Trong những ngày tiếp theo, đội quân của Taran tìm mọi cách để bắt kịp với bọn Vạc Dầu và liên tục lao mình ra chặn đường đi của bọn chiến binh đang rút lui, nhưng họ tiến bước rất chậm chạp và khó nhọc. Taran biết rằng Coll đã nói đúng khi ông gọi Dãy Đồi Bran-Galedd vừa là bạn vừa là thù: những khe nứt giữa vách đá và hẻm núi hẹp, những con dốc dựng đứng nơi mặt đất bỗng sụt xuống thành những vực thẳm lạnh giá giúp nhóm bạn có được hy vọng duy nhất để cản bước đội quân bất tử vẫn đang tiến tới như một dòng sông sắt. Nhưng cùng lúc đó, từ các vách đá cao phía tây, những luồng gió chở nặng tuyết liên hồi nã vào đội quân kiệt lực tựa như những cây búa bằng băng. Các lối mòn uốn khúc trơn trượt và hiểm hóc. Các khe núi sâu thì chứa đầy tuyết, người và ngựa có thể bị sụt xuống đó và không thể cứu được.
Trên dãy núi này thì người dẫn đường đáng tin cậy nhất của Taran chính là Llassar. Với đôi chân vững chãi và quen thuộc những con đường núi, chàng thanh niên của Vùng đất Tự do giờ phải làm người dẫn dắt một đoàn quân khác, lầm lì hơn đàn cừu của mình. Nhiều lần, các giác quan sắc bén của Llassar đã giúp cho đội quân khỏi bị rơi vào cái bẫy giá băng của những khe núi bị giấu kín dưới lớp tuyết, và chú đã phát hiện ra nhiều lối đi mà không ai khác nhìn thấy được. Nhưng dù thế đội quân tả tơi vẫn tiến lên hết sức chậm chạp, và tất cả đều khốn khổ vì giá lạnh, cả người lẫn vật. Chỉ có con mèo khổng lồ, Llyan, là không hề chú tâm đến luồng gió cắt da cắt thịt đang xuyên những mũi kim lạnh ngắt vào mặt đội quân.
“Nó có vẻ khá là thích thú,” Fflewddur thở dài, quấn mình chặt hơn với chiếc áo choàng. Anh đã bắt buộc phải trèo xuống khỏi lưng Llyan, bởi vì bỗng dưng nó lại muốn mài bộ vuốt kếch xù của mình vào một thân cây. “Hẳn tôi cũng sẽ thích thú như vậy,” anh ta nói thêm, “nếu tôi có bộ lông như của nó.”
Gurgi rầu rĩ đồng tình. Kể từ khi lên núi, con vật khốn khổ đã càng ngày càng giống một cụm tuyết lông lá hơn. Cái lạnh thậm chí còn khiến Glew thôi không kêu rên nữa; gã khổng-lồ-một-thời kéo mũ lên trùm kín đầu và gần như không thấy mặt y đâu ngoại trừ cái chóp mũi đóng băng băng bè bè của y. Cả Eilonwy cũng im lặng khác hẳn ngày thường. Taran biết lòng cô cũng đang trĩu nặng như chính lòng cậu vậy.
Thế nhưng Taran vẫn tự bắt mình cố hết sức gạt nỗi đau buồn sang bên. Cuộc truy đuổi bền bỉ của cậu rốt cuộc cũng đã đưa các chiến binh của cậu đến gần bọn Vạc Dầu, và giờ cậu chỉ nghĩ xem làm cách nào để cản trở bước tiến hành quân về Annuvin của chúng. Cũng như ở vùng Đồng Hoang Đỏ, đội quân xây nên các bức rào chắn bằng cành cây và dựng chúng ngang qua một khe núi hẹp, làm việc cho đến khi mồ hôi tuôn ướt đẫm quần áo và đông cứng lại trong làn gió giá buốt. Lần này thì những tên chiến binh mặt mũi tím bầm đã tràn qua bức rào chắn, câm lặng dùng gươm chém gãy các cành cây. Tuyệt vọng, đội quân Tự Do lao vào đánh giáp lá cà với kẻ địch đang tiến tới; nhưng bọn Vạc Dầu tàn nhẫn đâm chém để xuyên qua hàng quân. Taran và đội chiến binh Tự Do tìm cách chặn đường bằng những tảng đá nặng; nhưng ngay cả với sự giúp sức của hai cánh tay vạm vỡ của Hevydd, công việc ấy vẫn vất vả quá sức họ, và số người hy sinh chỉ càng tăng thêm.
Ban ngày trở thành một cơn ác mộng trắng xóa đầy tuyết và gió. Ban đêm thì họ đông cứng lại với nỗi tuyệt vọng, và tựa như những con vật kiệt sức, đội quân đành tìm chỗ trú ẩn giữa các tảng đá nhô ra và các con đèo chẳng che chắn được là bao. Thế nhưng việc ẩn nấp của họ chẳng đem lại kết quả gì, bởi vì các chiến binh Tự Do đã bị phát hiện và mọi cử động của họ đã nhanh chóng bị những tên dẫn đầu của quân địch nhìn thấy. Mới đầu thì bọn Vạc Dầu đã không thèm đếm xỉa gì đến đội quân rời rạc kiệt quệ; giờ thì bọn lính bất tử không chỉ đi nhanh hơn mà chúng còn tiến gần hơn đến các kỵ sĩ của Taran như thể sẵn sàng gây chiến.
Điều này khiến Fflewddur, vốn đang cưỡi ngựa đi bên Taran ở đầu hàng quân, thấy bối rối khó hiểu.
Taran cau mày và lầm lì lắc đầu. “Tôi hiểu điều này quá rõ,” cậu nói. “Sức mạnh của chúng đã giảm dần khi chúng ở cách xa Annuvin. Khi đến gần hơn, sức lực quay trở lại với chúng, và trong khi chúng ta yếu đi thì chúng lại trở nên mạnh hơn. Trừ phi chúng ta có thể cản chúng lại hoàn toàn, không thì mọi cố gắng của chúng ta sẽ chẳng làm được gì hơn ngoài tự khiến mình kiệt sức mà thôi. Chẳng mấy chốc nữa,” cậu cay đắng nói thêm, “chúng ta sẽ tự đánh bại mình thê thảm hơn cả bọn chiến binh của Arawn có thể hy vọng làm được.”
Nhưng cậu không nhắc gì đến một nỗi lo sợ khác đang ở trong tim tất cả bọn họ. Mỗi ngày trôi qua càng cho họ thấy rõ hơn rằng bọn Vạc Dầu đang tiến về phía nam, rời khỏi Dãy Đồi Bran-Galedd và lại hướng về con đường dễ dàng, nhanh chóng hơn xuyên qua vùng Đồng Hoang Đỏ. Với nỗi hài lòng chua chát, Taran nghĩ rằng điều này có nghĩa là kẻ địch vẫn sợ bị họ đuổi theo và sẽ tìm mọi cách để thoát khỏi họ.
Đêm đó trời đổ tuyết, và đội quân phải dừng lại, mắt mờ đi vì những bông tuyết xoáy lộn và vì sự mệt mỏi của chính mình. Trước lúc bình minh, bọn Vạc Dầu xông vào tấn công khu trại của họ.
Mới đầu, Taran tưởng là chỉ có một nhóm trong số những tên chiến binh câm lặng đã vượt qua được tiền đồn của cậu. Trong khi những người lính Tự Do rút vũ khí lao tới giữa tiếng ngựa hí vang kinh hoàng và tiếng gươm chạm nhau loảng xoảng, cậu nhanh chóng nhận ra rằng toàn bộ quân địch đang xẻ qua hàng rào chắn của họ. Cậu liền thúc Melynlas vào giữa trận chiến. Fflewddur, với Glew bám chặt vào thắt lưng mình, đã trèo lên lưng Llyan, và nó nhảy những bước dài để tham chiến cùng với đội phòng ngự đang bị bao vây. Giữa dòng binh lính ồ ạt, Taran không nhìn thấy Eilonwy và Gurgi đâu. Như một lưỡi gươm tàn bạo, bọn Vạc Dầu đã chẻ hàng kỵ sĩ Tự Do ra làm đôi và đang xông lên mà không hề bị cản đường, giẫm đạp lên bất kỳ ai chống trả lại chúng.
Suốt ngày hôm ấy trận chiến không cân sức diễn ra hết sức dữ dội trong khi các chiến binh Tự Do cố gắng một cách vô ích để tập trung lực lượng của mình lại. Đến lúc hoàng hôn thì lối đi của bọn Vạc Dầu đã trở thành một con đường đẫm máu của những người bị thương và hy sinh. Với một đợt công kích chết người, đội lính Vạc Dầu đã thoát khỏi những người truy đuổi và đang nhanh chóng rời khỏi dãy đồi không chút trở ngại.
Eilonwy và Gurgi đã mất tích.
Lo sợ và thất đảm, Taran cùng Fflewddur lao qua những chiến binh kiệt quệ còn lại của đội quân, họ đang dồn hết sức lực để lấy lại hàng ngũ. Những ngọn đuốc đã được thắp lên để làm hiệu những điểm tập trung cho những người bị lạc và bị thương đang lang thang ngơ ngác giữa thi thể của đồng đội mình. Suốt cả đêm Taran điên cuồng lùng kiếm, thổi tù và và thét lớn gọi tên hai người bạn bị mất tích. Cùng với Fflewddur, cậu đã cưỡi ngựa đi quá bãi chiến trường, hy vọng sẽ thấy được tông tích của người này hay người kia. Nhưng chẳng thấy gì hết, và lớp tuyết mới rơi xuống lúc bình minh đã phủ hết mọi dấu vết.
Đến giữa buổi sáng thì những người còn sống sót đã tập trung cả lại. Đợt tấn công của bọn Vạc Dầu đã gây thiệt hại nặng nề cho cả người lẫn ngựa; trong số các chiến binh Tự Do, cứ ba người lại có một đã ngã xuống dưới lưỡi gươm của kẻ địch bất tử; còn về đàn ngựa thì hơn một nửa đã bị giết. Lluagor phóng đi với chiếc yên trống trơn không người. Eilonwy và Gurgi không nằm trong s ố những người bị sát hại cũng như những người còn sống.
Giờ đã đâm ra tuyệt vọng, Taran liền chuẩn bị đi tìm kiếm trong những dãy núi xa hơn. Nhưng Fflewddur, mặt nghiêm nghị và đầy lo âu, nắm lấy cánh tay Taran kéo cậu lại.
“Nếu chỉ đi một mình thì cậu không thể mong tìm thấy họ được đâu,” chàng ca sĩ cảnh báo. “Cậu cũng không thể bỏ phí thời gian hay cử một vài người lập ra một đội tìm kiếm được. Nếu chúng ta muốn cản cái lũ cục súc xấu xa ấy lại trước khi chúng đến được vùng Đồng Hoang, thì chúng ta phải đi nhanh hết sức mình. Những người bạn Tự Do của cậu đã sẵn sàng để lên đường rồi đấy.”
“Ông và Llassar phải chỉ huy họ thôi,” Taran trả lời. “Một khi đã tìm thấy Eilonwy và Gurgi rồi, chúng tôi sẽ tìm cách bắt kịp với các bạn. Hãy đi nhanh lên. Rồi chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau.”
Chàng ca sĩ lắc đầu. “Nếu đó là mệnh lệnh của cậu thì đành vậy. Nhưng, theo như những gì tôi nghe được thì chính Taran Người Lang Thang mới là người kêu gọi người dân Tự Do đi theo ngọn cờ của mình, và họ đã đáp lại vì sứ mạng của Taran Người Lang Thang. Họ sẽ đi đến nơi nào cậu dẫn họ tới. Họ sẽ không làm điều đó vì bất kỳ ai khác đâu.”
“Thế là thế nào,” Taran kêu lên, “ông định bắt tôi phải bỏ mặc Eilonwy và Gurgi trong cảnh hiểm nguy hay sao?”
“Đó là một quyết định khó khăn,” Fflewddur trả lời. “Than ôi, không ai có thể khiến nó nhẹ nhàng hơn cho cậu được.”
Taran không trả lời. Những lời của Fflewddur càng làm cậu thêm đau đớn bởi vì chúng là sự thật. Hevydd và Llassar đã không đòi hỏi gì hơn ngoài được chiến đấu bên cạnh cậu. Llonio đã bỏ mạng ở Caer Dathyl. Không người chiến binh Tự Do nào mà lại không bị mất một người anh em hay bạn bè. Nếu cậu bỏ mặc họ để đi tìm Eilonwy thì liệu chính cô có nghĩ rằng cậu đã lựa chọn đúng đắn hay không? Đội kỵ sĩ đang chờ lệnh của cậu. Melynlas bồn chồn cào cào đất.
“Nếu Eilonwy và Gurgi đã bị sát hại,” Taran nói với giọng đau khổ, “thì tôi không còn giúp gì cho họ được nữa. Nếu họ còn sống thì tôi phải hy vọng và tin tưởng rằng họ sẽ tìm được đường về với chúng ta.” Cậu khó nhọc trèo lên yên. “Nếu họ còn sống,” cậu lẩm bẩm.
Không dám liếc nhìn lại dãy núi im lìm, trống trải, cậu phóng về phía đội quân.
Đến khi đội chiến binh Tự Do lại có thể tiếp tục hành quân thì bọn Vạc Dầu đã bỏ xa họ và đang di chuyển không chậm trễ xuống chân đồi Bran-Galedd. Ngay cả khi đi nhanh hết sức, chỉ thỉnh thoảng mới dừng lại để nghỉ một chốc, các kỵ sĩ Tự Do cũng không lấy lại được là bao quãng thời gian quý báu mà họ đã bỏ mất.
Mỗi ngày Taran đều căng mắt tìm kiếm một dấu hiệu gì đó của Eilonwy và Gurgi, vẫn hy vọng rằng cô Công chúa sẽ tìm được cách nào đó để lại bắt kịp với đội quân, bất chấp tất cả. Nhưng hai người bạn đã hoàn toàn biến mất, và những lời cả quyết vui vẻ một cách tuyệt vọng của Fflewddur rằng chỉ một chốc nữa thôi họ sẽ xuất hiện nghe thật giả dối và trống rỗng.
Đến giữa buổi sáng ngày hành quân thứ ba thì một người kỵ sĩ mở đường báo rằng có những di chuyển kỳ lạ trong cánh rừng thông ở bên sườn họ. Taran ra hiệu cho các chiến binh của mình dừng lại, vội vã ra lệnh cho họ sẵn sàng chiến đấu, rồi đi cùng với Fflewddur để tận mắt mình nhìn xem. Qua rặng cây nằm phía dưới cậu một quãng, cậu không thấy gì hơn ngoài sự lay động loáng thoáng, như thể bóng các cành cây đang rung rinh trên nền tuyết. Nhưng chỉ một thoáng sau chàng ca sĩ bỗng phấn khởi reo lên và Taran vội thổi chiếc tù và của mình.
Từ trong rừng, một hàng dài những người lính thấp lùn, chắc nịch bước ra. Mặc áo choàng có mũ trùm màu trắng, họ gần như vô hình trên nền tuyết; và chỉ đến khi họ bắt đầu đi ngang qua một khoảng đất có đá thì Taran mới phân biệt được người này với người khác. Những đôi ủng da chắc chắn của họ, buộc bằng dây da, gần như không lộ ra bên dưới tấm áo choàng, và nom chẳng khác gì những gốc cây đang nhanh chóng lướt tới. Các hình thù nổi lên trên vai hoặc ở thắt lưng của họ thì Taran đoán là vũ khí hoặc túi đựng thức ăn.
“Ôi Belin Vĩ Đại!” Fflewddur nói to. “Nếu đó đúng là người tôi nghĩ thì...”
Taran đã nhảy xuống ngựa và đang lao xuống con dốc, vẫy vẫy chàng ca sĩ theo mình. Đi đầu đội quân nọ, mà tổng số hẳn phải hơn một trăm người, là một hình dáng thấp lùn quen thuộc. Mặc dù cũng mặc quần áo trắng bó kín, mái tóc đỏ rực của ông vẫn xòe ra khỏi diềm chiếc mũ trùm như một vành lửa. Trong một tay, ông cầm chiếc rìu ngắn lưỡi nặng, còn trong tay kia là một cây gậy to tướng. Ông đã nhìn thấy Taran với Fflewddur và bước đến để gặp họ.
Chỉ trong chốc lát, chàng ca sĩ và Taran đã siết chặt tay ông, vỗ mạnh lên đôi vai vạm vỡ của ông, và hò reo vô số lời chào và câu hỏi đến nỗi người mới đến phải chụp tay lên ôm đầu.
“Doli!” Taran kêu lên. “Ông bạn già Doli tốt bụng!”
“Tôi đã nghe cậu nói mấy lần rõ lắm rồi,” ông lùn khịt mũi. “Nếu tôi có nghi ngờ việc các bạn nhận ra tôi thì các bạn đã hoàn toàn thuyết phục được tôi rồi đấy.” Ông đưa tay lên chống nạnh và cau có nhìn lên, vẫn cố hết sức mình để tỏ vẻ cục cằn như thường lệ. Bất chấp cố gắng của ông, cặp mắt đỏ của ông vẫn sáng lên vui sướng và một nụ cười tươi tắn nở trên mặt ông, và ông cố chuyển nó thành cái cau mặt quen thuộc của mình mà không được.
“Các vị làm chúng tôi phải đuổi theo hết cả hơi,” Doli tuyên bố, ra hiệu cho đội quân của mình đi theo Taran lên dốc. “Chúng tôi đã nhận được tin là các vị đã đi lên núi, nhưng chẳng thấy tăm hơi các vị đâu cho đến tận hôm nay.”
“Doli!” Taran kêu lên, vẫn còn kinh ngạc vì bất ngờ nhìn thấy người bạn đã lâu không gặp mặt này. “Vận may nào đã đem ông đến cho chúng tôi vậy?”
“Vận may ấy à?” Doli cằn nhằn. “Cậu g ọi chuyện cuốc bộ trong gió và tuyết suốt ngày đêm là vận may à? Tất cả người Mỹ Tộc chúng tôi đều đang hành quân cả, không ở nơi này thì nơi khác_theo Lệnh của Vua Eiddileg. Sứ mệnh của tôi là đi tìm cậu và giúp đỡ cậu. Tôi nói thế này cậu đừng mếch lòng, nhưng tôi có thể đoán được rằng nếu có ai ở Prydain này cần được giúp đỡ thì hẳn đó phải là cậu. Thế là chúng tôi đã đến đây.”
“Gwystyl đã làm tốt nhiệm vụ của mình rồi,” Taran nói. “Chúng tôi biết ông ấy đang đi về vương quốc của các vị, nhưng lại e rằng Vua Eiddileg sẽ không nghe theo ông ấy.”
“Tôi không thể nói rằng Đức Vua tỏ ra vui vẻ được,” Doli trả lời. “Thật ra, ngài đã gần như nổ tung. Tôi cũng có mặt ở đó khi ông bạn ủ rũ của chúng ta đem tin về cảnh ngộ của các bạn đến, và tôi cứ ngỡ là màng nhĩ mình đã bị rách vì những tiếng quát tháo của Eiddileg rồi! Bọn ngớ ngẩn! Lũ đần độn vụng về! Đám khổng lồ cục mịch! Tất cả các ý kiến thường lệ của ngài về loài người. Nhưng rồi ngài cũng bằng lòng, bất chấp lời quát tháo của mình. Hơn hết, ngài vẫn còn nhớ cậu đã cứu cho người Mỹ Tộc khỏi bị biến thành ếch, chuột chũi và các thứ đại loại thế. Đó là điều có ý nghĩa nhất mà bất kỳ người trần nào đã giúp được cho chúng tôi, và Eiddileg muốn trả ơn cậu.
“Đúng thế, người Mỹ Tộc đang hành quân,” Doli nói tiếp. “Than ôi, chúng tôi đã đến Caer Dathyl quá muộn. Nhưng Vua Smoit thì có lý do để cảm ơn chúng tôi đấy. Có một đội quân Mỹ Tộc đang chiến đấu bên cạnh ông ấy. Các lãnh chúa phương bắc đã sẵn sàng cho chiến trận, và chúng tôi cũng sẽ tham gia vào việc đó nữa, điều ấy thì các bạn có thể chắc chắn.”
Doli, mặc dù vẫn nói bằng giọng cục cằn, rõ ràng là rất tự hào về các tin tức của mình. Ông vừa hết sức sôi nổi kể về một trận chiến mà đội quân Mỹ Tộc đã khiến kẻ địch lúng túng bằng cách làm cho cả một thung lũng đầy tiếng vang đến nỗi quân địch phải kinh hoàng bỏ chạy vì tưởng mình đã bị bao vây, và đang định kể một câu chuyện khác về lòng can đảm của người Mỹ Tộc, thì bỗng ngừng bặt lại vì thấy vẻ lo ngại trên mặt Taran. Doli lắng nghe trong khi Taran kể lại chuyện gì đã xảy ra với những người bạn khác, và giờ lại đến lượt ông lùn đâm ra nghiêm nghị, trầm tư. Sau khi Taran kể xong, Doli không nói gì một hồi lâu.
“Về Eilonwy và Gurgi,” cuối cùng ông lùn cũng lên tiếng, “thì tôi đồng ý với Fflewddur. Họ sẽ tìm cách lo liệu được thôi. Và nếu tôi hiểu đúng Công chúa thì tôi sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi thấy cô phi ngựa dẫn đầu quân đội của chính mình đâu.
“Với bọn Vạc Dầu thì chúng ta đều khó khăn như nhau cả,” Doli nói tiếp. “Ngay cả người Mỹ Tộc chúng tôi cũng không làm được gì nhiều để chống lại những kẻ như chúng. Tất cả những mưu kế để đánh lừa người thường đều vô dụng. Bọn Vạc Dầu không phải là người_tôi nên nói chúng còn không được bằng con người nữa. Chúng không nhớ mình đã từng là ai, không sợ hãi, không hy vọng_không có thứ gì có thể chạm được tới chúng.” Ông lùn lắc đầu. “Và tôi thấy rằng chiến thắng của chúng ta ở bất kỳ nơi nào khác cũng sẽ hóa thành công cốc trừ khi chúng ta tìm được cách nào đó để xử lý đám vô lại ấy của Annuvin. Gwydion đã nói đúng. Nếu chúng không bị ngăn lại thì... _thôi, các bạn ạ, chúng ta phải tự mình làm việc ấy thôi, và điều đó là dứt khoát rồi.”
Đến lúc này thì đội quân Mỹ Tộc đã đến chỗ hàng chiến binh của Taran và một tiếng xì xào kinh ngạc truyền đi giữa những người lính Tự Do. Tất cả đều đã được nghe về tài năng và lòng gan dạ của đội quân của Vua Eiddileg, nhưng chưa ai từng được gặp mặt họ cả. Ông Thợ Rèn Hevydd ngắm nghía những cây rìu và đoản đao của họ, nói rằng chúng sắc và được tôi luyện tốt hơn bất cứ thứ gì ông có thể làm được. Về phần mình thì những chiến binh Mỹ Tộc hoàn toàn không tỏ ra bối rối chút nào; người cao nhất trong đoàn chiến binh của Eiddileg hầu như không cao hơn đầu gối của Llassar, nhưng những người Mỹ Tộc ngắm nhìn các đồng đội người thường của mình với vẻ âu yếm thân thiện dành cho những đứa trẻ lớn quá khổ.
Doli vỗ vỗ đầu Llyan và con mèo khổng lồ gừ gừ sung sướng khi nhận ra ông. Khi nhìn thấy Glew đang co ro ngồi trên một hòn đá và cáu kỉnh nhìn những người mới đến, ông lùn tóc đỏ liền thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc. “Ai... _hay là cái gì... _thế kia? Quá to để ngồi lên một cây nấm độc và quá nhỏ để ngồi lên bất kỳ cái gì khác!”
“Tôi lấy làm mừng là ông đã hỏi,” Glew trả lời. “Đó là một câu chuyện mà tôi dám chắc là ông sẽ rất lấy làm thích thú. Tôi đã từng có thời là một người khổng lồ, và hình dáng đáng buồn hiện nay của tôi chính là do, không hơn không kém, sự thiếu quan tâm của những kẻ... _” y cau có nhìn Taran và chàng ca sĩ “... _những kẻ mà ít ra cũng phải có một chút quan tâm đến người khác. Vương quốc của tôi_vâng, tôi sẽ rất lấy làm cảm kích nếu ông gọi tôi là Vua Glew_là cái hang lớn nhất, với những con dơi đẹp nhất, trên toàn Đảo Mona. Một cái hang rộng đến nỗi...”
Fflewddur chộp hai tay lên ôm lấy tai. “Thôi đi, gã khổng lồ kia! Đủ rồi! Bọn ta không có thời giờ để nghe những chuyện tầm phào về hang động với dơi chuột của mi. Bọn ta biết mi đã bị đối xử tồi tệ. Mi đã tự mình nói thế với bọn ta nhiều lắm rồi. Hãy tin ta đi, một người họ Fflam rất kiên nhẫn, nhưng nếu ta mà tìm thấy một cái hang thì ta sẽ ném mi vào đó và bỏ mặc mi ở đó liền.”
Mặt Doli bỗng trở nên hết sức trầm ngâm. “Hang động ấy à,” ông lùn lẩm bẩm. Ông bỗng bật ngón tay đánh tách. “Hang động! Nghe tôi này,” ông vội nói. “Cách đây chưa đầy một ngày đường_phải, tôi dám chắc là như vậy_có một hầm mỏ của người Mỹ Tộc. Những viên ngọc và đá quý đẹp nhất đã được khai thác hết rồi, và theo như tôi nhớ thì Eiddileg đã không còn cử ai ra đó làm việc nữa. Nhưng tôi nghĩ là chúng ta có thể đi vào đó. Tất nhiên rồi! Nếu chúng ta men theo lối thông gió chính thì nó sẽ dẫn chúng ta đến gần mép vùng Đ ng Hoang Đỏ. Các bạn sẽ bắt kịp bọn Vạc Dầu trong nháy mắt. Nếu tập trung tất cả quân lính lại thì chúng ta sẽ có thể chặn được chúng bằng cách này hay cách khác. Cách nào thì tôi không biết. Nhưng cái đó giờ không thành vấn đề. Đến lúc ấy rồi hẵng hay.”
Doli nhe răng cười. “Các bạn của tôi, giờ thì các bạn đã có người Mỹ Tộc đi cùng rồi. Khi chúng tôi đã làm việc gì thì chúng tôi sẽ làm đến nơi nến chốn. Điều đầu tiên trong các mối lo ngại của các bạn đã qua rồi. Còn điều thứ hai thì,” ông nói thêm, “đó lại là chuyện hoàn toàn khác.”
Lần đầu tiên kể từ khi rời khỏi Caer Dallben, Glew tỏ ra phấn chấn. Cái ý tưởng về một nơi nom giống một cái hang dường như làm y vui vẻ hơn, mặc dù kết quả của sự vui vẻ này lại là một tràng những câu chuyện huyên thuyên về các chiến công của y khi còn là người khổng lồ. Tuy nhiên, sau một ngày đêm hành quân vất vả, khi Doli dừng lại bên một vách đá cao dựng đứng, thì gã khổng-lồ-một-thời bắt đầu liếc nhìn xung quanh vẻ sợ sệt. Mũi y giật giật và y chớp chớp mắt một cách hoảng hốt. Lối vào cái hầm cũ kỹ mà ông lùn chỉ ra không to hơn một kẽ nứt trên vách đá, gần như không đủ rộng cho lũ ngựa, và lủng lẳng đầy những nhũ băng lấp lánh nom như những cái răng nanh sắc nhọn.
“Không, không,” Glew lắp bắp. “Chỗ này không thể sánh được với vương quốc của ta ở Mona. Không to được bằng nửa nó. Không, các người không thể mong rằng ta sẽ chui vào một cái hố tồi tàn như thế này được.”
Hẳn y đã lùi lại nếu Fflewddur không túm lấy cổ áo y và kéo y theo.
“Thế là đủ rồi, gã khổng lồ ạ!” Chàng ca sĩ quát. “Mi sẽ vào cùng với tất cả chúng ta.” Nhưng chính Fflewddur lại không hào hứng lắm với chuyện dẫn Llyan chui qua khe đá. “Một người họ Fflam thì luôn can đảm,” anh ta lẩm bẩm, “nhưng tôi chưa bao giờ thích thú những đường hầm dưới đất và các thứ tương tự. Chúng chẳng đem lại điều gì may mắn cả. Hãy nhớ lời tôi đấy, chúng ta sẽ đào bới như chuột chũi trước khi ra được đầu bên kia cho mà xem.”
Khi đến miệng hang, Taran dừng lại. Sau khi bước qua chỗ này thì sẽ không còn hy vọng gì tìm được Eilonwy nữa. Một lần nữa cậu lại phải đấu tranh với mong muốn của trái tim mình: đi tìm cô trước khi cô vĩnh viễn biến mất với cậu. Cố hết sức, cậu xua đuổi những ý nghĩ này ra khỏi đầu óc. Khi rốt cuộc cậu cũng rầu rĩ tự bắt mình đi theo chàng ca sĩ, cậu cảm giác như đã bỏ lại một phần bản thân mình ở phía sau. Cậu loạng choạng bước vào bóng tối.
Theo lệnh của Doli, các chiến binh đã làm mấy cây đuốc. Giờ họ thắp chúng lên, và trong ánh sáng bập bùng, Taran nhìn thấy ông lùn đã dẫn họ vào một lối thông hơi dốc xuống dần dần. Hai vách đá thô của hang vươn lên không cao hơn tầm tay với của Taran. Những người lính Tự Do đã xuống ngựa và dẫn đàn chiến mã hoảng sợ qua những gờ đá sắc nhô lên và những viên đá vỡ.
Doli giải thích rằng nơi này không phải là khu hầm mỏ chính mà chỉ là một trong vô số các đường hầm kế bên mà người Mỹ Tộc dùng để chở các túi đá quý lên trên mặt đất. Quả thực, đúng như ông lùn đã báo trước, lối đi nhanh chóng mở rộng ra và cái trần đá vươn cao lên gấp ba lần Taran. Những bậc gỗ hẹp, cái này đặt trên cái kia, nằm dọc theo hai bên vách hang, nhưng phần lớn đã hư nát cả, và các thanh xà đã sập xuống thành một đống trên nền đất. Những thanh gỗ dài mục nát chống đỡ các mái vòm dẫn từ hành lang này sang hành lang khác, nhưng chúng cũng đã sụp gãy gần hết, khiến cho các binh sĩ và đàn ngựa phải hết sức cẩn thận dò đường qua những đống sỏi đá vụn. Không khí trong hang rất ngột ngạt so với cơn gió băng giá trên mặt đất, và nặng trĩu một lớp bụi và mùi thối rữa lưu cữu. Tiếng vọng vang lên xuyên qua những khoảng hang đã bị bỏ trống từ lâu nghe như tiếng những bầy dơi, trong khi đội quân ngập ngừng tiến tới, đuốc giơ cao trên đầu. Những cái bóng vẹo vọ dường như nuốt chửng cả tiếng bước chân của họ; chỉ có tiếng hí lanh lảnh sợ hãi của một con chiến mã phá vỡ sự im lặng
Glew, từ lúc vào hầm đến giờ vẫn không ngừng rền rĩ, bỗng kêu lên một tiếng kinh ngạc. Y cúi xuống và chộp lấy một vật gì trên mặt đất. Dưới ánh lửa ngọn đuốc của mình, Taran nhìn thấy tên khổng-lồ-một-thời đang cầm một viên đá lấp lánh to bằng nắm tay.
Fflewddur cũng đã nhìn thấy nó, và anh ta nghiêm khắc ra lệnh, “Bỏ nó xuống đi, gã nhỏ con kia. Đây là kho báu của người Mỹ Tộc, không phải là cái hang đầy dơi của mi đâu.”
Glew ôm chặt vật nhặt được vào ngực. “Nó là của ta!” y kêu lên the thé. “Không có kẻ nào trong số các người đã nhìn thấy nó. Nếu có thì các người cũng đã giành lấy nó cho mình rồi.”
Doli liếc nhìn viên đá và phì một tiếng khinh bỉ. “Đồ bỏ đi thôi,” ông lùn nói với Taran. “Chẳng người thợ thủ công Mỹ Tộc nào sẽ phí công vì nó đâu. Chúng tôi còn dùng những viên đá tốt hơn thế để sửa nền đường kia. Nếu anh bạn mặt nấm mốc của cậu muốn vác nặng thì xin cứ tuỳ ý.”
Không cần đợi bảo đến lần thứ hai, Glew vội vã nhét viên đá vào cái túi da lủng lẳng ở thắt lưng mình, và khuôn mặt bèo nhèo của y có một vẻ mà Taran mới chỉ thấy khi gã khổng-lồ-một-thời đang ở giữa một bữa ăn.
Từ đó trở đi, trong khi đội quân đều đặn tiến bước qua hầm mỏ, cặp mắt tròn nhỏ của Glew liếc nhìn khắp nơi và y xông tới trước với vẻ hăm hở và mạnh mẽ khác thường. Tên khổng-lồ-một-thời không bị thất vọng, bởi vì chẳng mấy chốc ánh đuốc đã lấp lánh phản chiếu lên những viên đá khác nằm lấp một nửa dưới đất hoặc trồi ra khỏi vách hang. Glew vồ lấy chúng liền tức thì, những ngón tay múp míp cào bới và bỏ những viên pha lê long lanh vào túi mình. Mỗi khi tìm thấy một viên đá mới y lại càng trở nên phấn khích hơn, cười khúc khích và lẩm bẩm một mình.
Chàng ca sĩ liếc nhìn y vẻ thương hại. “Thế đấy,” anh ta thở dài, “rốt cuộc thì con chồn ti tiện ấy cũng đã tìm được một thứ gì đó cho mình rồi. Chúng sẽ chẳng có lợi gì cho hắn khi chúng ta trở lại trên mặt đất đâu. Một nắm đá ấy à! Ích lợi duy nhất mà tôi có thể thấy được là nếu hắn dùng chúng để ném vào bọn Vạc Dầu.”
Nhưng Glew, chỉ mải mê tìm nhặt càng nhiều đá quý càng tốt, không thèm để ý đến lời nhận xét của Fflewddur. Chỉ trong chốc lát, cái túi của tên khổng-lồ-một-thời đã nhồi đầy chặt những viên ngọc màu đỏ thắm và xanh rực, những hòn đá trong như nước hoặc lấp lánh những vảy vàng và bạc bên trong lòng.
Ý nghĩ của Taran không hướng về kho báu bị bỏ quên của khu hầm mỏ, mặc dù dường như khi hàng chiến binh dài càng đi vào sâu thì càng thấy nhiều đá quý hơn. Theo như Taran đoán thì vẫn chưa quá giữa trưa, và đội quân đã đi được một quãng đường đáng kể. Và, trong khi đường hầm mở rộng hơn và lối đi trở nên thẳng hơn, họ thậm chí còn đi nhanh được hơn nữa.
“Dễ như huýt sáo vậy,” Doli tuyên bố. “Nhiều nhất chỉ một ngày rưỡi nữa thôi là chúng ta sẽ lên được trên mặt đất ở vùng Đồng Hoang.”
“Đó là hy vọng duy nhất của chúng tôi,” Taran nói, “và nhờ có ông, nó trở thành hy vọng chắc chắn nhất mà chúng tôi đã có được. Nhưng vùng Đồng Hoang vẫn làm tôi lo ngại. Nếu mặt đất hoàn toàn trống trải thì chúng ta sẽ chẳng có gì để tự bảo vệ, và cũng không có cách nào để cản đường bọn Vạc Dầu cả.
“Hừm!” Doli kêu lên. “Tôi đã nói với cậu mà, bây giờ cậu đang đi cùng với người Mỹ Tộc rồi, chàng trai ạ. Một khi đã định tâm vào việc gì thì chúng tôi không bao giờ làm những việc tầm thường nhỏ mọn cả. Rồi cậu sẽ thấy. Chúng ta sẽ tìm được cách nào đó thôi.”
“Nhân tiện nhắc đến tầm thường nhỏ mọn,” Fflewddur ngắt lời, “Glew đâu rồi?”
Taran dừng lại và vội nhìn quanh. Mới đầu cậu không thấy bóng dáng gã khổng-lồ-một-thời đâu cả. Cậu giơ cao cây đuốc của mình lên và cất tiếng gọi Glew. Một lát sau cậu nhìn thấy y và hốt hoảng chạy tới.
Glew, trong lúc lùng tìm châu báu, đã trèo lên một trong các bậc gỗ. Ngay bên trên cái mái vòm dẫn vào khúc hang tiếp theo, một viên ngọc lóng lánh to bằng cả đầu y nằm giữa các phiến đá; Glew đã trèo lên một cái gờ hẹp nom hết sức bấp bênh và đang cố hết sức để lôi nó ra.
Taran hét gọi y xuống, nhưng Glew chỉ càng lôi kéo mạnh hơn. Buông dây cương của Melynlas ra, Taran đang định trèo lên theo y, nhưng Doli túm lấy cánh tay cậu.
“Đừng có làm thế!” ông lùn quát. “Các thanh xà sẽ không đỡ nổi cậu đâu.” Ông huýt lên một tiếng sáo và ra hiệu cho hai chiến binh Mỹ Tộc trèo lên bậc gỗ, vốn đang chao đảo một cách nguy hiểm dưới những cú lôi kéo điên cuồng của Glew. “Nhanh lên!” Doli kêu lớn. “Kéo gã ngu xuẩn ấy xuống đây!”
Đúng lúc ấy thì cái túi da của Glew, nhồi đầy chặt đến độ muốn nứt, liền rách toạc ra. Các viên đá quý tràn ra thành một trận mưa rào lấp lánh và Glew, thét lên một tiếng kinh hoàng, xoay ngoắt lại để chộp lấy chúng. Bị trượt chân, y vội bám chặt lấy bậc gỗ và cùng lúc đó, vòm cung sụp xuống chân y. Miệng lại thét lên, nhưng giờ không phải vì những viên ngọc bị mất mà vì sắp mất mạng, Glew cuống quýt vung tay lên và túm được một thanh gỗ đang đu đưa. Y ngã nhào xuống đất đánh rầm một cái. Sau lưng y, mái vòm lảo đảo và trần hang rung lên ầm ầm. Glew bò dậy và cuống cuồng chạy khỏi cơn mưa đá đang rào rào đổ xuống.
“Lùi lại!” Doli thét lên. “Lùi lại! Tất cả lùi lại!”
Đàn ngựa chồm lên và hí vang trong khi các chiến binh vội tìm cách quay chúng đi hướng khác. Với một tiếng rắc chói tai, các bậc gỗ phía trên sụp vỡ, một loạt đá lở và gỗ vụn trút xuống đường hầm. Bụi mù mịt bốc lên làm tất cả nghẹt thở; cả khu hầm mỏ như rung lên, rồi chìm vào một sự im lặng chết người.
Miệng gọi Doli và Fflewddur, Taran loạng choạng chui qua đống đổ nát. Không người lính hay con ngựa nào đã bị mắc kẹt ở đó; đằng sau họ, đường hầm vẫn đứng vững và đã che chắn cho họ. Nhưng con đường phía trước thì đã bị chặn kín hoàn toàn.
Doli đã bò lên đống sỏi đá lẫn với gỗ và đang kéo một đầu thanh gỗ dài. Nhưng một lát sau ông ngừng lại, hết cả hơi, và quay sang nhìn Taran vẻ tuyệt vọng. “Chẳng ích lợi gì,” ông hổn hển. “Nếu cậu muốn đi tiếp thì chúng ta phải đào đường ra thôi.”
“Phải mất bao lâu?” Taran khẩn thiết hỏi. “Chúng ta có thể để mất bao nhiêu thời gian được?”
Doli lắc đầu. “Khó nói lắm. Ngay cả với người Mỹ Tộc đó cũng sẽ là một nhiệm vụ khó khăn. Có lẽ là phải mất vài ngày. Ai mà biết được đường hầm đã bị sập xa đến mức nào?” Ông khịt mũi giận dữ. “Cậu có thể cảm ơn cái tên khổng lồ đần độn như cây nấm hai chân kia vì việc này đấy!”
Tim Taran trĩu xuống. “Thế là sao?” Cậu hỏi. “Chúng ta phải quay lại ư?” Cứ theo cái vẻ trên khuôn mặt nhọ nhem của Doli, cậu sợ phải nghe câu trả lời của ông lùn.
Doli gật đầu thật mạnh. “Dù thế nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng bị chậm rồi. Nhưng nếu cậu muốn nghe lời khuyên của tôi thì tôi đề nghị là hãy quay lại và đi lại đường cũ thôi. Hãy gắng hết sức tìm đường trên mặt đất để đến vùng Đồng Hoang Đỏ. Toàn bộ khu hầm mỏ đã bị yếu đi rồi; sẽ có nhiều chỗ sập hầm nữa cho mà xem, nếu tôi đoán không nhầm. Lần tới thì chúng ta có thể sẽ không được may mắn như thế này đâu.”
“May mắn ấy à!” Chàng ca sĩ rên lên, anh ta đã ngồi phịch xuống một hòn đá và gục đầu vào hai bàn tay. “Thế là hàng mấy ngày trời đã bị bỏ phí! Bọn Vạc Dầu sẽ về tới Annuvin trước khi chúng ta có cơ hội chặn đường chúng một lần nữa. Vận may duy nhất thích hợp với tôi lúc này là được thấy con chồn tham lam ấy bị vùi dưới đống đá vô dụng của hắn!”
Trong lúc ấy thì Glew đã đánh liều bò ra từ bên dưới một bậc gỗ còn đứng vững. Quần áo y đã rách toạc, khuôn mặt béo múp của y đầy bụi bẩn.
“Mấy ngày trời bị bỏ phí ư?” y rền rĩ. “Bọn Vạc Dầu ư? Các đường hầm bị lấp mất ư? Thế nhưng đã có kẻ nào trong số các ngươi ngừng lại để nghĩ rằng ta đã mất cả một gia tài không? Chỗ đá quý của ta đã rơi mất rồi, mất hết tất cả, và các ngươi chẳng thèm để ý đến chút nào. Ta gọi thế là ích kỷ đấy. Ích kỷ! Không còn từ nào khác để chỉ điều đó cả.”
Hết chương 13. Mời các bạn đón đọc chương 14!