A Tử nói:
- Đúng thế, gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là gà, sao lại chết được? Ngươi bảo sẵn lòng vì ta nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng, tan xương nát thịt, vậy mới để rết hút có một chút máu thì đã gọi là tan xương nát thịt hay chưa?
Du Thản Chi ứ họng không trả lời được, ngẩng đầu nhìn A Tử, thấy nàng khóe miệng hơi trĩu xuống ra chiều khinh miệt, lập tức ý loạn tình mê như bị ma nhập liền khẳng khái đáp:
- Được, tiểu nhân nghe lời sai bảo của cô nương.
Y nghiến chặt hàm răng, nhắm mắt lại, tay phải chầm chậm thò vào trong cái chóe. Bàn tay y vừa lọt vào trong hũ, đầu ngón tay giữa liền bị đau nhói như kim chích khiến y nhịn không nổi rụt tay lại. A Tử kêu lên:
- Giữ yên đó! Không được động đậy!
Du Thản Chi cố gắng chịu đựng, mở mắt ra, thấy con rết kia đang cắn đầu ngón tay giữa của mình hút máu. Du Thản Chi toàn thân nổi gai ốc, chỉ muốn kéo tay ra vẩy cho con rết rơi xuống lấy chân đạp cho chết. Thế nhưng tuy y không quay đầu lại cũng biết đôi mắt sắc như dao của A Tử đang nhìn sau lưng mình, chẳng khác gì hai lưỡi kiếm đâm tới thì làm sao dám cử động?
Cũng may khi con rết hút máu không đau lắm chỉ thấy con vật từ từ phồng lên, còn đầu ngón tay giữa của Du Thản Chi thì mờ mờ phủ một lớp màu tím thẫm. Màu tím đó từ nhạt chuyển sang đậm, rồi từ từ biến thành màu đen, một lát sau, từ ngón tay lan sang bàn tay, rồi chạy lên cánh tay.
Du Thản Chi lúc này không còn coi sống chết vào đâu, ngược lại còn thản nhiên như không, mép nở một nụ cười, có điều nụ cười đó dấu sau tấm mặt nạ thép nên A Tử không nhìn thấy được.
A Tử hai mắt đăm đăm nhìn con rết, hết sức chăm chú không dám sao nhãng chút nào. Sau cùng con rết nhả tay Du Thản Chi ra, nằm bất động dưới đáy hũ. A Tử kêu lên:
- Ngươi nhè nhẹ bắt con rết bỏ vào mộc đỉnh cho ta, cẩn thận đó, đừng làm nó tổn thương.
Du Thản Chi y lời nhặt con rết lên, bỏ vào trong chiếc tiểu mộc đỉnh để ở trước cẩm đôn. A Tử liền đóng nắp lại, chỉ trong giây lát, từ trong chiếc lỗ có những giọt máu đen nhỏ ra. A Tử vẻ mặt vui mừng, vội đưa tay hứng máu đó, ngồi xếp bằng vận công, hút những giọt máu độc đó vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: "Đây là huyết dịch của ta, bây giờ đi vào trong người nàng. Thì ra cô nương đang luyện Ngô Công độc chưởng." Bạn đang đọc chuyện tại Truyện.YY
Một lúc lâu sau, máu đen từ chiếc đỉnh đã chảy ra hết, A Tử mở nắp ra thấy con rết kia đã chết rồi. A Tử hai tay xoa vào nhau, nhìn lại bàn tay thấy chẳng khác gì bạch ngọc không một tì vết, cũng không có vết máu, biết rằng phương pháp luyện công nàng nghe lóm được của sư phụ không sai chút nào, trong bụng sung sướng, bưng chiếc một đỉnh lên, trút con rết ra rồi hấp tấp ra khỏi điện, chẳng thèm nhìn nhõi gì đến Du Thản Chi, coi y không khác gì con rết chết, không còn dùng vào việc gì được nữa.
Du Thản Chi nhìn theo sau lưng A Tử cho tới khi nàng đi khuất, lúc ấy mới cởi áo ra xem thấy sắc đen đã lan lên tới nách, đồng thời cả cánh tay ngứa ngáy khó chịu, chỉ giây lát đã tưởng chừng như có muôn ngàn con rận cùng cắn một lượt.
Y kêu rầm lên, nhảy choi choi, đưa tay gãi, nhưng càng gãi thì càng ngứa, tưởng như từ trong xương tủy, phế phủ đều có sâu bọ chui vào, ngo ngoe ngọ ngoạy khắp nơi. Đau thì có thể chịu đựng nhưng ngứa lại thật khó mà nín nhịn. Y nhảy lên nhảy xuống, vừa nhảy vừa kêu, lấy chiếc đầu sắt húc mạnh vào tường, nghe kêu boong boong, chỉ mong mình ngất đi, mất hết tri giác, để khỏi phải chịu cái cơn ngứa ngáy kinh khủng này.
Đập đầu thêm mấy cái nữa, nghe cạch một tiếng, cái gói bằng vải dầu từ trong bọc rơi ra, lộ ra một cuốn sách bìa đã vàng, chính là bản kinh thư bằng tiếng Phạn hôm nọ y nhặt được. Lúc này trong cơn ngứa ngáy kịch liệt, y cũng chẳng nghĩ tới chuyện nhặt lên làm gì, chỉ thấy cuốn sách mở tung. Du Thản Chi toàn thân khó chịu, lăn lộn dưới đất vùng vẫy như con cá mắc lưới. Một lúc sau, y chỉ còn nằm gục một chỗ thở hồng hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi từ các chỗ hổng trên chiếc lồng sắt chảy ra, rơi cả xuống cuốn kinh chữ Phạn.
Trong cơn mơ màng, y thiếp đi không biết bao lâu, cuốn sách dính đầy dãi nhớt, không hiểu vì sao bỗng từ trên những hàng chữ cong cong quẹo quẹo, hiện ra hình của một nhà sư. Tăng nhân đó tư thức cực kỳ quái dị, đầu cúi xuống chui qua háng thò ra ngoài, hay tay đưa xuống nắm hai cổ chân.
Y nào còn tâm trí đâu mà xem hình thế cổ quái trong sách, chỉ thấy người ngứa ngáy tưởng chừng thở không nổi, đành lăn ra đất, cào gãi lung tung, xé vụn quần áo đang mặc trên người để cọ da thịt lên nền đá cho đỡ ngứa, chỉ chốc lát da dẻ đã rướm máu. Y lăn qua lộn lại ma sát như thế, đột nhiên vô ý sao, đầu chui tọt vào giữa hai bắp đùi. Đầu y có mang cái rọ sắt, trong cơn gấp gáp không rút lại được, giơ tay tính đẩy trở ra, tay phải quều quào sao nắm ngay cổ chân.
Đến lúc đó Du Thản Chi đã mệt ngất ngư chẳng còn hơi sức gì nữa, không thể động đậy, chỉ đành nghỉ một chốc thở vài hơi, vô tình sao nhìn thấy cuốn sách mở dưới đất, trong sách vẽ hình một nhà sư gầy gò, tư thức cũng na ná như y đang làm, trong bụng vừa kinh dị lại cảm thấy tức cười. Kỳ quái làm sao, y theo tư thức này, tuy thân thể vẫn còn ngứa ngáy như cũ nhưng hơi thở đã dễ dàng hơn, thành thử cũng không vội chui đầu ra khỏi háng, mà đành nằm phục dưới đất như hình vẽ, tay trái cũng đưa ra nắm luôn cổ chân phải, cằm chống xuống đất. Thế là y và đồ hình của nhà sư trong sách hoàn toàn giống nhau, hơi thở lúc này đã dễ dàng hơn nhiều.
Y nằm phục như thế, đôi mắt để gần ngay cuốn sách, nhìn vào tăng nhân thấy ở bên cạnh nhà sư có hai chữ màu vàng cực lớn, hình dáng quái lạ cong cong quẹo quẹo, nhưng trong nét bút lại có vô số những mũi tên đỏ nhỏ xíu bắn ra. Du Thản Chi lúc này đang nằm gục xuống hết sức mỏi mệt nên buông tay ra đứng lên. Y vừa đứng dậy, lập tức lại ngứa đến ngạt thở, vội vàng lại cúi xuống chui đầu vào giữa hai đùi, hay tay nắm cổ chân, cằm chống xuống đất. Chỉ có tư thế cổ quái đó y mới lại thấy dễ chịu mà thôi.
Du Thản Chi không dám động đậy gì nữa, một lúc sau không có việc gì làm, đưa mắt nhìn nhà sư vẽ trên sách rồi nhìn qua hai chữ quái dị ở bên cạnh đồ hình. Y xem những mũi tên trên hai chữ đó, tự nhiên đưa mắt theo những đầu mũi tên quan sát nét bút, bỗng thấy những chỗ ngứa trên tay phải biến thành một luồng khí ấm, từ cổ họng chạy xuống ngực bụng, chạy quanh vài vòng theo hai vai lên đỉnh đầu rồi chầm chậm biến mất.
Y thử nhìn vào đầu mũi tên trên hai chữ quái dị vài bận, lần nào cũng có một luồng khí ấm chạy lên trên óc, còn cánh tay thì lại bớt ngứa đi một chút. Du Thản Chi kinh ngạc nhưng chẳng hơi đâu nghĩ đến nguyên nhân vì sao, cứ theo thế mà làm đến hơn ba chục lần thì cánh tay chỉ còn hơi ngứa, làm thêm mươi lần nữa, ngón tay, lòng bàn tay, cánh tay không chỗ nào còn cảm giác gì khác lạ.
Y rút đầu ra khỏi hai đùi, giơ tay xem, hắc khí trên bàn tay đã hoàn toàn biến mất, y vui mừng khôn xiết đột nhiên kinh hoảng kêu lên:
- Chết rồi, không xong. Chất kịch độc của con rết đều chạy lên óc cả rồi.
Thế nhưng lúc đó cơn ngứa quái lạ kia đã hết, y nghĩ thầm nếu sau này có chuyện gì thì cũng không đến nỗi nào. Du Thản Chi tự hỏi: "Cuốn sách này rõ ràng nào có hình vẽ gì đâu, sao tự nhiên lại có một hòa thượng cổ quái hiện ra? Ta chỉ vô ý sao lại thành tư thế giống hệt như nhà sư này? Nhà sư này hẳn là bồ tát đến cứu mạng ta đây." Y bèn quì xuống đất, cung kính khấu đầu trước vị quái tăng trong quyển sách, chiếc lồng sắt gõ xuống đất kêu boong boong.
Y nào có biết hình trong quyển sách vẽ bằng một chất thảo dược pha với nước, khi ướt thì hiện ra, còn khô thì biến mất, thành thử cả A Châu lẫn Tiêu Phong đều không nhìn thấy. Thực ra tuyến lộ luyện công của hình vẽ trong quyển sách đều có chú thích rõ ràng ở bên cạnh, những nhà sư Thiếu Lâm thời trước biết chữ Phạn tuy không biết bí mật của đồ hình vẫn theo đúng lời chỉ bằng chữ luyện thành Dịch Cân Kinh thần công. Du Thản Chi khi bị cơn ngứa kỳ quái không chịu nổi kia, nước mắt ràn rụa rơi xuống trang sách nên làm hình vẽ hiện ra. Đây là một môn diệu pháp trong việc hóa giải ma đầu từ bên ngoài xâm nhập, là bí thuật trong phép Du Già(28.6) của Thiên Trúc thời cổ.
Y đột nhiên làm được tư thức đó cũng chẳng phải ngẫu nhiên xảo hợp mà ăn nhanh thì nghẹn, ăn quá thì ói. Trong khi y bị ngứa quá đỗi, đầu chúi xuống đất cũng là tự nhiên không có gì lạ, có điều nước mắt y chảy vào đúng quyển sách thì cái đó mới thật khéo làm sao. Y ngơ ngẩn một hồi, mệt mỏi quá lăn ra đất ngủ thiếp đi.
Sáng sớm hôm sau khi y còn chưa trở dậy, A Tử hấp tấp đi vào trong điện thấy y trần truồng nằm đó, kêu lên một tiếng hỏi:
- Sao ngươi còn chưa chết?
Du Thản Chi kinh hãi ấp úng:
- Vì… tiểu nhân… tiểu nhân còn sống.
Y trong lòng chua xót: "Thì ra cô nương mong ta chết cho rồi." A Tử nói:
- Ngươi chưa chết thì càng hay. Mau đi kiếm quần áo mặc vào theo ta đi bắt độc trùng lần nữa.
Du Thản Chi đáp:
- Vâng!
Đợi cho A Tử đi ra khỏi điện, y mới đi kiếm mấy tên lính Khất Đan hỏi xin quần áo. Binh sĩ Khất Đan thấy quận chúa có vẻ tử tế với y hơn một chút liền đi kiếm một bộ quần áo khô sạch cho y mặc.
A Tử dẫn Du Thản Chi đến một nơi hoang dã, lại dùng Thần Mộc Vương Đỉnh để bắt độc trùng, dùng máu gà để nuôi, sau đó lại cho hút máu Du Thản Chi rồi dùng để luyện công. Lần thứ hai là một con nhện màu xanh, lần thứ ba là một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lần nào cũng theo đúng đồ hình trong quyển sách hóa giải chất độc.
Năm xưa A Tử nhìn trộm sư phụ luyện thần công, lần nào cũng thấy có người chết, đều là dân chúng trong vùng bị đệ tử bản môn theo lệnh sư phụ đi bắt về, nên tưởng Du Thản Chi trúng độc thể nào cũng chết, ngờ đâu thấy y vẫn bình thường, không khỏi lấy làm lạ.
Cứ như thế liên tiếp bắt độc trùng luyện công, ba tháng sau, chung quanh thành Nam Kinh trong vòng hơn mười dặm độc vật càng lúc càng hiếm, những con bị hương khí dụ được toàn là con nhỏ bé yếu đuối, không vừa ý A Tử chút nào. Hai người đi bắt độc trùng càng lúc càng phải đi xa hơn.
Hôm đó họ đi về hướng tây thành Nam Kinh hơn ba chục dặm, A Tử đốt hương trong mộc đỉnh rồi, chờ đến hơn một giờ, mới nghe tiếng sột soạt trong cỏ, xem ra có rắn rết gì đây. A Tử kêu lên:
- Nằm xuống!
Du Thản Chi y lời nằm mọp xuống, thấy tiếng động càng lúc càng lớn, xem ra không phải bình thường. Tiếng động lạ đó kèm theo một mùi tanh hôi khiến người ta muốn mửa. Du Thản Chi nín hơi không cử động, thấy đám cỏ cao rẽ ra, một con đại mãng xà(28.7) mình trắng vằn đen lượn mình bò tới. Đầu con trăn hình tam giác, trên mọc một cục bướu sần sùi. Phương bắc rắn rết vốn không nhiều, con mãng xà này hình dáng lạ lùng như thế xưa nay chưa từng thấy.
Con rắn bò đến bên cạnh chiếc đỉnh, trườn quanh. Mãng xà dài đến hai trượng, to bằng bắp tay, làm sao chui vào trong đỉnh được? Thế nhưng nó ngửi thấy mùi hương liệu cùng mùi chiếc đỉnh nên không ngớt đưa cái đầu to lớn húc vào.
A Tử có ngờ đâu lần này lại dụ được một con vật to đến thế, hết sức kinh hãi, nhất thời không biết phải làm sao, rón rén bò đến bên cạnh Du Thản Chi nói nhỏ:
- Làm sao đây? Nếu như con trăn làm vỡ mất chiếc đỉnh thì thật hỡi ôi!
Du Thản Chi nghe nàng ăn nói dịu dàng như thế quả không ngờ tới, tự nhiên hăng máu lên nói cứng:
- Cô nương chớ lo, để tôi ra đuổi con rắn đi.
Y bèn đứng lên, hùng dũng đi ra chỗ con trăn. Con mãng xà nghe thấy có tiếng động, lập tức nằm cuộn lại, vươn cao đầu, le chiếc lưỡi đỏ chót, phát tiếng sì sì, thủ thế mổ ra. Du Thản Chi thấy nó hung dữ như thế, chột dạ không dám tiến tới nữa.
Ngay lúc đó, bỗng có một trận gió lạnh thổi qua, từ phía tây bắc có một đường lửa cháy thẳng tới, chỉ giây lát đã tới ngay trước mặt. Đốm sáng đó chạy tới nơi, nhìn rõ hơn thì ra không phải là một vệt lửa, mà là trong đám cỏ có một con gì đó chạy tới, cỏ xanh gặp phải lập tức sém vàng, đồng thời hàn khí càng lúc càng nhiều.
Y lùi lại mấy bước, thấy đường sém vàng đó chạy tới chiếc đỉnh, hóa ra là một con tằm. Con tằm đó trắng tinh như ngọc, hơi ẩn sắc xanh, so với tằm thường phải to gấp đôi, lại dài như một con giun, thân hình sáng bóng như thủy tinh. Con mãng xà vốn dĩ thật hung tợn, lúc này lại xem chừng sợ đến mất vía, rút đầu chui vào dưới thân.
Con tằm trong như thủy tinh kia nhanh nhẹn dị thường bò thẳng một mạch lên người con trăn, chẳng khác gì một đường lửa nóng xẻ dọc theo xương sống con mãng xà, đến đầu thì con rắn đã bị cắt ra làm hai. Con sâu liền rúc vào túi nọc độc ở hai bên mang con mãng xà hút độc dịch, chỉ giây lát thân đã căng phồng lên, từ xa nhìn tới thấy giống như một cái bình trong suốt chứa đầy một thứ nước màu xanh tím.
A Tử vừa mừng vừa sợ, nói nhỏ:
- Con tằm này lợi hại đến thế, xem ra là chúa của các loài độc vật.
Du Thản Chi bụng lại lo thầm: "Một con tằm kịch độc như thế này nếu như hút máu ta thì lần này tính mạng mình chắc không còn." Còn sâu đó chạy vòng quanh chiếc mộc đỉnh rồi bò lên, chỗ nào nó đi qua, chiếc đỉnh liền hiện ra một cái ngấn cháy sém. Thế nhưng dường như nó có linh tính, bò quanh chiếc đỉnh một vòng, biết là nếu chui vào trong đỉnh thì chỉ còn nước chết nên lại bò xuống chạy về hướng tây bắc.
A Tử vừa cao hứng vừa nóng ruột, kêu lên:
- Đuổi theo ngay! Đuổi theo!
Cô ta lấy vuông gấm bọc cái đỉnh lại rồi chạy đuổi theo con sâu. Du Thản Chi theo sát đằng sau, cứ theo đường lửa cháy sém mà đuổi. Con tằm đó tuy nhỏ bé như thế nhưng bò nhanh như gió, chỉ nháy mắt đã xa đến mấy trượng, cũng may nó đi đến đâu đều để lại một cái ngấn nên không mất dấu.
Hai người chỉ một thoáng đã đuổi đến ba bốn dặm, nghe phía trước có tiếng nước chảy róc rách đến bên một dòng suối. Vết cháy sém đến suối liền biến mất, nhìn qua bờ bên kia không thấy ngấn bò của con tằm đâu, hiển nhiên con vật đã chui xuống nước trôi đi rồi. A Tử dậm chân than thở:
- Ngươi đuổi chậm quá, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Ta không biết, ngươi phải tìm cách bắt nó đem về cho ta.
Du Thản Chi trong lòng lo lắng, nhìn ngang nhìn ngửa nhưng nào có thấy bóng dáng nó đâu? Hai người tìm kiếm một hồi lâu, trời đã sâm sẩm tối, A Tử cảm thấy mỏi mệt, lại không kiên tâm, giận dữ nói:
- Bằng giá nào ngươi cũng phải bắt nó đem về cho ta, nếu không thì đừng gặp ta nữa.
Nói xong nàng quay trở về đường cũ một mình về thành. Du Thản Chi thấp thỏm đành men theo bờ suối đi xuôi xuống hạ lưu, tìm kiếm đến bảy tám dặm, trong ánh sáng lờ mờ bỗng thấy bờ trên mặt cỏ bên kia lại có dấu cháy sém. Du Thản Chi mừng quá, mở miệng gọi to:
- Cô nương! Cô nương! Tôi tìm thấy rồi!
Thế nhưng A Tử đã đi thật xa. Du Thản Chi lội nước đi qua, lần theo vết cháy khô. Chỉ thấy đường sém đó chạy thẳng đến một thung lũng ở phía trước. Y ráng sức đuổi tới mãi tận cuối thì ra là một tòa cổ miếu kiến trúc hùng vĩ, rảo bước đến gần thấy biển ngạch trên đề năm chữ "Sắc Kiến Mẫn Trung Tự" thật lớn. Du Thản Chi không có thì giờ đâu mà xem xét miếu này ra thế nào, chỉ tiếp tục đi theo đường ngấn cháy. Vết cháy sém đó vòng quanh một bên miếu, chạy ra phía sau. Chỉ nghe thấy tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh ở trong chùa vang lên từng chập, tiếng này dứt tiếng kia nổi lên, quần tăng chính đang vào giờ công khóa.
Y đầu đội lồng sắt, tự xấu hổ mình hình dạng không ra gì, sợ người trong chùa nhìn thấy, nên chỉ men theo tường mà lần đi, thấy vết cháy vượt qua một khu đất lầy lội, chạy vào một vườn rau.
Y trong lòng thật vui mừng, chắc mẩm hẳn không có người, chỉ có con tằm ăn rau mà thôi thì thể nào cũng bắt được nó. Y đi đến bên hàng rào nghe văng vẳng bên trong vườn rau ai đó đang lớn tiếng chửi mắng vội vàng đứng lại. Chỉ nghe người kia nói:
- Ngươi cớ sao không biết giữ qui củ, một mình dám đi ra ngoài chơi khiến cho ông phải lo lắng cả buổi, chỉ sợ mày đi mất không quay về. Ông đường sá xa xăm mang mày từ đỉnh núi Côn Lôn tới đây, vậy mà mày chẳng biết phải quấy, không hiểu được rằng lão tử chăm lo cho mày biết là dường nào. Cứ cái ngữ này, đời mày còn ra thế nào nữa, mai sau chắc chẳng làm nên trò trống gì, không ai thương đâu con ạ!
Ngữ khí người kia đầy vẻ phẫn nộ nhưng lại có ẩn chút lòng thương xót kỳ vọng, tưởng chừng như lời của phụ huynh dạy dỗ con cái. Du Thản Chi nghĩ thầm: "Y nói gì mà từ đỉnh núi Côn Lôn xa xôi diệu vợi đem đến đây, xem chừng chắc là sư phụ hay trưởng bối chứ không phải phụ thân." Y rón rén đến sát bờ giậu, thấy người đang nói kia là một nhà sư. Nhà sư đó thật là mập mạp, thân hình lại lùn xủn, trông chẳng khác gì một trái cầu thịt thật lớn, tay chỉ xuống đất, mồm thì rủa sả liên hồi. Du Thản Chi theo tay y nhìn xuống, vừa mừng vừa lo, hòa thượng mập kia đang mắng chửi chính là một con sâu lớn sáng lấp lánh.
Hình dáng nhà sư lùn mập kia kỳ dị thì đã đành nhưng cái lối chửi sa sả con tằm kia lại còn lạ lùng hơn. Con sâu chạy loăng quăng dưới đất cực kỳ nhanh nhẹn, tưởng chừng như toan đào tẩu. Có điều dường như nó chạm phải một bức tường vô hình nào đó nên lại quay đầu qua hướng khác. Du Thản Chi cố gắng nhìn kỹ hơn, thấy dưới đất có vẽ một cái vòng màu vàng, con tằm tả xung hữu đột nhưng vẫn không sao qua khỏi được cái vòng đó, lập tức hiểu ra: "Cái vòng đó dùng một loại thuốc vẽ thành, dược vật hẳn là khắc tinh của con sâu."
Gã hòa thượng lùn mập chửi một hồi xong, lôi trong bọc ra một vật gì đó, đưa lên miệng ăn nhồm nhoàm, hóa ra một cái đầu dê đã luộc chín, xem chừng ngon lành lắm. Y lại lấy từ trên cột xuống một cái hồ lô, mở nắp ra, ngửa cổ lên, ọc ọc uống một mạch. Du Thản Chi ngửi thấy tửu hương, biết là quả bầu đó đựng đầy rượu nghĩ thầm: "Hóa ra đây là một nhà sư hổ mang. Xem ra con tằm này là của y nuôi, được y cưng chiều lắm lắm. Làm cách nào ăn trộm được đây?"
Còn đang nghĩ ngợi bỗng nghe từ phía bên kia vườn rau có tiếng người gọi:
- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!
Gã sư lùn mập nghe thế giật mình hoảng hốt, vội vàng đem cái đầu dê và bầu rượu dấu vào trong bụi cỏ. Lại nghe người kia giục giã:
- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! Sao ngươi không tụng kinh chiều, trốn ở đây làm gì?
Nhà sư lùn mập vội vàng vớ ngay cái cuốc dưới chân, bổ hùng hục lên luống rau đáp:
- Đệ tử ở đây đang cuốc rau.
Người đi đến là một hòa thượng trung niên, khinh khỉnh nói:
- Kinh sớm kinh chiều, ai ai cũng phải dự. Sao lúc khác không trồng rau, đến lúc đọc kinh chiều thì lại giở giói ra cuốc đất? Mau lên! Mau lên! Bao giờ tụng kinh chiều xong, trở lại cuốc cũng vừa. Ở chùa Mẫn Trung chấp tác thì phải theo qui củ của chùa Mẫn Trung, không lẽ chùa Thiếu Lâm nhà ngươi không có miếu qui gia pháp gì hay sao?
Nhà sư lùn mập tên Tuệ Tịnh vội đáp:
- Vâng!
Y bỏ cuốc xuống, lật đật đi theo, không dám quay đầu lại nhìn con tằm, xem chừng sợ nhà sư trung niên phát giác. Du Thản Chi nghĩ thầm: "Gã sư lùn mập này vốn ở chùa Thiếu Lâm. Sư chùa Thiếu Lâm ai ai cũng biết võ công, mình ăn cắp con tằm của hắn thì phải thật cẩn thận mới được!"
Y đợi cho hai người đi xa, nghe ngóng chung quanh không có gì, vội vàng chui qua hàng rào, thấy con tằm vẫn chạy loanh quanh trong cái vòng màu vàng, tự hỏi: "Làm sao bắt được nó đây?" Y suy nghĩ một hồi tìm ra một cách, lấy trong bụi cỏ cái bầu rượu ra, lắc lắc thử mấy cái, còn chừng nửa bình bèn uống luôn mấy ngụm, còn bao nhiêu đổ vào luống rau, đưa cái miệng hồ lô đến gần cái vòng màu vàng. Miệng bầu rượu vừa lọt vào trong vòng tròn, chỉ nghe tách một tiếng, con tằm đã chui tọt vào trong hồ lô. Du Thản Chi mừng quá, vội vàng lấy cái nắp gỗ đóng chặt lại, hai tay bưng bầu rượu, chui qua hàng rào, ba chân bốn cẳng chạy về đường cũ.
Ra khỏi chùa Mẫn Trung chừng vài chục trượng bỗng thấy chiếc hồ lô lạnh một cách khác thường, xem ra còn hơn cả một khối băng, Du Thản Chi đưa cái bầu rượu từ tay trái sang tay phải, rồi lại từ tay phải đưa qua tay trái nhưng vẫn lạnh thấu xương không sao chịu nổi. Y không còn cách gì khác hơn bèn để hồ lô đội lên đầu nhưng lại càng khó chịu, khí lạnh truyền qua chiếc lồng sắt chui vào trong óc khiến y chịu không nổi, tưởng như huyết dịch toàn thân đã đóng thành băng. Tình cấp trí sinh, y liền cởi dây lưng buộc vào chỗ thắt trên hồ lô xách trên tay. Dây lưng không truyền hơi lạnh nên y cầm được, thế nhưng khí lạnh từ trong cái bầu tỏa ra, chỉ trong giây lát bên ngoài hồ lô đã bao phủ một tầng sương mỏng.