để ra vẻ cao siêu lắm.

"Anh không nghĩ đây là tiếng Latinh," Simon phản bác. Nó nhìn lại bản viết cổ. "Chữ viết ở đây rất lạ, tất cả các chữ trông giống nhau. Cứ như nhiều đường kẻ thẳng nho nhỏ xếp thành hàng vậy. Ở đây cũng không được sáng lắm nữa."

"Anh chỉ có chống chế thôi."

"Không, không phải đâu. Thực sự là khó gớm mà."

"Ôi, nếu anh nhìn thế mà vẫn không nhận ra được đó là tiếng Latinh thì chắc anh cũng không giỏi được như anh nói đâu nhỉ."

"Cố nhìn một lần nữa xem sao," Barney động viên.

"Anh nghĩ nó gồm có hai phần," Simon chậm rãi nói. "Một đoạn ngắn ở phía trên, rồi cách ra một chút là rất nhiều đoạn liên tục nữa. Phần bên dưới anh không đọc được, nhưng đoạn đầu tiên thì trông giống tiếng Latinh thật. Chữ đầu tiên giống chữ cum có nghĩa là với, nhưng anh không luận được chữ đằng sau đó. Tiếp theo là chữ post multos annos, có nghĩa là sau nhiều năm. Nhưng chữ viết nhỏ và uốn éo quá, anh không - à, chờ một chút, có mấy cái tên ở dòng cuối cùng. Là Mar - à, không phải, Marco Arturoque."

"Nghe giống Marco Polo," Jane nói vẻ nghi ngờ, "Tên gì mà buồn cười."

"Không phải một, mà là hai tên. Que có nghĩa là , chỉ có điều họ viết xuống cuối cùng chứ không phải ở giữa. Còn chữ o ở cuối thì dùng để chỉ chúng tôi, như vậy nó nghĩa là bởi hay từ Marcus và Arturus."

"Bởi hay từ? Thật là... ơ, Barney! Em làm sao đấy?"

Barney, mặt đỏ bừng, mồm lắp bắp, đột nhiên đấm mạnh tay xuống nền, cố lấy hơi nói một câu gì đó nhưng lại bật thành một cơn ho dữ dội. Simon và Jane vỗ nhẹ vào lưng nó và đưa nước chanh cho nó uống.

"Marcus và Arturus," nó hít một hơi thật sâu và nói giọng khàn khàn. "Anh không nhận ra à, đó chính là Mark và Arthur đấy! Vua Authur và những hiệp sĩ của ngài. Mark là một trong những hiệp sĩ đó và ngài làm vua ở xứCornwall. Chắc chắn là viết về họ."

"Ôi trời ơi," Simon kêu lên. "Anh nghĩ Barney nói đúng."

"Chắc chắn là thế rồi. Em cá là vua Mark để lại một kho báu ở đâu đó và vì thế mới có tấm bản đồ này."

"Mình mà tìm thấy nó nhỉ."

"Mình sẽ trở nên giàu có."

"Mình sẽ trở nên nổi tiếng."

"Mình phải kể cho bố mẹ biết," Jane nói.

Hai đứa liền thôi không khoái trá đấm nhau thùm thụp nữa mà quay sang nhìn em.

"Để làm gì chứ?"

"Ơ..." Bị bất ngờ, Jane lúng búng. "Tại em nghĩ mình nên làm vậy thôi."

Barney ngồi xổm trở lại, cau mặt và luồn tay qua mái tóc vàng giờ nhìn đã sẫm màu hơn so với lúc bọn chúng mới trèo lên căn gác.

"Không biết là bố mẹ sẽ nói gì nhỉ?"

"Anh biết bố mẹ sẽ nói gì rồi," Simon nói ngay. "Bố mẹ sẽ nói rằng đó chỉ là tưởng tượng của bọn mình cả thôi, và rồi sẽ bảo bọn mình cất bản viết cổ này vào chỗ cũ vì nó không phải của bọn mình."

"Thì đúng là nó không phải của mình mà, đúng không?" Jane nói.

"Đây là đi tìm kho báu. Ai tìm thấy thì được giữ."

"Nhưng chúng ta tìm thấy nó trong nhà người khác. Nó thuộc về ông thuyền trưởng. Anh nhớ là mẹ đã dặn không được đụng vào bất cứ thứ gì cơ mà."

"Mẹ chỉ dặn là bất cứ thứ gì đã được cất đi thôi. Cái này có được cất đi đâu, nó bị vứt chỏng chơ ở một góc đấy chứ."

"Em phát hiện ra nó," Barney nói. "Nó bị bỏ quên và phủ toàn bụi bặm. Em cá là ông thuyền trưởng cũng không hề biết là nó ở đây đâu."

"Nói thật nhé, Jane," Simon nói. "Mày không thể tìm được một tấm bản đồ kho báu chỉ để kêu lên: 'Ôi, hay quá nhỉ,' rồi lại cất ngay đi được. Mà bố mẹ sẽ bắt bọn mình làm như vậy đấy."

 "Ừ thì," Jane nói giọng đầy nghi hoặc, "cứ cho là anh nói đúng đi. Sau này, lúc nào mình để lại vào chỗ cũ cũng được mà."

Barney lại nhìn vào bản viết cổ. "Này", Barney nói, "nhìn phần trên này xem, phần mà bản viết cổ được dính vào tấm giấy da ấy. Nó làm bằng gì nhỉ? Em tưởng nó bằng giấy da như bên ngoài, nhưng nhìn kĩ thì không phải, mà cũng không phải là giấy. Nó làm bằng chất gì lạ lắm, dày mà lại cứng như gỗ ấy."

Barney dè dặt chạm nhẹ một ngón tay vào mép của bề mặt màu nâu kỳ lạ đó.

"Cẩn thận," Jane lo lắng kêu lên. "Không khéo nó lại vỡ vụn ra hoặc làm sao đó ngay trước mắt chúng ta bây giờ."

"Thế mà mày lại vẫn muốn mang nó đi khoe mọi người đấy," Simon mỉa mai. " 'Nhìn xem này, xem chúng con đã tìm thấy cái gì này, thế chạm vào thì có làm sao không nhỉ?' rồi giơ ra khoe mọi người một bao diêm đầy bụi mủn."

Jane lặng thinh không nói gì.

 "Thôi không sao," Simon dịu giọng. Dù sao thì cô bé cũng có ý tốt. "Này, ở trên này tối mờ tối mịt rồi đấy, mấy đứa có nghĩ mình nên xuống không? Mọi người sẽ đi tìm bọn mình ngay bây giờ cho mà xem, mà mẹ chắc cũng đã vẽ xong rồi."

"Trời đang tối thật rồi." Jane nhìn quanh gác xép và đột nhiên rùng mình. Căn phòng rộng lớn đang tối dần, chỉ còn âm thanh ảm đạm của mưa tí tách gõ đều đều lên mặt kính.

Quay trở về phòng ngủ, cái tủ quần áo của hai anh em được kéo trở lại vị trí cũ để che đi cánh cửa nhỏ bí mật, lũ trẻ vội vã rửa ráy và thay đồ khi tiếng kêu lanh lảnh từng hồi ngắn ngủn của chiếc chuông tàu gọi mọi người xuống ăn bữa tối vọng lên trên gác. Simon cởi cái áo đầy bụi và vo vo cái sạch trước khi mặc lên người với hy vọng không ai nhận ra đó là một cái áo vừa mới thay. Nhưng còn mái tóc của Barney giờ đã biến thành màu nâu xám thì bọn trẻ chẳng biết phải làm thế nào. "Giống y như những lời mẹ tả cái thảm chùi chân trong phòng khách ở nhà vậy," Jane thất vọng nói, cố chải bụi trên tóc Barney trong khi thằng em trai thì vặn vẹo người phản đối. "Bẩn một cái là nhìn thấy ngay."

"Có lẽ mày nên gội đầu đi," Simon nhìn Barney nghiêm nghị.

"Không," Barney trả lời.

"Thôi, cũng không còn thời gian nữa. Dù sao tao cũng đói rồi. Mày chỉ cần ngồi xa cái đèn ra là được."

* * *

Nhưng khi tất cả đã ngồi quanh bàn ăn rồi thì chẳng mấy chốc rõ ràng ra là mọi người không hề có ý định hỏi han xem chúng đã ở đâu. Buổi tối bắt đầu y như những lần mọi chuyện cứ nhất định phải hỏng toét đến nơi. Mẹ không nói gì mấy, vẻ mặt mệt mỏi và thất vọng; những dấu hiệu ấy cho chúng biết rằng việc vẽ tranh của mẹ hôm nay không mấy suôn sẻ. Bố thì rầu rĩ sau một ngày tẻ nhạt, bùng lên giận dữ khi con Rufus chạy vào, nước chảy tong tỏng sau mỗi bước chân của nó và đuổi nó xuống bếp với bà Palk. Còn Ông Merry thì lặng lẽ và trầm tư bước vào phòng ăn với vẻ ủ ê khó hiểu. Ông một mình ngồi xuống một đầu bàn, nhìn chăm chăm vào khoảng không vô định, vô cảm như một cây cột thờ chạm khắc lừng lững.

Lũ trẻ lo lắng dõi theo ông, sốt sắng đưa cho ông lọ muối trước cả khi ông nhờ. Nhưng Ông Merry chẳng nhìn ngó gì đến lũ trẻ. Ông ăn như một cái máy, gắp thức ăn lên, đưa vào miệng mà không để tâm xem mình đang ăn gì. Trong một phút tiếc rẻ Barney tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình bỏ một mẩu bần lót đĩa vào trong đĩa của ông.

Bà Palk đi vào, trên tay là một đĩa bánh nhân táo với một đĩa kem màu vàng đầy ú ụ, và bắt đầu xếp những chiếc đĩa bẩn lại thành một chồng. Sau đó bà đi ra ngoài hành lang và mọi người nghe thấy một giọng nữ trầm, ấm áp vọng đến, hát bài "Lạy Chúa đời đời phù hộ cho chúng con."

Bố thở dài. "Có những hôm," bố bực dọc nói, "có thể miễn chuyện cầu nguyện trước mỗi bữa cơm đi được đấy."

"Người Cornwall," Ông Merry đột nhiên cất tiếng từ trong bóng tối, "là những người phái Phúc Âm rất mộ đạo."

"Chắc chắn rồi," bố tiếp lời. Bố đưa cho Simon đĩa kem. Simon xúc cho mình một thìa lớn và một cục kem vàng rớt từ chiếc thìa xuống khăn trải bàn.

"Ôi, Simon," mẹ nhắc. "Nhìn xem con làm gì kìa."

"Con có làm gì đâu. Tự nó rơi đấy chứ."

"Do con xúc nhiều kem quá đấy." Bố nói.

"Bố cũng thích kem mà."

"Có thể. Nhưng bố không cố đựng một lít vào cái bình nửa lít bao giờ cả."

"Nghĩa là sao ạ?"

"Không có gì," bố nói. "Ôi, lạy Chúa, Simon, làm thế chỉ càng tồi tệ hơn thôi." Simon đang cố dùng thìa hớt cục kem bị rơi nhưng kết quả là để lại một vết màu vàng rất to trên khăn trải bàn.

"Con xin lỗi."

"Bố biết ngay mà."

"Hôm nay bố có đi câu không, bố?" Cảm thấy đã đến lúc cần phải chuyển sang chủ đề khác, Jane cố lấy giọng hào hứng hỏi với sang từ bên kia bàn.

"Không," bố trả lời.

"Ngốc thế," Simon nói, nó vẫn đang tức và chẳng thèm quan tâm đến thiện ý của Jane. "Trời đang mưa mà."

"Thỉnh thoảng trời mưa bố vẫn đi câu cá còn gì."

"Không, làm gì có."

"Có mà."

"Cho phép bố giải thích hành động của chính mình nhé," bố hỏi giọng cực kỳ châm chọc. "Thỉnh thoảng trời mưa bố vẫn đi câu cá. Nhưng hôm nay thì không. Thế đã rõ chưa?"

"Anh ăn thêm chút bánh nhân táo đi," mẹ nói và đưa cho bố đĩa bánh.

"Hừm," bố ậm ừ, liếc nhìn sang phía mẹ rồi im lặng trở lại. Một lát sau bố cất giọng vui vẻ: "Hay là sau bữa tối chúng ta đi dạo một vòng. Trời có vẻ tạnh ráo rồi đấy."

Mọi người nhìn ra cửa sổ. Nhiệt độ trong phòng đã tăng lên thêm mấy độ. Trên biển mây đã tan, chỉ còn bầu trời xanh thăm thẳm và mũi đất đối diện khung cửa sổ sáng bừng lên một màu xanh rực rỡ khi mặt trời đang lặn chiếu những tia nắng đầu tiên trong ngày.

Đúng lúc đó họ nghe thấy tiếng chuông cửa.

"Phiền thật," mẹ mệt mỏi nói. "Ai thế nhỉ?"

Có tiếng bước chân nặng nề của bà Palk đi ra phía cửa rồi trở vào. Bà thò đầu vào, nói: "Ông Drew, ông có khách."

"Chuẩn bị từ chối khách đến trọ nhé," bố nói rồi đi ra phía sảnh. Một lát sau, bố quay trở lại, vừa đi qua cửa vừa nói với lại phía sau với ai đó "... anh chị thật tốt quá, chúng tôi cũng chưa có ý định làm gì vào ngày mai. Toàn những người có tính độc lập ấy mà, anh biết rồi đấy. Đây là gia đình chúng tôi." Bố cười một lượt rất tươi và nồng nhiệt bằng vẻ mặt mà cả nhà vẫn gọi là bộ mặt ngoại giao của bố. "Đây là vợ tôi, và các con tôi Simon, Jane và Barney... Còn đây là chú và cô... ờ... Withers. Hai người đến từ chiếc thuyền mà con rất ngưỡng mộ đấy, Simon. Bố gặp các vị khách quý đây ở ngoài cảng sáng nay."

Người đàn ông và cô gái đứng đằng sau bố ngay lối cửa ra vào. Cả hai đều có mái tóc sẫm màu và nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt rám nắng. Trông họ như những sinh vật bỗng nhiên hiện ra từ một hành tinh hết sức ngăn nắp nào đó vậy. Người đàn ông bước lên và chìa tay ra: "Chào chị Drew."

Bọn trẻ ngồi nhìn chằm chằm người đàn ông khi ông ta tiến về phía mẹ, ông ta mặc một chiếc quần vải flanen trắng tinh và một cái áo khoác, trên cổ quàng chiếc khăn màu xanh đậm nhét vào cổ áo sơ mi trắng, chẳng ai nghĩ họ sẽ có một vị khách như ông ta ở Trewissick. Thế rồi tất cả vội vàng nhảy bật dậy khi mẹ đứng lên bắt tay, và Simon làm đổ ghế. Trong lúc bối rối thì bà Palk xuất hiện với ấm trà, khay cốc và đĩa trên tay.

"Thêm hai cốc trà nữa," bà nói, mỉm cười dịu dàng và lại đi ra.

"Mọi người ngồi xuống đi," cô gái nói. "Chúng tôi chỉ ghé qua chốc lát thôi chứ không có ý làm phiền đâu." Cô cúi người xuống giúp Simon dựng chiếc ghế lại. Lọn tóc đen nhánh của cô bồng bềnh trước trán. Cô ấy xinh quá, Jane thầm nghĩ trong lúc ngắm nhìn cô. Tất nhiên là nhiều tuổi hơn cả ba anh em rồi. Cô gái mặc một cái quần màu đen và sơ mi xanh sáng màu, đôi mắt cô long lanh như ẩn chứa một nét cười duyên rất riêng. Jane đột nhiên thấy mình quá trẻ con.

Ông Withers đang nói chuyện với mẹ, lộ ra cả hàm răng trắng bóng. "Chị Drew, chị bỏ qua cho sự ghé thăm đường đột này. Chúng tôi không có ý làm phiền bữa tối của cả nhà đâu."

"Có phiền gì đâu, anh," mẹ nói vẻ hơi ngạc nhiên. "Anh chị không dùng trà sao?"

"Không, cảm ơn chị, chị thật tốt bụng, nhưng bữa tối của chúng tôi đã sẵn sàng trên tàu rồi. Chúng tôi chỉ đến để mời mọi người thôi. Em gái tôi và tôi ở Trewissick vài ngày, trên chiếc du thuyền của mình - chị biết đấy, chúng tôi đang trong chuyến hành trình quanh bờ biển - nên không biết anh chị và các cháu có muốn đi du thuyền một ngày trên biển không? Chúng tôi có..."

"Tuyệt quá!" Simon suýt làm đổ ghế lần nữa. "Tuyệt vời thật đấy! Chú muốn nói là đi chơi biển trên chiếc thuyền lộng lẫy đó ư?"

"Ừ, phải rồi," ông Withers mỉm cười.

Simon líu lưỡi không nói được lời nào, mặt nó bừng lên vui sướng. Mẹ ngập ngừng: "Vâng... "

"Tất nhiên tôi hiểu là lời mời này của chúng tôi thật đường đột," Ông Withers nhỏ nhẹ nói. "Nhưng đi chơi với bạn bè để thay đổi không khí thì rất tuyệt. Sáng nay khi gặp anh ở trong văn phòng của ông trưởng cảng, và phát hiện ra chúng ta là hàng xóm ởLondon..."

"Thế ư?" Barney tò mò hỏi với từ bàn ăn. "Ở đâu ạ?"

"Phố Marybone, chỉ cách nhau một góc phố," cô gái nói và mỉm cười nhìn nó, để lộ đôi má lúm đồng tiền. "Norman bán đồ cổ." Cô nhìn về phía mẹ. "Chắc chị và em cũng mua hàng ở cùng cửa hiệu - chị Drew ạ, chị có biết cái cửa hàng bánh ngọt nhỏ bán bánh baba(1) tẩm rượu rum ngon tuyệt không?"

"Tôi thì cố gắng tránh," mẹ trả lời và bắt đầu mỉm cười. "Thật sự là anh chị thật tử tế, vì xét ra chúng tôi chỉ là người lạ. Thế nhưng tôi không dám chắc là liệu... chị biết đấy, ba đứa trẻ có thể gây nhiều phiền phức lắm."

"Mẹ!" Simon nhìn mẹ giận dỗi.

Ông Withers chun mũi lại như trẻ con và nói với mẹ: "Nhưng chúng tôi muốn mời toàn thể gia đình chị mà, chị Drew. Chúng tôi thành thực hy vọng anh chị cũng sẽ đi cùng chúng tôi. Chỉ là một chuyến đi dạo quanh vịnh rồi về thôi, chị biết đấy - như những thương nhân thường đi ấy mà. Và có thể chúng ta sẽ câu cá nữa. Tôi rất lấy làm vui được giới thiệu với mọi người con thuyền của chúng tôi. Ngày mai được chứ? Người ta bảo mai sẽ là một ngày đẹp trời."

Chao ôi, cách nói chuyện của chú này nghe quá ư là cổ lỗ sĩ, Jane nghĩ vu vơ, có thể là do chú ấy bán đồ cổ. Em nhìn sang Simon và Barney, cả hai đều đang háo hức nghĩ tới một ngày du ngoạn trên chiếc thuyền lạ và hồi hộp theo dõi thái độ của bố mẹ; rồi trở lại nhìn cái quần bằng vải flanen trắng tinh và chiếc khăn quàng gấp nếp không một vết nhàu của ông Withers. Mình không thích người này, em thầm nghĩ. Tại sao lại thế nhỉ?

"Vâng, cảm ơn anh nhiều," cuối cùng mẹ cũng lên tiếng. "Anh thứ lỗi cho tôi, tôi không nghĩ là tôi sẽ đi được - nếu đẹp trời, tôi sẽ ra bến cảng và làm việc ở đó. Nhưng tôi biết Dick và bọn trẻ nhà tôi rất muốn đi."

"À, vâng, Tiến sĩ Drew cũng có kể cho chúng tôi nghe về những bức tranh của chị," ông Withers nói bằng một giọng hết sức nồng ấm. "Thế thì chúng tôi cũng đành chịu vậy - nhưng nếu chị có cảm hứng thì... Mặc dù vậy tôi vẫn hy vọng mọi người khác trong gia đình sẽ đi chứ?"

"Chắc chắn đấy ạ," Simon nhanh nhảu đáp.

"Nghe thật là hết sảy," Barney tiếp lời. Sau nó mới nhớ ra và nói thêm: "Cám ơn cô chú."

"Vâng," bố vui vẻ nói, "phải nói đây là một cử chỉ rất hào hiệp. Chúng tôi rất biết ơn anh chị. Nhưng thực tế là" - bố lơ đãng nhìn quanh căn phòng - "đáng lẽ còn có thành viên khác nữa của gia đình chúng tôi ở đây, nhưng không hiểu chú ấy đi đâu mất rồi. Đó là chú vợ tôi. Chú ấy đã thuê ngôi nhà này cho chúng tôi."

Bọn trẻ lập tức nhìn theo ánh mắt của bố đang đảo quanh căn phòng. Chúng đã quên bẵng mất Ông Merry. Bây giờ chúng mới nhận ra là đã không thấy bóng dáng Ông Merry đâu cả kể từ lúc hai vị khách viếng thăm đột ngột này xuất hiện. Cánh cửa dẫn sang phòng ăn sáng khép hờ - nhưng khi Barney chạy qua và nhìn vào trong thì không thấy có ai cả.

"Anh muốn nói tới Giáo Sư Lyon ư?" cô gái hỏi.

"Đúng đấy." Bố ngạc nhiên nhìn chằm chằm vào cô gái trong giây lát. "Tôi không nhớ là sáng nay tôi có nhắc đến chú ấy. Cô biết chú ấy à?"

Ông Withers rất nhanh nhẹn và trôi chảy đỡ lời cho cô gái, "Tôi nghĩ là chúng tôi đã gặp nhau rồi, một hay hai lần gì đó. Ở nơi khác chứ không phải ở đây. Đều vì công việc cả thôi, anh biết đấy. Tôi nhớ Giáo Sư là một quý ông rất dễ chịu nhưng hơi khó hiểu."

"Đúng là như vậy," mẹ rầu rầu nói. "Lúc nào chú ấy cũng lao đi đâu đó. Thậm chí lần này chú ấy còn chưa ăn xong bữa tối nữa. Nhưng để tôi mời anh chị một tách trà hay cà phê chứ nhỉ."

"Cảm ơn chị, nhưng chúng tôi phải về thôi," cô gái nói. "Vayne đang chờ chúng tôi về ăn tối."

Ông Withers kéo vạt áo khoác không chút nhàu nhĩ xuống bằng một động tác yểu điệu và chính xác. "Em nói đúng, Polly, chúng ta không được về muộn." Ông ta đảo nụ cười trắng lóa khắp phòng như ngọn hải đăng. "Vayne là thuyền trưởng của chúng tôi - người duy nhất chuyên nghiệp trên thuyền. Và cũng là một đầu bếp cừ khôi nữa. Ngày mai nhất định cả nhà phải thưởng thức tài nấu ăn của anh ấy. Nào, nếu ngày mai đẹp trời thì liệu chúng tôi có được đón cả nhà tại bến cảng không nhỉ? Chín giờ rưỡi được không? Chúng tôi sẽ cho chiếc xuồng con chờ mọi người ở kè đá."

"Tuyệt vời." Bố đi cùng ông ta ra ngoài sảnh và mọi người đi theo sau họ. Đang đi, Polly Withers bỗng dừng lại và nhìn qua đầu Simon, về phía những tấm bản đồ vùngCornwallcổ treo giữa các bức tranh sơn dầu trên bức tường sẫm màu. "Anh Norman, nhìn kìa. Những bức tranh kia đẹp quá còn gì?" Rồi cô gái quay về phía mẹ. "Ngôi nhà này tuyệt thật đấy. Chú chị thuê của một người bạn à?"

"Một ông thuyền trưởng tên là Toms. Chúng tôi chưa bao giờ gặp ông ấy cả, ông ấy đang ở nước ngoài. Ông ấy cũng già rồi, hình như là thủy thủ về hưu. Tôi nghĩ Ngôi nhà Xám này đã thuộc về gia đình ông ấy từ lâu rồi."

"Thật là một nơi tuyệt vời." Ông Withers nhìn xung quanh với ánh mắt đầy vẻ chuyên nghiệp của người buôn đồ cổ. "Tôi thấy ông ấy có một số sách cổ rất đẹp". Ông ta tiện tay với về phía cánh tủ sách thấp và dài ở tiền sảnh nhưng nó không mở ra.

"Tôi vẫn giữ mọi thứ khóa nguyên xi," bố nói. "Anh biết chuyện gì có thể xảy ra với một ngôi nhà đã có đồ đạc hoàn chỉnh rồi đấy - lúc nào cũng chỉ sợ sẽ làm hỏng cái gì đó."

"Một nguyên tắc rất đáng khâm phục," ông Withers trang trọng nói. Lúc đó thì em gái ông ta đang mỉm cười cúi xuống nhìn Simon. "Cô dám cá đây sẽ là một nơi tuyệt vời để khám phá, phải không?" cô nói. "Các cháu đã đi tìm những đường hầm bí mật và các thứ trong đó chưa? Cô biết là trong một căn nhà cổ như thế này thì chắc các cháu đã đi thám hiểm rồi. Nếu các cháu tìm thấy gì thì kể cho cô chú nghe với nhé."

Cảm thấy cái nhìn lo ngại của Barney dán vào lưng mình, Simon trả lời lịch sự, "Ơ, cháu không nghĩ ở đây có đường hầm nào đâu."

"Hẹn gặp mọi người ngày mai nhé," ông Withers đứng ở ngưỡng cửa chào; rồi họ ra về.

"Thích quá!" Khi cánh cửa đóng lại, Barney háo hức kêu lên. "Một ngày đi chơi trên chiếc thuyền đó! Theo anh, liệu họ có cho mình lái thuyền không nhỉ?"

"Nhớ đừng làm vướng chân cô chú ấy khi không được phép đấy nhé," bố nhắc. "Bố mẹ không muốn có thương vong hay tổn thất gì đâu."

"Bố sẽ là bác sĩ trên thuyền."

"Bố đang trong kỳ nghỉ, con quên rồi à?"

"Tại sao bố không nói cho chúng con biết là bố đã gặp họ?" Simon gặng hỏi.

"Bố đang định nói đấy chứ," bố nhẹ nhàng trả lời. "Chắc lúc đó bố còn đang bận cáu kỉnh." Bố cười lớn. "Barney, nếu con muốn cho Rufus ra ngoài thì đi ngay đi - nhưng ngày mai nó sẽ không đi cùng chúng ta đâu nên con đừng có vòi vĩnh gì."

Jane bỗng cất tiếng: "Con nghĩ con cũng không đi đâu."

"Chúa ơi, sao lúc nào cũng không vậy?" Simon trợn mắt nhìn Jane.

"Em sẽ bị say sóng mất."

"Mày không thể bị say sóng được - đi thuyền buồm không say đâu. Không có mùi xăng của đầu máy cũ đâu. Jane, đi đi."

"Không," Jane nói giọng cả quyết hơn. "Em không điên cuồng lên vì mấy cái thuyền như anh. Thực sự là em không muốn đi. Cô chú ấy sẽ không phật ý đâu, phải không bố?"

Simon chán nản nói: "Mày đúng là dở hơi."

"Kệ em nó," bố nói. "Em nó biết mình muốn gì chứ. Không sao đâu, cô chú ấy sẽ hiểu thôi, Jane ạ. Không ai lại muốn con phải lo lắng về chuyện bị say sóng cả. Mặc dù vậy con cũng cứ nghĩ thử xem con sẽ thấy thế nào nếu mai con đi."

"Con chắc là sẽ an toàn hơn nếu con ở nhà," Jane trả lời. Nhưng em không đả động gì đến lý do đích thực khiến em không muốn đi. Nghe sẽ thật là ngớ ngẩn khi em giải thích rằng em có cảm giác lo ngại kỳ lạ về chiếc du thuyền màu trắng đó, về ông Withers lúc nào cũng mỉm cười và cả cô em gái xinh đẹp của ông ta nữa. Càng nghĩ, em càng thấy chuyện đó có vẻ vớ vẩn nên cuối cùng em tự thuyết phục mình, cũng như những người khác, là lý do khiến em không tham gia chẳng phải vì điều gì khác ngoài việc sợ say sóng.

Nhưng lại một lần nữa chẳng ai biết Ông Merry đã biến đi đâu. 

Hết chương 3. Chương tiếp theo sẽ được cập nhật một cách nhanh nhất.

Truyen8.mobi chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/25882


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận