Tuổi Thơ Dữ Dội Chương 16

Chương 16
Trận đột kích đồn Hộ Thành chỉ là một trận đánh nhỏ nhưng tiếng vang và ảnh hưởng của nó trong nhân dần thành phố Huế và cả tỉnh Thừa Thiên rất lớn:

Bởi vậy việc phát hiện được tổ quân báo nội thành của Trung đoàn chủ lực Thừa Thiên làm cho bọn giặc hết sức hý hửng. Chúng phóng đại kết quả và tuyên truyền rùm beng để chống lại ảnh hưởng của trận đánh.

Dân chúng thành phố Huế hết sức quan tâm và bàn tán xôn xao về vụ bắt bờ những đội viên quân báo. Nhiều người kéo đến Ðập Ðá để nhìn xác anh đồng-râu. Sau hai ngày hai đêm phơi sương phơi nắng, xác anh trương phù và đen bầm, nom hết sức ghê rợn. Nhiều người phải quay mặt đi vì không nén nổi nước mắt. Họ nghiến răng căm hờn nguyền rủa hành động bạo ngược của quân cướp nước và bán nước.

Suốt mấy ngày liền, báo Bình Minh liên tục đăng tin về vụ bắt bớ này. Bọn trẻ bán báo ôm nhũng cặp báo, rao inh ỏi cả thành phố.

Chẳng mấy chốc những cái tên Ðồng-râu, Lượm-sứt, Kim-điệu, Tư-dát được cả thành phố nhớ và thuộc.

Tiếng rao báo vẳng đến tận phòng tạm giam của ty An ninh, nơi Lượm và thằng bé bán kẹo gừng cùng với hơn ba chục người tù khác đang bị tra tấn chết đi, sống lại.

°°°

Phòng tạm giam của ty mật thám An ninh vốn là dãy nhà bếp một công sở cũ của ủy ban cách mạng Thành phố Huế. Công sở này, sau ngày chiếm đóng Huế, chúng biến thành cơ quan ty An ninh.

Dãy nhà bếp nằm cách ngôi nhà chính cái sân rải đá dăm, dài và hẹp. Cuối sân là khu vườn rộng cỏ dại mọc lút người, bao quanh tường cao cắm mảnh chai. Bấu vào tường ở góc vườn là dãy nhà xí.

Khu nhà này trong suốt thời gian quân ta bao vây Huế hoàn toàn bị bỏ trống nên hoang phế, tiêu điều và hết sức bần thỉu. Bọn ty an ninh chỉ mới dọn dẹp qua loa. Dấu tích tiêu điều hoang phế vẫn còn in đậm khắp nơi, từ trong nhà ra đến sân, vườn.

Phòng tạm giam rộng chừng hai mươi lăm mét vuông, nền gạch vở nát, tường và mái ngói bồ hóng bám đen kịt, đóng thành cục thành hòn trên rui mè xà gỗ. Ba phía tường xây kín mít, phía cửa ra vào, ngoài lớp cửa cũ, chúng ốp thêm mấy cánh cửa lớn bằng gỗ lim dày có thêm sắt tán đinh (chúng dở từ một nhà kho nào đó). Chúng chỉ thừa một khoảng vừa người qua lọt và đóng mở bằng tấm cửa chấn song sắt, quấn hai vòng xích lớn với cái khóa bằng nắm đấm. Nhìn toàn cảnh, phòng tạm giam hao hao giống cái chuồng nhốt thú dữ.

Trong cái chuồng kiên cố, tối tăm, nhớp nhúa ấy, chúng nhốt hơn ba chục con người. Quá nửa là thanh niên, số còn lại trạc trung niên, một ông già và bây giờ thêm Lượm và thằng bán kẹo gừng mà chúng cứ gọi bừa là Tư-dát.

Hầu hết số người này chúng bắt được trong các trận vây ráp ở nhiều địa phương trong tỉnh. Chúng đưa về đây để tra tấn, lấy cung. Không một người nào mặt mũi còn lành lặn. Mắt họ sưng húp, má tím bầm, môi sưng vều dập nát, răng gãy, tai rách, áo quần rách tướp... Họ nằm chen chúc trên nền gạch thủng vỡ, lồi lõm. Người lót mảnh bao bố, người manh chiếu, hoặc tờ báo. Nhiều người nằm trần trên nền gạch ướt nhơm nhớp. Thinh thoảng họ lại hứng một trận bụi mưa bồ hóng từ trên mái nhà rơi xuống nên ai nấy như được sơn quét nhọ nồi.

Trong số ba chục người, có ba người bị đòn nặng nhất.

một thanh niên trạc ngoài hai mươi tuổi dáng dấp học trò, một người đàn ông đã đứng tuổi, râu quai nón, mặc bộ áo quần xanh lấm lem dầu mỡ, dáng chừng là thợ máy, và người thứ ba là Lượm.

Anh thanh niên và người thợ máy bị đưa về đây đã hơn một tháng. Cứ vài ngày họ lại bị gọi lên phòng tra tấn. Và mỗi lần trở về buồng giam người họ ướt sũng như vừa vớt dưới sông lên. Họ không lết nổi một mình, phải có hai tên An ninh xốc nách dìu về. Chúng xô họ ngã dúi vào buồng giam rồi đóng ập ngay cửa khóa lại. Ngã thế nào họ nằm nguyên thế đó, bất động hằng tiếng đồng hồ, nước trên người rỏ xuống đọng thành vũng, loang ướt cả những người nằm bên cạnh.

Cả buồng giam không ai biết được họ mắc tội gì mà bị tra tấn đến thế. Chỉ biết qua những tiếng quát tháo gầm gừ của bọn mật thám từ buồng tra tấn vẳng xuống, thì hình như chúng tình nghi họ là trưởng ban ám sát. Buồng tra tấn lấy cung cách đó không xa, tiếng bọn chúng quát hỏi, tiếng đòn nện, tiếng kêu la đến lạc giọng của người bị tra vẳng xuống buồng giam rõ mồn một.

- Tụi bay gọi tụi tao là Việt gian? ừ thì Việt gian!

Chừ Việt gian đánh Việt ngay đây? Huỵch' Huỵch! Hự?

Hư! Có khai không- Gan hả? - Câu quát tháo này ngày nào chúng cũng lặp đi lặp lại gần như một thứ kinh nhật tụng. Hình như bọn bán mình cho giặc cũng cảm thấy hổ thẹn trước những người kháng chiến, nên chúng phải lấy sự trâng tráo, tàn bạo để che lấp nỗi hổ thẹn.

Lượm mới được đưa về đây ba hôm. Hôm đầu tiên, nhìn Lượm bước ra khỏi buồng giam, theo tên lính ',Bê-vê-cu" cao to mang súng, đi qua cái săn hẹp rải đá dăm mọi người tự nhiên thấy ruột thắt lại- Họ đều nghĩ rằng sắp phải nghe tiếng la hét đau đớn, tiếng van khóc thương tâm của chú bé trạc tuổi em, tuổi con cháu họ ở nhà. Họ co rúm người, chờ đợi giây phút cực hình. Phải nghe tiếng kêu la xé ruột của một đứa con nít đang cái tuổi chơi bi, chơi đáo mà bị búa đinh dần vào mắt cá chân, bị roi da xé tướp thịt, bị thúc đầu gối vào ngực, vào bụng cho đến trào máu. Quả là một cực hình đối với những người lớn tuổi.

Nhưng mọi người như bị hẫng Họ không nghe tiếng chú bé kêu la. Chỉ nghe tiếng quát hỏi, gầm rít hung tợn của tên võ sĩ Năm ngựa.

- Ai dẫn đường cho tụi Việt Minh đánh đồn Hộ Thành?

- Tụi nó hiện chừ núp ở mô?

- Súng đạn tụi hắn giấu ở mô?

- Mi liên lạc với những ai trong thành phố? Tên chi?

Nhà ở mô?

Sau mỗi câu hỏi là tiếng những cú đấm, cú đá, tiếng thân người ngã vật xuống nền xi măng.

- Lấy búa đinh nện vào mắt cá chân cho tao?

- Phang đúng vào giữa gan bàn chân!

- Xối nước vô!

Vẫn không nghe thấy tiếng thằng bé đáp lại hoặc kêu khóc. Mọi người đoán chừng, tụi chúng chỉ quát tháo doạ nạt vậy thôi, có đánh cũng đánh đấm tát tai, chứ tay chân nào mà nó khảo tra con nít.

Khoảng một giờ sau, cửa buồng giam mở, tên cai ngục xốc nách Lượm xô dúi vào, chửi:

- Ông nội mi! Mi đã muốn ra gan thì mi còn chết.

Cả những người đang nằm cũng bật vùng dậy, lết xúm đến quanh Lượm. áo quần nó ướt sũng nước, cặp môi sưng vều, khóe mắt chảy dài hai vết máu; khuôn mặt tím bầm như quả bồ quân; hai mí mắt húp lên không mở ra được; hai mắt cá chân như hai quả trứng xanh tím máu máu đọng; gan bàn chân đỏ hỏn. Họ bế nó lên, cởi áo quần ướt ra. Nó bật rên đau đớn như bị lột da. Tấm lưng bé nhỏ ôm tròn những làn roi tím sẫm.

Nhiều người quên phức cả tụi mật thám có thể đang nghe ở bên ngoài, căm phẫn kêu lên:

- Ui chao! Con nít mà họ tra khảo đến nước ni thì không biết họ là cái giống chi!

- Chắc họ không con, không cái! Toàn đồ tuyệt tự cả.

Người lộ vẻ xót xa, uất ức hơn cả là một ông cụ khoảng trên dưới bảy mươi nhưng dáng bộ khí sắc còn quắc thước. Ðầu quấn khăn nhiễu tam giang tóc búi tó củ hành, râu ba chòm tiêu muối dài gần chấm ngực, mặc áo đoạn năm thân bằng thao nhuộm đà. Suốt ngày cụ ngồi xếp bằng ở một góc buồng giam, từ bi từ tại, như tham thiền nhập định. Nghe đâu cụ bị bắt vì có hai con trai là cán bộ Việt Minh cao cấp.

Cụ ngồi sát bên Lượm, đưa bàn tay khô héo nhăn nheo, sờ nắn khe khẽ những vết đánh tím bầm trên mặt nó.

Nước mắt cụ tự nhiên ứa ra, lăn dài trên đôi gò má hóp, chui biến vào chòm râu bạc tiêu muối. Cụ nâng vạt áo lên chùi mắt, hỏi:

- Chớ họ vu cho cháu tội chi mà họ đánh đập cháu dữ ri? Lượm mấp máy cặp môi sưng vều, yếu ớt trả lời:

- Dạ họ nghi cháu là tình báo, liên lạc của Việt Minh.

- Răng cháu không nói với họ: Tui nhỏ ri thì đã biết cái chi mà vu cho tui là tình với báo?

- Dạ không chối được- Họ bắt cháu có cả truyền đơn Việt Minh. - Dại quá cháu ơi! Thì cháu cứ nói là thấy giấy rớt giữa đường, tui không biết mới lượm chơi.

- Nhưng cháu mang cả ngàn tờ lận .

Cả buồng giam đều phải phì cười. ông cụ cũng mếu máo cười.

- Giỏi! Giỏi? - ông cụ tự nhiên buột miệng khen. - ừ mang cả ngàn tờ thì khó chối thiệt!

- Cháu cũng không thèm chối. Làm thì nhận chớ sợ chi mà phải chối, ông!

- Nhưng đã nhận rồi thì việc chi họ còn đánh? - Anh thợ máy hỏi chen vô.

Họ còn bắt tui phải khai: liên lạc với ai, tên chi, ở mô. Bắt khai rứa thì làm răng mà khai được.

Bên ngoài song sắt cửa bỗng có tiếng nạt:

- Ai cho phép tụi bây được xúm xít nói chuyện với hắn?

bay không biết hắn là loại Việt Minh nguy hiểm à? Bay muốn ăn cặc bò chắc?

Mọi người giật bắn, ngẩng nhìn. Bản mặt to bè của thằng cai ngục với cái mũi sần sùi, bằng nắm đấm cặp mắt trợn ngược, áp dính vào chấn song sắt:

ông cụ nói:

- Thấy cháu nó nhỏ dại mà bị đòn đau quá, chúng tôi thương tình săn sóc cháu, chứ có chuyện chi mô.

Nhỏ? - Cai ngục nhếch miệng, gằn giọng. - Nhỏ rứa chứ tụi tao mà ngó lơ một cái là hắn chồm lên cứa cổ tụi tao ngay! Tản ra! Bay mà còn xúm lại với hắn, đừng có trách tao là ác. - Lượm nằm nghiêng mặt ngoảnh ra phía cửa- Nó cố mở hé mắt nhìn xéo lên mặt tên cai ngục. Cặp môi sưng vều như cũng nhệch cười: " Mi nói rứa mà e coi bộ đúng đó!". Nó lẩm bẩm nói vậy, không thành tiếng.

Ðược hai hôm chúng lại xuống xốc nách Lượm lôi lên phòng lấy cung. Lần này trở về khắp thân hình Lượm không còn một chỗ nào không có lằn roi rướm máu.

Ðể "thằng đánh đồn Hộ Thành" (chúng gọi Lượm như vậy) có thì giờ hồi lại trận đòn cũ, trước khi hỏi cung tiếp, bọn an ninh gọi đến thằng bé bán kẹo gừng, "một trong mấy tên tay chân lợi hại của đồng-râu".

Thằng bé bán kẹo gừng bị bọn di động viên giải cùng với Lượm về ty An ninh. Khi bước qua cái cổng có hai cánh cửa sắt lớn với thằng bảo vệ quân cầm súng đứng gác, hai trụ cổng đội tấm biển đề: Ty An Thừa Thiên.

Lượm ngoảnh nhìn thằng bán kẹo gừng gầy gò, ngơ ngác, lủi thủi đi sát bên mình, tay bị trói bằng dây điện thoại liền vào tay mình. "Thiệt là chuyện cắc cớ" - Lượm nghĩ nhanh như người đang bơi giữa sông, hắn như thanh củi rêu đang trôi, tự nhiên vướng vào người mình rồi mắc cứng vô luôn? Không biết rồi đây hắn có gở ra được mà trôi đi không? Thằng Tư-dát mà biết chuyện ni thì chắc hắn phải cười đến nứt lòng bóng mà chết"' Từ hôm vào đây Lượm vẫn nằm chung với nó trên một manh bao tải rách ở góc trong cùng buồng giam. Mảnh bao tải là của người đàn ông có dáng dấp thợ máy cho.

Ðêm đầu tiên, hai đứa lúi húi lấy tay phủi bụi rác-trên nền gạch, dọn chỗ nằm. Anh thợ máy nằm ở góc đàng kia đưa mắt nhìn chúng. Anh chợt nhổm dậy rút cái bao tải đang lót dưới lưng lấy mảnh dao cạo giấu dưới hòn gạch, cắt làm đôi, quẳng cho hai đứa một nửa- Anh lại nằm vật xuống, không nói một tiếng, hai tay ôm lấy bụng- Sáng hôm đó anh vừa bị đòn hỏi cung.

Ba ngày đêm nằm chung với nhau- Lượm mới có dịp nhìn kỹ "thanh củi rều".

Nó teo tóp quắt queo như một thân cây non bị đem phơi nắng. đầu nó nhỏ như đầu chim cái mũ phở cứ xoay tròn trên đầu như chong chóng. Chốc chốc nó lại đưa tay chộp mũ như sợ gió thổi bay. Da mặt nó xanh bủng xanh beo, cặp mắt nhỏ mà dài như hai vết nứt. hơi hiêng hiếng, Nó có cái nhìn lén lút sợ sệt, nhẫn nhục chịu đựng - cái nhìn của những con vật nuôi trong nhà, thường xuyên bị hàng hạ, đánh đập.

Lúc bị bắt, rá kẹo gừng của nó còn đến hơn một nửa, trên rá đậy cái mẹt lấm tấm bột trắng. Hôm đầu tiên, khi tên cai ngục cởi trói cho nó và Lượm mở cửa đẩy hai đứa vào buồng giam, nó cứ đứng sững ở gần cửa, hai cánh tay vòng ôm khư khư rá kẹo như sợ bị ai giật mất. Nó bất chợt òa khóc rất to. Nước mắt nước mũi chảy lầm lòa lầm lện. Lúc ấy cả buồng giam mới biết nó cùng chung số phận với họ. Lượm thấy nó khóc thảm thiết quá liền nổi cáu vì ngượng với những người xung quanh đang chăm chăm nhìn mình. "Không chi thì nó cũng bị bắt cùng với mình. Nó khóc làm xấu hổ lây cả mình - Lượm nghĩ vậy".

Lượm ẩy nhẹ thằng bé kẹo gừng, nói như gắt:

- Việc chi mà mi khóc- Có khóc hết hơi thì người ta chẳng tha mô. đi vô chỗ góc tê, tìm chỗ mà nằm nghỉ cái cho khỏe còn hơn!

Lượm len qua những người đang nằm ngồi ngang dọc, đi vào chỗ còn trống ở góc trong cùng, dọn dẹp chỗ nằm cho cả hai đứa.

Lượm kéo tay nó ngồi xuống bên cạnh nói:

- Thôi mi đừng khóc nữa- Nằm xuống đây mà ngủ đi một giấc. Rồi sáng mai xin người ta tha cho về, khóc làm chi thêm tốn hơi.

Thấy hai tay nó vẫn ôm khư khư rá kẹo -đeo trước bụng, Lượm gắt:

- Mi cởi ra rồi để lên phía đầu nằm tê. Ai người ta lấy mà cứ ôm kè kè.

Nó nhìn Lượm vẻ sợ sệt, nghi ngờ, không biết có nên nghe theo hay không.

Thì kệ mi. Cứ ngồi đó mà ôm lấy rá kẹo cho đến sáng mai . Lượm ngả lưng xuống tấm bao tải, ngoảnh mặt vô tường- Ngồi mãi cũng mỏi, thằng bé bán kẹo gừng đành phải cởi rá kẹo, sẽ sàng đặt lên phía đầu nằm, nằm co quắp sát bên Lượm.

Sáng hôm sau vừa choàng tỉnh dậy, hai tay nó đã chấp ngay lấy rá kẹo. Nó mở cái mẹt đậy, nhìn và kêu lên, giọng sợ hãi:

- Ui chao ơi! Kẹo chảy nước hết rồi!

Nó có vẻ sợ rá kẹo chảy nước hơn cả việc bị bắt vào tù.

Cả ngày hôm đó nó chỉ ngồi xắm nắm sửa sang rá kẹo- Nó vét bột áo dưới đáy rá, bốc bỏ lên cái mẹt bột áo và cẩn thận xếp ra một góc. Bàn tay nó mới khéo léo, thành thục, tỷ mẩn làm sao! Bột và nước kẹo chỉ định tí chút ở chót mấy đầu ngón tay. Lượm ngồi dựa lưng vào tường, nhìn nó ngồi dạng hai cẳng chân như hai ống quyển, làm mầu làm mè cho những viên kẹo mà phải phì cười.

- Mi sửa sang làm chi cho mệt! - Lượm nói- - Trước sau rồi cũng chảy nước hết thôi.

- Trưa ni là tui bán hết chứ dại chi để cho chảy nước.

Nó nói không ngẩng lên, bàn tay vẫn thoăn thoắt áo bột cho kẹo, môi mấp máy đếm số kẹo.

- Mi bán ở mô mà bán hết mau rứa?

- Tui chi đi một vòng từ cửa Thượng Tứ xuống chợ đông Ba, vòng qua cầu Gia Hội rồi vòng về cầu Ðông ba cũ là hết, chớ khó chi?

- Nhưng lở người ta không thả mi ra, giam mi cả tháng thì làm răng?

Nó hoảng hốt nhìn Lượm, bàn tay đang lăn kẹo sững lại giữa mớ bột.

- Ui chao ôi! Rứa thì chết tui!

- Chết cóc khô chi! Chảy nước thì đem ra ăn quách.

- ăn? Có mà tui muốn chết! - Nó trề môi vẻ chế giễu khinh khi câu nói dại ngộ của Lượm- - Anh cứ làm như là kẹo của cha mạ mình sai mình đi bán không bằng? Tui mà để cho kẹo chảy nước chiếc mô là mấy roi quăn mông đít chiếc nớ.

- Rứa mi đi bán kẹo cho ai?

- Bán cho mụ Cả Lễ, chủ lò kẹo gừng, kẹo đậu phụng, kẹo kéo ở Bao Vinh, anh không biết à? Tui ở cho mụ. Mụ giao cho tui mỗi ngày phải bán cho hết năm trăm kẹo.

Sáng đi, tối về, phải đem nộp đủ cả vốn cả lời- Thiếu một xu là mụ bắt nhịn đói. Mụ chửi cho lút mặt lút mũi. "Mụ tổ tiên cha mi". - Nó nhại giọng chửi. - "Mi bán không có lời thì ra ngoài bờ sông xúc cứt mà ăn- Bà chẳng có cơm mô mà cho mi hốc để mi đi chơi-.. ơi...ơn". Gặp phải ngày mưa ngày gió, lỡ để kẹo chảy nước, bán ế, thì cứ việc nằm dài sấp mặt trật khu ra mà ăn roi mây. Rứa đó, có giỏi cứ để cho kẹo chảy nước mà ăn...

Nó kể với giọng dửng dưng, như đã quá quen với tất cả những cái đó. Câu chuyện của nó lâm cho cả buồng giam chú ý. Anh thanh niên có dáng dấp học trò hỏi:

- Rứa cha mẹ em mô cả?

- Cha mẹ em chết hết năm đói rồi. Em phải đi ăn mày ở ngoài chợ đông Ba. Một bữa, mụ nớ đi chợ gặp hỏi chuyện rồi đem em với hai đứa nữa cũng bằng em về nuôi.

Mụ bắt tụi em đi bán kẹo gừng kẹo đậu phụng cho mụ.

Nó trả lời, giọng không lộ chút buồn thương, đưa mấy ngón tay lên miệng mút mút chỗ mật và bột đính.

Lúc đầu Lượm nhìn nó với cái nhìn vừa thương hại vừa ác cảm. Con nít mà nom nó dễ ghét thế nào ấy! Cặp mắt thì lấm la lấm lét, dáng bộ thì co ro run rẩy như con chó đứng trước cái gậy giáng cao của chủ. Nhưng sau khi nghe nó kể chuyện; Lượm thấy lòng s e lại. "Kể nó cũng khổ và tội nghiệp thật!" - Lượm nghĩ bụng- Chỉ nhìn nó săn sóc cái rá kẹo gừng, mút mấy đầu ngón tay dính mật bột với vẻ đói khát thèm thuồng Lượm đã hình dung khá rõ sự độc ác của mụ chủ khốn nạn của nó. Lượm hỏi:

- Mi tên chi?

- Thúi. Trước tui tên là Thơm, nhưng mụ chủ chửi: "Mi như bãi cứt khô năm nắng mà đòi là Thơm!" Rồi mụ cải tên tui là Thúi. ai gọi tên tui là Thơm là mụ đè tui ra mụ đập.

Anh thanh niên bị tình nghi là trưởng ban ám sát buột miệng chửi:

- Tổ cha cái loại người nớ phải cho đạn găm vô óc, để sống làm chi cho nhớp đất!

- Mi mấy tuổi rồi?

- Mười hai.

ông cụ đang ngồi từ bi từ tại, lắc đầu chép miệng:

- Thằng cháu nội ông ở nhà lên mười mà còn cao to phốp pháp hơn cháu.

Nó ngước cặp mắt nhỏ như hai vết nứt nhìn ông cụ, nói:

- Cháu được ăn mỗi bữa có hai chén cơm lưng lưng với muối mè mặn chát, không ngày mô roi không quất lên đầu lên lưng thì lớn làm răng được ông!

Lượm nhìn rá kẹo gừng, nói với nó:

- Chưa chắc hôm ni người ta thả mi ra, mà ngó ra chỉ đến sáng mai là kẹo gừng chảy nước hết. Rứa thì mi nhờ các anh các bác ở đây mỗi người mua cho một ít.

Không đến lúc thả ra, không bán được xu mô cho mụ chủ thì mi chết...

Cả buồng giam nhiều người cùng nói:

- ừ, đưa lại đây tao mua cho mấy đồng.

Nhiều người lần cạp quần, móc túi áo lấy tiền.

Anh thợ máy cười nói:

- Nhưng chú mình phải giả bộ như đang bán ngoài phố ấy đeo rá vô cổ, rồi đi quanh mà rao...

Nhiều người hưởng ứng:

- Ðúng, đúng? Phải rao cho thiệt hay thì sẽ mua hết rá kẹo. Không thì thôi!

Vẻ mặt thằng Thúi vụt tươi hẳn lên. "Hơ hớ? Bị bắt vô tù mà lại hóa hên! Nó mừng rơn nghĩ bụng. Bán ở đây chẳng lo đứa mô tranh mất khách của mình". Nó yếu, bán hàng thường bị những đứa khỏe hơn ăn hiếp, tranh mất khách.

Nó đứng ngay dậy, chụp cái mũ phở lên đầu, đeo quai rá kẹo gừng vô cổ, rao khe khẽ:

- Ai kẹo gừng đê... ê... ê...

- Phải rao to như lúc rao ngoài phố ấy, - nhiều người cười nói. - Rao nhỏ trong cổ rứa, ai biết mi bán cái chi mà mua.

Thằng Thút sợ sệt nhìn ra cửa:

- Nhưng lỡ họ nghe tiếng họ đập chết?

- việc chi đến họ mà họ đập? - Anh thanh niên nói. - Ði bán kẹo gừng chứ có mần trưởng ban ám sát mô mà lo họ đập?

Ðược cả buồng giam khuyến khích, thằng Thúi cất cao giọng rao to:

- Ai ăn kẹo gừng đê-..ê..-ê Kẹo gừng nóng mới ra lò...

Ngọt như đường cát, mát như đường phèn én... én... đê ê!

Giọng rao nó quả là tuyệt, lanh lãnh trong veo, ngân nga và vang rất xa. Cái cảnh tranh tối tranh sáng buồn bã ảm đạm, nhớp nhúa của buồng giam như bỗng tan biến bởi giọng rao lảnh lói của nó. Nhiều người nhắm mắt lại, tưởng như đang đứng trên một đường phố, hay ngồi trên ghế đá dọc bờ sông Hương, đầu cầu Tràng Tiền, trước bến Phu Văn Lâu... dưới bóng mát tán lá xanh đậm cây me, cầy phượng, cây vông đồng, cây mù u.

Góc này, góc kia, nhiều người vui vẻ cất tiếng gọi:

- ? kẹo gừng bán năm giác đây!

- Bán một đồng đây! Bán rẻ vô nghe?

- Kẹo mới ra lò chi mà ướt mèm ri!

Buồng giam phút chốc nhộn nhịp và vui hẳn lên.

Góc này góc kia nổi lên tiếng nhai kẹo lốc cốc, tiếng xuýt nước ngọt, tiếng bình phẩm khen chê kẹo bở kẹo dai.

Loáng một cái, rá kẹo đã vơi hẳn, chỉ còn vài chục chiếc. Thằng Thúi sướng rơn; miệng nó cười, mắt nó cũng cười, tiếng rao của nó cũng lảnh lói vang xa. Và sự vui mừng của nó như lây ra tất cả mọi người.

- Tồ cha tụi bây muốn làm loạn nhà tù à?

Tiếng quát giật giọng làm mọi tiếng động vui nhộn vụt ngừng cả lại như bị một lát dao chém đứt ngang.

Tiếng xích sắt loảng xoảng, tiếng khóa lách cách, cánh cửa giật mở toang. Tên cai ngục cầm cây roi cặc bò sừng sộ bước vào. Một người nào đó nói:

- Tụi tui mua kẹo gừng ăn chứ có dám làm chi mô...

Hắn quắc mắt nhìn mọi người, rồi như không biết trút tức giận vào ai, hắn bước vào giữa buồng, quất một roi tướt thịt vào giữa tấm lưng bé bỏng, còm nhom của thằng Thúi, và co chân dộng một đạp, làm nó ngã dúi vào tận góc phòng, mấy chục chiếc kẹo gừng chưa bán hết và bột trắng đổ tung tóe lên đầu lên cổ những người ngồi gần đó. Lượm giận muốn phát điên, tay chân nó run lên lẩy bẩy. Nó quài tay ra sau lưng, nắm lấy hòn gạch vỡ mà nó vẫn kê làm gối... Một người ngồi cạnh liền giữ chặt tay nó lại Cảnh đó diễn ra chỉ khoảnh khắc trong bóng tối mờ mờ góc buồng, tên cai ngục không nhìn thấy. Hắn nói:

- Tụi bay cứ liệu cái thần hồn! Một tay thằng này đã từng đánh chết khối thằng tù Cộng sản cứng đầu cứng cổ nhất ở lao Thừa Phủ trước tê. Hạng tụi bay thì chưa thấm béo chi mô. Hắn hằm hằm bước ra, đóng sầm cửa, khóa lại.

Bị đánh quá bất ngờ, thằng Thúi không kêu được một tiếng, nằm lịm, chết khiếp.

Lượm bò ra đỡ nó dậy, rồi lần mò nhặt những chiếc kẹo rơi vãi bỏ vào rá cho nó.

- Thôi đi vô tê nằm chút cho đỡ đau, kẹo văng ra thu lượm cho hết rồi đó.

Thằng Thúi lết vô chỗ nằm, gương mặt còn dại đi vì chưa hết cơn khiếp đảm. Nó nằm xuống bên cạnh Lượm, tay chân vẫn còn run rẩy. Lát sau, nó bật khóc thút thít, vừa khóc vừa nói nhỏ vào tai Lượm:

Anh có ăn kẹo thì ăn đi. Tụi bán rứa là đủ vốn rồi...

Anh muốn ăn mấy cái thì ăn, tui không lấy tiền của anh mô. Nghe nó nói tự nhiên Lượm ứa nước mắt, quàng tay ôm ngang người nó kéo sát vào mình.

 

 

Nguồn: truyen8.mobi/t71107-tuoi-tho-du-doi-chuong-16.html?read_type=1


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận