Tài liệu: 12 con vật và tuổi

Tài liệu
12 con vật và tuổi

Nội dung

12 CON VẬT VÀ TUỐI

 

Thời cổ đại, Trung Quốc đã dùng ''Giáp Tý 60 hoa" do 10 Thiên Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) kết hợp với 12 Địa Chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) tạo thành để ghi lại trật tự năm, gọi là Can - Chi ghi năm.

Vào khoảng Triều Hán, để tiện cho việc ghi nhớ, người ta đã lấy tên của 12 con vật kèm theo. 12 Địa Chi thành: Tý - Chuột, Sửu - Trâu , Dần - Hổ, Mão - Thỏ, Thìn - Rồng, Tý - Rắn, Ngọ - Ngựa, Mùi - Dê, Thân - Khỉ, Dậu - Gà, Tuất - Chó, Hợi - Lợn. Tên 12 con vật này chính là 12 tuổi (cầm tinh). Mỗi một năm dùng tên 1 con vật trong số đó làm tuổi (cầm tinh) của năm đó; cứ 12 năm là 1 vòng tuần hoàn. Khi suy tính năm, nếu là năm có chữ "tý'', như: Giáp Tý, Bính Tý, Mậu Tý, Canh Tý, Nhâm Tý đều là ''năm Chuột”. 12 con vật (12 cầm tinh 12 tuổi) là để chỉ năm tuổi, năm sinh của một người nào đó, ví dụ người sinh năm Tý sẽ cầm tinh con Chuột. Dùng con Giáp để tính tuổi cũng tương đối thuận tiện.

Trong 12 con vật, chuột đứng đầu, Lợn đứng cuối cùng. Tại sao lại sắp xếp như vậy? Có 2 cách giải thích.

Cách thứ nhất: thời cổ đại. Trung Quốc 1 ngày đêm được chia thành 12 giờ, 1 giờ Can – Chỉ tương đương với 2 tiếng hiện giờ. Ví dụ; nửa đêm là giờ Tý, Mặt trời mọc là giờ Mão, buổi trưa là giờ Ngọ, Mặt trời lặn là giờ Dậu. Cổ nhân đã căn cứ vào sự nhận thức của họ về thời gian xuất ẩn của các con vật để áp vào 12 giờ trong ngày.

Tý: từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng ngày hôm sau, nghe nói Trời – Đất sinh thành vào giờ Tý, lúc mới sinh, chưa có vết rạn nứt, hơi chưa thoát ra ngoài, vật chất không có cách nào lợi dụng được, bị chuột cắn thành các vết rạn nứt, hơi mới thoát ra ngoài được, vật chất có thể lợi dụng được. Như vậy Chuột đã mở được thần thông của Trời – Đất, nó xứng đáng được đứng đầu, và người ta đã áp nó vào giờ Tý.

Sửu: từ 1 giờ sáng đến 3 giờ sáng. Sau khi Chuột mở được khe hở của Trời Đất, ăn no cỏ, Trâu vẫn đang nhai lại, chuẩn bị sáng sớm đi cày ruộng, do đó Trâu được áp vào giờ Sửu.

Dần: từ 3 giờ sáng đến 5 giờ sáng, nghe nói giờ này Hổ hung dữ nhất. Lại có truyền thuyết con người được sinh vào giờ Dần, chữ ''Dần'' có nghĩa là kính nể, con người sợ Hổ nhất. Do vậy được áp vào giờ Dần.

Mão: từ 5 giờ sáng đến 7 giờ sáng, lúc này Mặt trời vẫn chưa mọc, Mặt trăng (còn gọi là Thỏ ngọc) vẫn còn chiếu sáng khắp nhân gian, do đó Thỏ ngọc - động vật duy nhất trong Thần thoại Cung Trăng được áp vào giờ Mão.

Thìn: Rồng là động vật trong Thần thoại, truyền thuyết nói rằng buổi sáng từ 9 giờ là lúc bầy Rồng làm mưa, do vậy giờ Thìn tự nhiên thuộc về con Rồng.

Tỵ: Rắn thường nấp mình trong lùm cỏ, theo truyền thuyết, giờ Tỵ (từ 9 giờ đến 11 giờ). Rắn không di chuyển trên đường đi, sẽ không làm con người bị thương, cho nên giờ Tỵ thuộc về Rắn.

Ngọ: từ 11 giờ đến 1 giờ chiều, lúc này Mặt trời vẫn trên đỉnh đầu, theo cách nói của Phương Sĩ (là người Cầu Tiên học Đạo), giờ Ngọ Dương khí đạt tới tột độ. Âm khí sắp được sản sinh, ngựa chạy không rời khỏi mặt đất, là ''loại động vật Âm”, do vậy giờ Ngọ thuộc về Ngựa.

Mùi: từ 1 giờ đến 3 giờ chiều, Dê ăn cỏ lúc này, nghe nói không ảnh hưởng tới sự tái sinh của cỏ, nên người ra áp Dê cho giờ Mùi.

Thân: từ 3 giờ đế 5 giờ chiều: trời sắp tối vào giờ này. Khỉ thích kêu la, do vậy Khỉ được áp vào giờ Thân. Mặt khác Khỉ rất giỏi đu bám và trèo cây, chữ này và chữ Thân là 2 chữ đồng âm.

Dậu: từ 5 giờ chiều đến 7 giờ tối: lúc này trời bắt đầu tối, gà bắt đầu lên chuồng, do vậy được áp vào giờ Dậu.

Tuất: từ 7 giờ đến 9 giờ tối: lúc này trời tối, Chó bắt đầu làm ''nhiệm vụ'' giữ nhà canh gác, giờ Tuất thuộc về Chó.

Hợi: từ 9 giờ đến 11 giờ đêm: trời vào đêm, Lợn đã ngủ say, nên người ta áp Lợn vào giờ Hợi.

Cách thứ 2:

Việc lấy tên 1 con vật áp vào 1 Địa Chi tương ứng là được xác định trên cơ sở Âm - Dương. Do đó Địa Chi là bên dưới Thiên Can nên người ta lấy chân, vuốt của động vật để phân biệt theo Âm - Dương. Người ta đã xếp: Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất 6 Địa Chi này thuộc Dương, do vậy đã dùng những động vật có đặc trưng số lẻ trên thân thể để biểu thị và đã lấy đặc trưng số chân, vuốt lẻ như: Chuột, Hổ, Rồng, Khỉ, Chó đều có 5 ngón và Ngựa chỉ có 1 móng; còn 6 Địa Chi: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu , Hợi thuộc Âm, nên dùng các con vật có móng vuốt chẵn để biểu thị như: Trâu, Thỏ, Dê, Gà, Lợn đều là 4 vuốt, Rắn tuy không có chân nhưng lưỡi của nó lại chia ra làm 2 (ở đầu lưỡi) do vậy cũng thuộc động vật có đặc trưng trên cơ thể là số chẵn. Như vậy 12 địa Chi đã kết hợp với 12 con vật tổ thành 12 con vật.

Nghe nói, ''Tý'' đương nhiên là thuộc về Dương, nhưng nó lại có một chút tính Âm, Vì giờ Tý là 11 giờ đêm hôm trước đến 1 giờ sáng hôm sau, đêm hôm trước là thuộc Âm, sáng hôm sau là thuộc Dương. Như vậy, ''Tý'' có cả Âm cả Dương do vậy cũng phải có đại diện là con vật mang cả Âm và Dương, cho nên người ta đã chọn con Chuột, vì chân trước có 4 móng vuốt - là số chẵn, chân sau của Chuột lại có 5 móng vuốt - là số lê, con Chuột nhỏ bé đã mang đủ cả Âm Dương nó xứng đáng được áp vào giờ Tý cũng mang cả Âm và Dương, và đương nhiên nó đứng đầu giáp bảng 12 con vật.

Phương pháp tính tuổi theo cầm tinh có quan hệ với phương pháp ghi năm Can Chi, trong Tạng lịch, dân tộc Tạng Trung Quốc sử dụng đã phản ánh rất rõ điều này. Lịch Tạng cũng dùng phương pháp ghi năm Can - Chi, nhưng nó có thay đổi về mặt hình thức, họ dùng Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ để thay cho 10 can, Giáp, Ất là Mộc, Bính, Đinh là Hoả, Mậu, Kỷ là Thổ, Canh, Tân là Kim, Nhâm , Quý là Thủy. Nó lại dùng 12 con vật: Chuột, Trâu, Hổ, . . . để thay cho 12 Địa Chi. Như vậy năm Giáp Tý Nông lịch, lịch Tạng sẽ gọi là năm Mộc Chuột; năm Quý Hợi Nông lịch, Tạng lịch sẽ gọi là năm Thủy Lợn. Một vòng tuần hoàn 60 năm Can - Chi, trong Tạng lịch gọi là ''quýnh đăng”, ''quýnh đăng'' là tiếng Tạng có nghĩa là Mộc Chuột, biểu thị tuần hoàn 60 năm là được bắt đầu tính từ năm Mộc Chuột.

12 con vật, ở một số nước khác cũng có sử dụng, chỉ có điều là nó không giống hoàn toàn như ở Trung Quốc. Ví thử như Ấn Độ có Chuột, Trâu, Sư Tử, Thỏ, Rồng, Rắn độc, Ngựa, Dê, Khỉ (giống Khỉ nhỏ), chim cánh vàng, Chó, Lợn. Hy Lạp có: Trâu đực, Sơn Dương, Sư Tử, Lừa, Con Cua, Rắn, Chó, Cá Sấu, chim Hồng Hạc, Vượn, Chim Ưng. 12 con vật của Ai Cập, ngoài trường hợp lấy Mèo thay cho Chuột, còn lại đều giống như của Hy Lạp.

Ở các nước Âu, Mỹ, về cơ bản mệnh danh tuổi của con người lại căn cứ vào 12 chòm sao vùng Hoàng Đạo thiên văn học (như: Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hát, Nhân Mã, Ma Kết, Bảo Bình , Song Ngư) chu kỳ không phải tính theo năm mà tính theo chu kỳ tháng. 12 chòm sao sắp xếp theo trật tự tháng, những người sinh từ ngày 22- 12 đến ngày 19-1 sẽ cầm tinh chòm sao Ma Kết, và căn cứ lần lượt như thế.

NGUYỄN NỮ HOÀNG ANH – MINH ĐỨC –

THU THỦY (khảo cứu sưu tầm)




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/131-02-633384218538935000/12-Con-vat-va-Tuoi/12-con-vat-va-tuoi.htm


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận