Trên Biển Khơi Dưới Đá Thẳm Chương 4


Chương 4
Nếu đây là một ngôi nhà cho cha xứ thì nó thật quá tồi tàn.

Một làn sương sớm trắng mờ trải rộng khắp mặt biển, và dưới bến cảng, thuyền bè lững lờ trôi trên mặt nước phẳng lặng đang sáng rực lên dưới ánh nắng. Từ cửa sổ, Jane chăm chú nhìn xuống. Những chiếc thuyền đánh cá còn vắng bóng người, nhưng em vẫn thấy hai dáng người bé xíu đang leo lên chiếc xuồng cao su cạnh cầu cảng.

Em nghe tiếng Simon nói từ phía sau: "Nếu em thật sự không muốn đi biển thì để ý trông cái này nhé." Em quay lại và nhìn thấy anh trai đang chìa ra một chiếc tất len xám. Nom cứng ngắc kỳ quặc như cái ống quyển.

"Đôi tất của anh thì có gì đặc biệt cơ chứ?"

Simon cười toét rồi hạ giọng thì thầm. "Bản viết cổ đấy. Anh chẳng thể tìm ra được thứ gì tốt hơn để giấu cả."

Jane bật cười, cầm chiếc tất và lôi một phần bản viết cổ ra. Nhưng dù em đã cố kéo thật cẩn thận, mép tấm da vẫn nát vụn khi bị mắc vào len như thể là điềm gở. "Này," em kêu lên. "Nếu lần nào cũng cứ thế này thì chỉ một tuần nữa cả tấm da sẽ chỉ còn là mảnh vụn thôi. Nó nằm yên trên tầng áp mái bao nhiêu năm nay thì chẳng sao vì không bị ai động đến. Bây giờ mà mình cứ mang nó đi lung tung thế này..."

Simon lo lắng nhìn cuộn giấy da cong queo, các rìa mép mòn vẹt đã xám xịt đi vì để lâu, và thấy những vết nứt lởm chởm trước kia chưa hề có. Nó phân vân: "Nhưng chúng ta sẽ còn phải dùng nhiều đến nó để còn tìm xem nó nói gì chứ... à, chờ chút. Trong căn phòng ấy..."

Để mặc Jane đứng đó ngơ ngác, nó giật vội lấy bản viết cổ, chạy xuống gác tới cánh cửa nhỏ tối om ở chiếu nghỉ cầu thang tầng hai dẫn tới dãy hành lang mà chúng đã phát hiện ra trên đường lên tầng áp mái. Cánh cửa vẫn bỏ ngỏ. Nó bước xuống, đi dọc theo dãy hành lang nhỏ xíu đến căn phòng đơn sơ, trống hoác mà chúng đã đoán là phòng ngủ của ông thuyền trưởng. Căn phòng vẫn y hệt như ngày hôm trước và ống đựng kính viễn vọng vẫn đang nằm trên bệ cửa sổ.

Simon nhặt lấy cái ống và mở ra. Đường ren của mỗi nửa vẫn sáng bóng và ánh lên một lớp dầu luyn mỏng; bên trong ống phủ một lớp đồng đỏ, sáng ánh lên, khô và rất sạch sẽ khi nó giơ ra ánh sáng. Simon bỏ cuộn giấy da vào trong. Cuộn giấy nằm vừa khít, gọn gàng trong ống khi nó xoay đóng hai nửa ống lại với nhau. Simon cẩn thận nhìn một vòng quanh căn phòng, như thể trông chờ nó nói cho mình một điều gì đó. Nhưng chẳng có gì ngoài sự im lặng và trống rỗng đầy bí ẩn, nó liền nhẹ nhàng đóng cửa lại rồi chạy lên gác.

"Xem này," nó gọi Jane. "Đây chắc là vỏ đựng của nó đấy."

"Ừ, chắc vậy," Jane nói, đón lấy cái ống.

"Em nên giấu nó đi đâu đó," Simon bảo. "Nóc tủ quần áo của anh với Barney được không?"

"Để em nghĩ xem có chỗ nào an toàn không," Jane đăm chiêu nói.

Nhưng Simon hầu như chẳng nghe thấy câu Jane nói vì nó đã đi được nửa đường về đến phòng; bây giờ đầu óc nó chỉ còn nghĩ đến chuyến đi trên chiếc du thuyền của gia đình nhà Withers mà thôi. Và đến khi Simon, Barney và bố đã đi rồi, vừa đi vừa tranh cãi sôi nổi về việc mang theo những áo vải dầu(1), áo len và quần bơi nào, thì Jane bắt đầu ước giá mà hôm qua em thay đổi quyết định để hôm nay được đi cùng mọi người.

Nhưng em vẫn tỏ ra cương quyết trước những lời trêu chọc của Simon: "Không đi đâu. Em mà say sóng thì chuyến đi sẽ hỏng bét cả, mất vui." Vậy là thay vì đi, em đứng bên cửa sổ nhìn mọi người chạy ra cảng, lên cái xuồng cao su bập bềnh trôi về phía chiếc du thuyền trắng, mảnh mai và duyên dáng ngoài xa.

Mẹ, một tay cắp giá vẽ, một tay cầm túi đựng bánh sandwich và bột màu, nhìn em ái ngại: "Con yêu, con có chắc là con sẽ không buồn vì còn lại một mình đấy chứ?"

"Không đâu mẹ ạ," Jane trả lời dứt khoát. "Con sẽ đi dạo quanh đây thôi. Con nghĩ là sẽ rất vui. Thật đấy mà. Khi vẽ một mình, mẹ cũng không bao giờ cảm thấy cô đơn, phải không ạ?"

Mẹ cười. "Thôi được rồi, độc lập mà, vậy con cứ đi dạo một mình. Chớ có lạc đường đấy. Mẹ vẽ ở phía bên kia, trên bến cảng ấy, nếu con cần gì cứ gọi mẹ nhé. Bà Palk sẽ ở đây cả ngày và sẽ chuẩn bị bữa trưa cho con. Sao con không mang Rufus đi cùng nhỉ?"

Mẹ đi ra ngoài dưới ánh nắng rực rỡ, đôi mắt đã bắt đầu mơ màng với những ý nghĩ về màu sắc và hình dáng của bức tranh sắp vẽ. Jane bỗng cảm thấy một cái mũi ươn ướt đang dụi vào tay, nhìn xuống thì thấy cặp mắt nâu của Rufus đang mở to đầy hy vọng, em cười khúc khích rồi chạy thi cùng nó vào làng, xuyên qua những phố nhỏ hẹp kỳ lạ, loáng thoáng giọng nói luyến láy của người Cornwall trong các cửa hàng mà em đi qua.

Nhưng suốt cả buổi sáng, em luôn cảm thấy bồn chồn một cách lạ lùng, như thể một ý nghĩ đang muốn nhảy bật ra khỏi đầu em vậy. Như thể, em tự nhủ, đầu óc em đang cố nói với em điều gì đó mà em không thể nghe thấy được. Khi em dắt Rufus về đến nhà, vào bếp, ngồi phịch xuống cạnh bà Palk mặt đỏ bừng và thở hổn hển, em vẫn còn như suy tư, vương vấn điều gì.

"Đi dạo vui không cô?" bà Palk ngồi xổm bên cạnh một xô nước đầy xà phòng, mặt đỏ bóng lên; bà đang lau chùi sàn bếp lát đá xám.

"Vâng," Jane lơ đãng trả lời. Em nghịch nghịch chiếc nơ con bướm buộc trên đuôi tóc.

"Chút lữa xong bữa trưa thôi," bà Palk vừa nói vừa đứng dậy. "Ôi chao, hãy xem con chó lày, mệt lả ra rồi. Để tôi cho uống lước đã..." Nói rồi bà với tay lấy đĩa thức ăn cho Rufus.

"Cháu đi rửa chân tay đây." Jane thơ thẩn đi vào sảnh, dãy hành lang hẹp vừa lạnh vừa tối, chỉ có tia sáng mờ mờ chiếu lên mấy tấm bản đồ cũ mà hôm qua cái cô Polly Withers đã trầm trồ thích thú. Cô Withers... tại sao cô ta và cả người anh trai nữa trông đều có vẻ gì đó nham hiểm vậy nhỉ? Họ là những con người hoàn toàn bình thường và chẳng có lý do gì để nghĩ xấu về họ. Họ đã tỏ ra rất tốt bụng khi mời cả nhà cùng đi du ngoạn một ngày trời trên chiếc du thuyền của họ cơ mà... Nhưng kể cũng lạ, lời nhận xét của cô ta về việc thám hiểm và khám phá...

Khám phá nào. Lên được nửa cầu thang gác, Jane bỗng giật thót mình nhớ ra, với một cảm giác tội lỗi, là suốt buổi sáng nay em đã để tấm da chỏng chơ, cuộn trong cái ống đựng kính viễn vọng trong ngăn kéo chiếc bàn đầu giường ngủ. Lẽ ra em phải mang nó theo mình chứ? Không, đừng có mà ngốc nghếch thế, em nghĩ thầm, nhưng em vẫn vội vàng chạy lên gác, bước vào phòng lòng đầy lo lắng và chỉ cảm thấy nhẹ người khi nhìn thấy cái ống đựng tấm da vẫn nằm ở đó, lấp lánh trong ngăn kéo.

Em kéo cuộn giấy da màu nâu ra, đưa nó lại gần cửa sổ và thận trọng vuốt phẳng nó. Những dòng chữ đen rối rắm ấy lại khiến em khẽ run lên với cái cảm giác tò mò thôi thúc khó tả hệt khi ở trên tầng áp mái, giây phút cả ba anh em bỗng bất ngờ nhận ra chúng đã tìm được cái gì. Em nhìn chăm chú vào tấm da nhưng những hàng chữ lỏng chỏng vẫn không dễ đọc hơn chút nào so với trước. Em chỉ luận ra được đâu là những chữ viết tắt mà Simon đã đọc thành "Mark và Arthur".

Làm thế nào mà chúng có thể biết được bản viết cổ này nói cái gì đây?

Em hướng xuống phía mép dưới tấm da đang cong lên, nhìn vào mấy đường vẽ mỏng loằng ngoằng mà trước đó cả ba đã nghĩ có lẽ là một tấm bản đồ. Trong tầng áp mái tối quá nên chúng không nhìn được mấy, nhưng bây giờ thì Jane đã có ánh sáng chói chang của buổi trưa. Em cúi xuống gần hơn và đột nhiên nhận ra trên tấm da còn nhiều đường vẽ nữa; các đường vẽ mỏng mảnh và mờ nhạt đến nỗi trước đó em cứ nghĩ chúng là những vết rạn trên tấm da. Và giữa những đường vẽ nhạt nhòa đó có vài chữ thậm chí trông còn mờ hơn.

Đó là một tấm bản đồ rất thô sơ, như thể đã được vẽ rất vội. Có vẻ là một tấm bản đồ đường bờ biển, trông hao hao một chữ W viết nghiêng với hai vịnh nhỏ và một mũi đất. Hay là hai mũi đất và một vịnh nhỏ nhỉ? Chẳng có dấu hiệu gì để phân biệt được phía nào là biển. Mặc dù em nhận thấy có một từ nào đó được viết phía trên phần vẽ một mũi đất - hay một vịnh biển - nhô ra, nhưng lại hoàn toàn không thể đọc được vì một vết rạn thẳng tắp trên tấm da cũ kỹ cắt ngang qua từ đó gọn gàng như một dòng kẻ bằng mực đậm.

"Chà, bực mình quá," Jane bực bội nói to. Vừa nói dứt lời thì em nhận ra là trong nửa phút đồng hồ vừa rồi em đã quyết tâm tự mình phát hiện ra được điều gì đó về bản vẽ cổ để thông báo cho Simon và Barney biết khi chúng trở về sau cả ngày đi biển. Đó chính là điều làm em bứt rứt không yên suốt cả buổi sáng nay.

Lại thêm một cái tên nữa được viết trên bản đồ. Nếu đó thật sự là một cái tên. Những con chữ màu nâu, rất nhỏ nhưng lại dễ đọc hơn so với phần còn lại của bản viết. Jane dò từng chữ cái một và thấy chúng tạo thành ba từ: "Ring Mark Hede." Em thất vọng nhìn dòng chữ. Chúng chẳng có nghĩa gì cả. Em thử đọc lại: "Ring, Mark, Heed." Chẳng có địa danh nào như vậy. Làm gì có nơi nào có cái tên kỳ lạ như thế chứ?

Tiếng chuông lanh lảnh ở dưới sảnh vọng lên gác, phá tan bầu không khí êm đềm của tiếng rì rào của biển và tiếng những con mòng biển kêu ngoài xa, và em loáng thoáng nghe thấy tiếng bà Palk đang gọi từ dưới nhà. "Jane! Ja-ne ơi!" Em vội vàng cuộn tấm bản đồ lại, cất vào hộp rồi xoáy chặt hai nửa ống. Em mở ngăn kéo chiếc bàn cạnh giường ngủ, ngập ngừng trong giây lát rồi đóng lại. Tốt hơn hết là để tấm da trong tầm mắt mình. Em giật chiếc áo len trên giường, quấn quanh chiếc ống và chạy hai bậc cầu thang một xuống gác.

Nhưng em chạy quá nhanh. Nên khi lượn vòng qua góc chiếu nghỉ tầng một, em đâm sầm vào cái hòm gỗ lùn lùn dài ngoằng nằm khuất góc và kêu lên vì đau. Lại đúng cái chân hôm trước bị xe đạp tông ở dưới cảng... lúc em cúi xuống xoa đầu gối, có một vật khiến em chú ý. Chiếc hòm mà em vừa va phải chính hôm trước cả ba đã phát hiện ra nhưng nắp hòm bị khóa kín. "Toàn vàng ròng và đồ trang sức quý," Simon đã nói vậy và cố mở ra nhưng không được. Bây giờ nắp hòm vừa bật ra vài inch và đang hơi nảy lên. Chắc là nó bị kẹt chứ không hẳn là bị khóa; em xô quá mạnh nên khiến cho nắp hòm bật mở.

Jane tò mò nâng hẳn nắp hòm lên. Bên trong chẳng có gì nhiều: một vài tờ báo cũ, một đôi găng tay to tướng bằng da, hai hay ba chiếc áo len cao cổ và một quyển sách nhỏ bìa màu đen bị che lấp một nửa. Một kho báu thật nghèo nàn làm sao, em nghĩ thầm. Nhưng biết đâu cuốn sách lại có gì đó thú vị. Em thò tay vào hòm lấy quyển sách ra.

"Ja-ne ơi!" giọng bà Palk nghe gần hơn trên cầu thang. Jane vội vàng đóng nắp hòm, gói quyển sách nhỏ vào trong áo len cùng với hộp kính viễn vọng. Khuôn mặt bà Palk đã hiện ra qua khe thành cầu thang.

"Cháu đang xuống đây ạ," Jane ngoan ngoãn cất tiếng.

"Ồ, vậy à, thế mà tôi cứ ngỡ là cô đã đi ngủ rồi cơ. Úi dào, dạo lày tôi béo quá đi chật cả cầu thang mất rồi." Bà Palk cười toe toét với Jane: "Bữa trưa đã dọn ở trên bàn rồi đấy. Tôi đang bận lấy chỗ bánh lướng trong lò ra, chứ không thì không để cô phải đợi lâu đến thế đâu." Bà Palk lại lạch bạch đi xuống bếp. Một đĩa xalat và giăm bông đầy ắp đã sắp sẵn đợi Jane trong phòng ăn, trông giống hệt một hòn đảo nhỏ trên chiếc bàn ăn mênh mông như một mặt biển màu gụ bóng loáng. Bên cạnh đó là một đĩa bánh nhân mứt lý gai và một hũ kem nhỏ.

Jane ngồi xuống và lơ đễnh ăn, một tay giở lướt qua cuốn sách nhỏ mà em vừa tìm thấy trong cái hòm cũ. Đó là một cuốn sách hướng dẫn về ngôi làng do cha xứ vùng này viết. Trên trang bìa giả ghi một dòng chữ uốn lượn, bay bướm Giới thiệu về Trewissick và "Người biên soạn: Đức Cha E. J. Hawes-Mellor, M. A. (Oxon.) LL. D. (Lond.), Cha xứ nhà thờ xứ đạo Thánh John, làng Trewissick."

Chẳng có gì thú vị cả, Jane nghĩ, sự hăng hái của em xẹp dần. Em lật qua những trang sách hẹp, đầy hướng dẫn chi tiết về những điểm để "du ngoạn" ở xung quanh đây. Những dòng chữ trên tấm da vẫn vương vấn trong trong tâm trí em. Giá mà em có thể tìm ra được điều gì đó để nói cho Simon và Barney biết về bản viết cổ ấy nhỉ...

Đúng lúc đó trang chính giữa của cuốn sách mở lật ra dưới ngón tay em. Jane lơ đãng nhìn lướt qua rồi dừng lại. Trên trang sách là một bản đồ rất chi tiết vẽ làng Trewissick với đầy đủ những con phố thẳng và ngoằn ngoèo như những đường hoa văn phía sau bến cảng nằm gọn gàng giữa hai mũi đất nhô ra biển. Nhà thờ và tòa thị chính của làng đều được đánh dấu riêng; em thoáng thấy tự hào vì Ngôi nhà Xám cũng được ghi chú tên rõ ràng trên con đường dẫn lên tận cùng đỉnh Mũi Kemare rồi mờ dần vào hư không. Nhưng điều thu hút sự chú ý của em lại là cái tên được viết gọn gàng ngang qua mũi đất. Đó là: "King Mark's Head - Mũi Vua Mark".

"Mũi Vua Mark," Jane chậm rãi đọc to lên. Em cúi xuống với bọc áo len bên cạnh ghế, lấy ra hộp kính viễn vọng và trải bản viết cổ lên bàn. Những con chữ như đang nhìn em chằm chằm, khó hiểu và kỳ bí: "Ring Mark Hede". Và khi nhìn kỹ hơn, em thấy chữ cái đầu của từ đầu tiên đã mờ đi vì thời gian và bụi bặm, rất có thể không phải là chữ R mà là chữ K. Em nuốt khan vì hồi hộp và hít một hơi thật sâu.

King Mark's Head - Mũi Vua Mark: cùng một cái tên trên cả hai tấm bản đồ. Như vậy, tấm bản đồ trên bản viết cổ chúng tìm thấy trên gác xép chắc chắn phải là bản đồ của làng Trewissick - chính là phần của Trewissick có Ngôi nhà Xám. Những chữ kỳ lạ đó chắc chắn là tên cổ của Mũi Kemare.

Nhưng khi những choáng ngợp vì phát hiện đó đã qua đi, em nhìn lại hai tấm bản đồ một lần nữa, và sự phấn chấn của em giảm đi một chút. Có điều gì đó không ổn ở đường vẽ bờ biển ngoằn ngoèo trên tấm da; điều gì đó khác hẳn sự thiếu chính xác vẫn thường thấy trong những bản vẽ phác thảo bằng tay. Đường bờ biển ở đây không giống như bản đồ trong cuốn sách chỉ dẫn; những mũi đất nhô hẳn ra ngoài một cách kỳ lạ, và cảng biển có hình dạng khác hẳn. Tại sao vậy nhỉ?

Cảm thấy khó hiểu, Jane lấy một mẩu bút chì trên chiếc tủ tường và cố gắng vẽ một đường chì mờ mô tả đường bờ biển như trong bản viết cổ lên bản đồ trên cuốn sách chỉ dẫn. Không còn nghi ngờ gì nữa; hai hình dáng khác nhau.

Có khi bản viết cổ này không vẽ bản đồ Trewissick. Có khi có hai mũi đất ở Cornwall cùng được gọi là "Mũi Vua Mark". Hay có khi đường bờ biển đã bị biến đổi hình dáng sau hàng trăm năm kể từ hồi vẽ tấm bản đồ cổ. Trời ơi, làm cách nào tìm ra được đây?

Em miễn cưỡng để tấm da sang một bên và nhìn chăm chú vào hai đường bờ biển trên trang sách, một được in còn một do em dùng bút chì vẽ lên. Nhưng em vẫn không thể tìm ra câu trả lời. Trong lúc bực bội, em lật lại những trang trước và đột nhiên lại liếc thấy trang bìa giả một lần nữa: " ... Đức Cha E. J. Hawes-Mellor, M. A..."

Jane nhảy bật dậy. Đúng rồi! Tại sao lại không nhỉ? Cha xứ Trewissick chắc chắn sẽ biết mọi điều về vùng này. Ông ấy là một chuyên gia, chính ông đã viết cuốn sách này cơ mà. Ông ấy sẽ biết liệu bờ biển đã từng thay đổi hình dáng chưa và trước đây nó như thế nào. Đó là một cách - cách duy nhất - để tìm ra điều bí mật. Sẽ chỉ có ông ấy mới không hỏi tại sao em muốn biết về điều đó; ông ấy sẽ chỉ nghĩ là em quan tâm đến cuốn sách của ông mà thôi. Em cần phải đi tìm ông ta và hỏi cho ra nhẽ.

Và thử tưởng tượng xem, em sẽ có bao nhiêu chuyện để kể cho Simon và Barney khi chúng về nhà...

Chính ý nghĩ cuối cùng đó đã thúc đẩy Jane, vốn là người nhút nhát nhất trong gia đình, quyết định sẽ làm gì suốt buổi chiều hôm đó. Em quay phắt lại khi cánh cửa mở ra, và bà Palk núng nính đi vào. "Cô ăn xong rồi à? Có ngon miệng không?"

"Ngon lắm ạ. Cháu cảm ơn bà rất nhiều." Jane vơ lấy cuốn sách và cuộn áo len quý giá của mình. "Bà Palk à," em thăm dò, "bà có quen cha xứ của vùng này không ạ?" Tất nhiên là phải biết rồi, em nghĩ thầm, cứ xem cái cách bà ấy hay hát thánh ca như thế....

"Ồ, không, tôi không quen Đức Cha đâu." Bà Palk trở nên trang nghiêm, kính cẩn. "Khi đi lễ nhà thờ tôi chưa bao giờ gặp Cha, nhưng tất nhiên là tôi có nhìn thấy Cha. Mọi người lói Cha là một người thông minh lắm. Cô định đi xem nhà thờ à, cưng?"

"Vâng ạ," Jane trả lời. Có lẽ rồi mình sẽ đi thật, em tự biện bạch.

"Lơi đó rất đẹp và cổ kính. Nhưng hơi xa - ngược lên đến đỉnh đồi trong làng kia. Từ kè đá ngoài cảng, cô có thể nhìn thấy tháp nhà thờ ở xa phía sau hàng cây trên đường Cá."

"Cháu nghĩ là cháu biết."

"Đừng để bị say lắng nhé." Bà Palk khệ nệ bê chồng bát đĩa đi ra và một lúc sau Jane đã nghe thấy bài "Xin ở lại bên con" với chất giọng tha thiết sầu não từ phía bếp vọng lên. Em chạy lên gác, vội vã nhìn quanh xem chỗ nào có thể giấu được chiếc ống đựng bản viết cổ, cuối cùng em giấu nó vào giữa đống chăn ở cuối giường, để nó nằm dọc theo mép đệm sao cho không trồi lên. Rồi trước khi sự lo lắng có thể làm em thay đổi ý tưởng mới này, em vội bước ra khỏi nhà trong ánh chiều êm đềm, tay cầm chặt cuốn sách nhỏ.

* * *

Nhà thờ nằm trên đỉnh đồi dường như tách biệt hẳn khỏi vùng biển. Từ đây Jane không nhìn thấy gì ngoài cây cối và những quả đồi, thậm chí chỉ cách chừng hai mươi yard phía cuối đường cũng không còn thấy những ngôi nhà nhỏ trong làng đâu nữa. Ngôi nhà thờ màu xám, vuông vức với tháp chuông thấp và những trụ cổng lớn đằng trước, như thể nằm trong một thung lũng đầy cây cối nào đó cách xa biển đến hàng trăm dặm.

Trong khu vườn của nhà thờ, một ông già gầy còm mặc áo cộc tay và quần đeo dây đang cắt cỏ bằng một cái kéo lớn. Jane dừng lại bên này tường gần chỗ ông nhất và gọi to: "Ông làm ơn cho cháu hỏi có phải nhà cha xứ ở đằng kia không ạ?"

Ông già thở khò khè, vòng tay ra sau để chống lưng đứng thẳng dậy. "Đúng rồi đấy," ông trả lời ngắn gọn rồi tiếp tục đứng đó, nhìn chằm chằm vô cảm, dõi theo em băng qua đường lên đến tận đoạn rẽ. Jane nghe thấy tiếng bước chân mình trên con đường rải sỏi lạo xạo thật ồn ào trong buổi chiều tĩnh mịch. Ngôi nhà xám to lớn vuông vức với những khung cửa sổ trống vắng không một chút sinh khí, nom như đang thách em đến gần quấy rầy chúng.

Nếu đây là một ngôi nhà cho cha xứ thì nó thật quá tồi tàn, em nghĩ. Sỏi trên lối đi xen lẫn cỏ dại, trong khu vườn hoang tàn những bụi tú cầu khẳng khiu không ai chăm sóc, cỏ trên bãi đất mọc cao lưng người. Em nhấn nút chuông ở bên cạnh cánh cửa đã tróc hết sơn, và nghe thấy tiếng chuông thoảng từ trong nhà vọng ra.

Một hồi lâu sau, khi em bắt đầu nhẹ cả người nghĩ rằng không có ai ở nhà trả lời chuông thì bỗng nghe tiếng chân người bên trong nhà. Cánh cửa mở ra, kêu lên kèn kẹt một cách bực tức như thể nó chẳng mấy khi được mở.

Đứng bên trong là một người đàn ông cao và đen, xộc xệch trong chiếc áo khoác thể thao cũ kỹ, khuôn mặt trông gớm ghiếc với cặp lông mày sâu róm đen, rậm rì chưa từng thấy mọc liền nhau ngang trên trán. Ông ta nhìn Jane trừng trừng:

"Gì vậy?" Giọng ông ta rất trầm, không có chút âm sắc Cornwall nào.

"Dạ có ông Hawes-Mellor ở đây không ạ?"

Người đàn ông cao lớn cau mày. "Ông gì?"

"Dạ ông Hawes-Mellor ạ. Cha xứ ấy ạ."

Bộ mặt người đàn ông giãn ra đôi chút, dù vậy cái nhìn dưới cặp lông mày đen sì vẫn không dịu đi chút nào. "À, ta biết rồi. Ta e rằng ông Hawes-Mellor không còn là cha xứ ở đây nữa. Ông ấy đã mất cách đây vài năm rồi."

"Ồ, vậy ư," Jane nói, và bước lùi ra khỏi ngưỡng cửa, không hề luyến tiếc vì có cơ hội để rời khỏi nơi đây. "Ồ, vâng, nếu thế thì..."

"Có lẽ ta có thể giúp được gì đấy," ông ta nói bằng cái giọng trầm nghe thật ảo não. "Tên ta là Hastings. Ta đến đây thay cho Cha Hawes-Mellor."

"Ồ, vậy ư," Jane lại nói; em bắt đầu cảm thấy ông Hastings cô độc cùng mảnh vườn hoang tàn và ngôi nhà hiu quạnh lạ kì khiến em rợn cả người. "Ồ, không, không có gì đâu ạ, con không muốn làm phiền đến cha, chỉ là về cuốn sách mà cha xứ trước kia đã viết, cuốn sách chỉ dẫn về ngôi làng này thôi ạ."

Dường như có một vẻ quan tâm thoáng qua khuôn mặt tối sầm của vị cha xứ. "Một cuốn sách về Trewissick hả? Cũng có lời đồn rằng ông đã viết một cuốn sách như thế, nhưng chính ta cũng chưa bao giờ tìm thấy một bản nào cả. Thế con muốn hỏi về điều gì? Nếu con muốn tìm cuốn sách ấy thì ta e rằng không giúp gì được cho con đâu..."

"Dạ, không đâu ạ," Jane trả lời, không giấu được sự hãnh diện. "Con có một quyển đây này." Em giơ quyển sách nhỏ lên cho cha xem. "Con muốn hỏi một vài điểm về ngôi làng mà con nghĩ là có thể Đức Cha đã viết sai."

Vị cha xứ nhìn như hút mắt vào cuốn sách, mở miệng định nói điều gì đó nhưng hình như lại thay đổi ý định. Ông ta mở rộng cánh cửa và cố nhếch mép nở một nụ cười gượng gạo. "Được rồi, hãy vào trong này một lát, cô bé ạ, và chúng ta sẽ cùng xem có thể làm được gì nào. Ta cũng biết một chút về Trewissick sau nhiều năm sống ở đây."

"Cám ơn cha," Jane lo lắng nói. Em bước qua cánh cửa, buộc lại chiếc nơ trên đuôi tóc trong khi theo cha xứ đi xuống một hành lang nhỏ, trong lòng hy vọng trông em không đến nỗi nhếch nhác quá. Nhưng nếu có ăn mặc rách rưới tả tơi đi chăng nữa thì trông em cũng chẳng hề lạc lõng, em nghĩ và nhìn xung quanh, đây là một trong những ngôi nhà tồi tàn và không được chăm sóc nhất mà em từng thấy. Nó to lớn, lộn xộn, và có vẻ rộng rãi hơn Ngôi nhà Xám; nhưng sơn thì đang tróc ra từng mảng, tường nhà bẩn thỉu, còn sàn nhà thì trống trơn chỉ vương vãi một hai tấm thảm nhỏ bạc màu. Em bắt đầu cảm thấy thương hại cho vị cha xứ lúc ông ta sải bước đằng trước dẫn đường cho em.

Ông ta dẫn em tới một căn phòng chắc chắn là phòng làm việc, vì trong có kê một cái bàn lớn trên mặt chất đầy giấy tờ, hai cái ghế mây méo mó cùng cái nệm bạc phếch và rất nhiều giá sách xung quanh tường. Khung cửa sổ cao lớn kiểu Pháp mở rộng nên có thể nhìn thấy bãi cỏ dài mà Jane đã thoáng thấy trên lối đằng trước.

"Nào," cha xứ vừa nói vừa ngồi xuống bên chiếc bàn và vội vàng dọn một khoảng trống phía trên mớ giấy tờ hỗn độn. "Con hãy ngồi xuống và nói cho ta biết con định hỏi cha Hawes-Mellor về vấn đề gì? Con đã tìm thấy cuốn sách của ông ấy phải không?"

Cha xứ lại dán mắt vào cuốn sách trong tay Jane. Dường như ông ta đã bị cuốn sách mê hoặc.

"Dạ, thưa cha," Jane nói, "Cha có muốn xem qua không ạ?" Em cầm quyển sách đưa cho ông ta.

Cha xứ cầm lấy rất nhẹ nhàng từ tốn, các ngón tay dài khép lại quanh cuốn sách nhỏ cứ như thể đó là vật gì cực kỳ quý giá vậy. Ông ta không mở nó ra, mà đặt nó lên trên bàn trước mặt và chăm chú nhìn đến độ tưởng như không phải ông ta đang đọc mà là đang nghĩ về chuyện gì đó khác. Sau đó ông ta quay bộ mặt nghiêm nghị với đôi lông mày rậm rì dữ tợn về phía Jane một lần nữa.

"Con đang đi nghỉ ở đây à?"

"Vâng ạ. Tên con là Jane Drew. Cả nhà con đang ở trong Ngôi nhà Xám."

"Thật ư? Nhà đó ta không quen lắm." Cha Hastings mỉm cười hơi gượng gạo. "Thuyền trưởng Toms chưa bao giờ có thời 1e28 gian cho ta, ta e là vậy. Một người kỳ lạ và cô độc."

"Cả nhà con cũng chưa gặp ông ấy," Jane nói. "Ông ấy đi nước ngoài rồi."

"Và cuốn sách này." Những ngón tay của cha xứ vuốt ve cuốn sách gần như vô thức. "Nó có hay không?"

"Ôi, tuyệt vời ạ. Con thích tất cả những câu chuyện về Trewissick, cái thời còn có bọn buôn lậu và nhiều thứ khác nữa." Trong giây lát Jane bỗng phân vân tự hỏi không biết có nên nói về tấm bản đồ đó hay không. Nhưng sự tò mò đã chiến thắng mọi nỗi nghi ngờ. Em đứng dậy, đi đến đứng cạnh ông ta, lật cuốn sách đến trang có bản đồ vẽ phần Nam Cornwall. "Thưa cha, đây chính là phần mà con phân vân, hình dạng của đường bờ biển. Con muốn biết là liệu trước đây nó đã từng có hình dáng khác hay không?"

Đứng sau lưng cha xứ nên em không thể nhìn thấy khuôn mặt của ông ta, nhưng vai ông ta dường như cứng đờ lại khi nhìn xuống tấm bản đồ, những ngón tay đang đặt trên bàn khẽ uốn cong vào trong lòng bàn tay.

"Một câu hỏi kỳ lạ nhỉ," ông ta nói.

"Con chỉ thấy băn khoăn thôi."

"Cha thấy một đường bờ biển nữa được vẽ bằng chì ngoài đường bờ biển in trong bản đồ này. Con vẽ đấy à?"

"Vâng ạ."

"Theo trí tưởng tượng của con?" Cái giọng trầm của ông ta hạ xuống rất khẽ.

"Cũng gần như thế. Ờ, có nghĩa là... con đã nhìn thấy như vậy ở đâu đó, trong một quyển sách thì phải." Jane lúng túng, cố tránh đề cập tới bản viết cổ mà chúng đã tìm thấy trên tầng áp mái mà không phải nói dối. "Thưa cha Hastings, nếu cha biết về Trewissick thì từ trước tới nay đường bờ biển ở đây có giống như bây giờ không ạ?"

"Ta nghĩ là như vậy. Đường bờ biển toàn đá granite phải mất rất lâu thời gian mới có thể thay đổi." Ông ta chăm chú nhìn vào đường vẽ chì. "Con nói là con đã nhìn thấy đường bờ biển như thế này trong một quyển sách phải không?"

"Dạ, trong một quyển sách, hay có lẽ trên một tấm bản đồ hoặc ở đâu đó mà con không nhớ được ạ," Jane nói chung chung.

"Ở trong Ngôi nhà Xám phải không?"

"Chúng con không được động vào sách vở của ông thuyền trưởng đâu," Jane trả lời ngay, quên mất rằng cuốn sách chỉ dẫn cũng là một trong những cuốn sách của ông ấy.

"Nhưng chắc chắn là các con đã xem qua chúng, phải không?" Cha xứ đứng dậy, cao lừng lững bên cạnh em, đưa cánh tay dài ra với lấy một quyển sách ở trên giá. Ông ta đưa nó cho Jane; quyển sách rất cổ, bìa bọc da bóng, đã sờn, những trang sách kêu sột soạt và bốc mùi ẩm mốc khi em mở ra. Tên sách là Những câu chuyện về Lyonesse và rất nhiều chữ "s" được in giống như là "f"(1).

"Con đã nhìn thấy quyển sách nào giống như thế này chưa?" Giọng ông ta đầy vẻ thôi thúc. Ông ta đứng giữa Jane và cây đèn nên khi em ngước lên nhìn thì chẳng thấy gì ngoài ánh sáng mờ mờ của ánh đèn phản chiếu trong đôi mắt trên khuôn mặt bị sấp bóng của ông ta. Trong một thoáng, cha xứ trông bỗng đầy vẻ hiểm ác, và em lại thấy rần rần dọc sống lưng cái cảm giác lành lạnh bứt rứt đã thành quen thuộc trong kỳ nghỉ này: cái cảm giác có gì đó rất bí ẩn, mọi người khác ai cũng biết cả chỉ ba anh chị em là vẫn mù mờ .

"Dạ, con nghĩ là chưa ạ."

"Con chắc chắn chứ? Có lẽ một cái tựa đề như thế chẳng hạn? Hay là con đã trông thấy hình bản đồ trong một quyển sách tương tự như thế."

"Dạ, chưa thật ạ. Chúng con vẫn chưa xem cái gì cả."

"Không lẽ con chưa từng thấy một cái gì đó trên giá sách tương tự thế này?"

"Thực sự là con không biết mà," Jane nói, ngồi lùi lại trên chiếc ghế của em khi nghe thấy giọng nói khẩn thiết của cha xứ: "Sao cha không đi hỏi ông thuyền trưởng ấy?"

Cha Hastings lấy lại quyển sách trong tay em và cất vào chỗ cũ trên giá. Bộ mặt ông ta lại trở nên cau có và khắc nghiệt như trước. "Ông ấy không phải là người cởi mở," ông ta nói cụt lủn.

Cơn bứt rứt mỗi lúc một thôi thúc Jane dữ dội hơn, và em bắt đầu bồn chồn đổi hết chân này sang chân kia.

"Thôi, con phải về nhà đây ạ," em lên tiếng, dùng một câu mà mẹ thường nói với hy vọng nghe sẽ rất lịch sự. "Con rất lấy làm xin lỗi vì đã đến làm phiền cha." Em lo ngại đưa mắt nhìn một vòng từ cửa sổ đến chỗ cửa ra vào.

Cha xứ đang đứng lặng người mải mê suy nghĩ, giờ như hồi tỉnh lại, và tiến về phía khung cửa sổ kiểu Pháp. "Con ra về bằng lối này sẽ nhanh hơn. Cửa trước rất ít khi ta dùng."

Cha xứ chìa tay ra cho Jane. "Ta rất vui mừng được làm quen với con, cô bé Drew ạ. Ta xin lỗi vì đã không thể giúp gì cho con được, nhưng ta phải nói thật là rất ít khả năng bờ biển có đặc điểm gì khác mà Cha Hawes-Mellor lại không vẽ trên bản đồ. Vì theo ta biết thì ông là một người vẽ bản đồ rất nổi tiếng. Ta rất vui vì con đã đến thăm ta."

Ông ta nghiêm trang nghiêng đầu xuống khi bắt tay Jane, một động tác cổ lỗ và kỳ lạ làm em đột nhiên lại nhớ tới ông Withers khi ông ta chào mọi người ở Ngôi nhà Xám để đi về. Nhưng động tác của cha xứ có vẻ thành thạo hơn, em nghĩ, như thể ông Withers đã cố tình bắt chước vậy.

"Con chào cha," em nói nhanh rồi chạy xuyên qua bãi cỏ cao, mềm mại về phía lối đi của ngôi nhà tồi tàn và yên ắng, để ra con đường dẫn về nhà.

Hết chương 4. Chương tiếp theo sẽ được cập nhật một cách nhanh nhất.

Truyen8.mobi chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!

Nguồn: truyen8.mobi/wDetail/control/chapter_id/25883


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận