Tài liệu: Ngày lễ tết - ngày tốt

Tài liệu

Tóm tắt nội dung

NGÀY LỄ TẾT - NGÀY TỐT Xuân xã và Thu xã Ngày Xuân xã và ngày Thu xã, thường được gọi là Xã nhật vốn là ngày nông dân thời Cổ đại Trung Quốc lễ Thần
Ngày lễ tết - ngày tốt

Nội dung

NGÀY LỄ TẾT - NGÀY TỐT

 

Xuân xã và Thu xã

Ngày Xuân xã và ngày Thu xã, thường được gọi là Xã nhật vốn là ngày nông dân thời Cổ đại Trung Quốc lễ Thần Đất. Xuân xã là ngày Tuất thứ 5 tính từ ngày Lập Xuân, là ngày người nông dân thời xưa tế lễ cấu xin Thần Đất cho 1 năm được mùa; Thu xã là ngày Tuất thứ 5 tính từ ngày Lập Thu, là ngày người nông dân tế lễ để tạ ơn Thần linh sau khi thu hoạch vụ Thu.

Tên ''Xuân xã'' đã được ghi lại trong cuốn Lễ ký sách cổ Tiên Tần Trung Quốc, có khả năng phong tục này có từ trước Tây Chu. Thu xã có sau, khả năng vì mùa Xuân thường cầu xin, mùa Thu thì lễ tạ mên mới lập Thu xã. Tên "Thu xã" xuất hiện trong thơ Đường Tăng Tán Kiến, qua chi tiết này có thể lấy ngày "Thu xã'' đã thịnh hành trong dân gian thời Nhà Đường.

Trong thực tế, Xuân xã và Thu xã lần lượt ở trước và sau Xuân Phân, Thu Phân, cũng có người xem chúng như là “Tiết”? Thời Cổ đại trong điều kiện trình độ sản xuất còn lạc hậu, con người trước khi bắt đầu cày cấy vụ Xuân và sau khi thu hoạch vụ Thu, đều cầu xin và cảm tạ Trời Đất, tế lễ Thần Đất là điều hết sức tự nhiên. Ngày ray, đã từ rất lâu không còn những ''Xã nhật'' này.

Nhập mai và xuất mai

Mỗi khi đến lúc giao thời cuối Xuân đầu Hạ, từ lưu vực Giang Hoài ở Trung Quốc cho tới khu vực rộng lớn miền Nam Nhật Bản đều rộn rã bước vào ''mùa Mai vàng" (mai, mơ).

Ngay từ rất sớm, hơn 1 nghìn năm trước đây người dân Trung Quốc đã có nhận thức về thời tiết mai vũ của Đông Á. Hàng năm, cứ đến mùa mai vàng, trời lại đầy mây đen, mưa tầm tã hết ngày nây sang ngày khác, đôi khi còn kèm theo thắng trận bão, thường thường từ 10 đến 20 ngày không nhìn thấy Mặt trời, có khi mưa liên tục hơn 1 tháng.

Thời tiết tối trời tối đất này lại vừa vặn đúng vào thời kỳ quả mai chín vàng, do vậy người ta gọi là ''mai vũ" (mưa mai) hoặc ''hoàng mai vũ" (mưa mai vàng). Và còn vì thời kỳ này nhiệt độ dần dần tăng lên, độ ẩm không khí cao, có lợi cho mốc nảy nở, hoa màu trong lòng đất và vật dụng trong gia đình cũng dễ bị mốc nát, do vậy người ta còn gọi là ''mưa mốc”. Trong cuốn Bản thảo cương mục Lý Thời Trân người thời Minh cũng có viết ''Mưa mai hoặc còn gọi là mưa mốc vì quần áo và đồ vát thời kỳ này thường bị mốc đen''. Qua đây chúng ta thấy mưa mai có ảnh hưởng rất sâu sắc trong đời sống người dân Trung Quốc.

Bạn có thể thấy ở Nông lịch có ngày ''Nhập mai" và ngày ''Xuất mai, đó là cách tính toán của Thiên văn học: sau Tiết Mang Chủng gặp ngày Bính là ngày Nhập mai, sau Tiết Tiểu Thử gặp ngày Mùi là Xuất mai.

Nhìn chung, khu vực Hoa Trung (gồm các Tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam) và Hoa Đông (gồm các Tỉnh Sơn Đông, Giang Tô, Triết Giang, An Huy, Giang Tây, Phúc Kiến và Đài Loan, Thượng Hải), sau Tiết Mang Chủng gặp ngày Nhâm là Nhập mai, sau Tiết Tiểu Thử gặp ngày Thìn là Xuất mai, trước sau chênh nhau 4 ~ 5 ngày. Từ Nhập mai đến Xuất mai dài khoảng hơn 30 ngày, tức là từ thượng tuần tháng 6 đến thượng trung tuần tháng 7. Cách tính này, thời gian cố định, do vậy so với tình hình thực tế khác nhau rất nhiều.

Về mặt Khí tượng học, nhìn chung thường lấy nhiệt độ bình quân 230C, độ ẩm tăng mạnh, sau trận mưa không có Mặt trời liên tục từ 4 ngày trở lên làm ngày bắt đầu Nhập mai; lấy nhiệt độ 280C, Sau 1 trận mưa lớn, độ ẩm giảm rõ rệt, sau khoảng thời gian tương đối dài có nắng làm ngày Xuất mai, tức là giữa mùa Hạ; cũng có cách nữa là lấy nhiệt độ lên cao 300C hoặc 330C liên tục 3 ngày, mùa mưa kết thúc là Xuất mai. Phán đoán ngày Nhập mai Xuất mai theo nhân tố Khí tượng có sớm hơn so với phán đoán trên cơ sở Thiên văn ở vùng duyên hải Đông Nam và Hoa Đông, nhưng lại muộn hơn so với vùng Hoa Bắc (gồm các Tỉnh: Hà Bắc, Sơn Tây, Thành phố Bắc Kinh, Thiên Tân) của Trung Quốc.

Trước thời gian vào đầu mùa Hạ, cũng có không ít tháng xuất hiện thời tiết trời tối đen mưa liên tục, được gọi là: ''Xuân tấn'' hoặc ''nghênh mai vũ'' (đón mưa mai). Và trước khi bước vào giữa Hạ, nếu có sự xuất hiện thời tiết trời mưa âm u rõ rệt, gọi là ''Đảo Hoàng Mai”? Cá biệt có năm không xuất hiện thời tiết âm u mưa nhiều thì gọi là ''không mai'' hoặc ''thiếu mai”?

Mai Vũ được hình thành như thế nào? cuối Xuân đầu Hạ, luồng không khí nóng ẩm được đưa đến từ vùng cao áp phó nhiệt đới Thái Bình Dương, kèm theo lượng mưa lớn hơi nước theo hướng Đông Nam duyên hải tràn vào Đồng bằng Giang Nam, luồng không khí khô lạnh chưa bị suy yếu được đưa đến từ vùng cao áp lạnh phương Bắc từ Hoa Bắc thổi thẳng vào bờ Bắc Sông Trường Giang. Hai luồng không khí nóng lạnh này có sức mạnh ngang nhau thổi theo lưu vực Sông Giang Hoài rồi gặp nhau, không khí nóng ẩm thì nhẹ hơn không khí khô lạnh, luồng không khí nóng ẩm này vừa đuổi theo luồng không khí khô lạnh, vừa theo bề nghiêng của luồng không khí khô lạnh thổi trượt lên trên, đồng thời nó cũng bị nhiễm lạnh dần. Sau khi luồng không khí nóng ẩm thổi trượt lên trên độ cao nhất định, lượng hơi nước ngưng kết lại, hình thành những tầng mây dày đặc, loại mây này rất khó tan ra, trong mây có lượng nước lớn, có thể mưa không ngừng. Mai Vũ đầu Hạ được hình thành như thế đó.

Từ rất lâu đời, nhân dân lao động Trung Quốc không chỉ có nhận thức về Mai Vũ, mà còn tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm xem trời đất. Ví dụ như câu ngạn ngữ. ''Xuân ấm áp Hoàng Mai sớm, Xuân giá rét Hoàng Mai muộn, câu này chỉ ra mối quan hệ giữa nhiệt độ của mùa Xuân và sự xuất hiện sớm muộn của Mai Vũ, ''Xuân tuyết nhất bách nhị thập thiên vũ" câu này có nghĩa là: sau 120 ngày (đầu tháng 6) sau khi Lập Xuân tuyết rơi sẽ có mưa; ''phát tận đào hoa thủy, tất thí tảo Hoàng Mai, câu này có nghĩa là: nước mưa mùa hoa đào nở rộ đặc biệt nhiều, sẽ không xuất hiện Mai Vũ. Những câu ngạn ngữ này cho đến ngày nay người ta vẫn sử dụng tham khảo.

Mùa Mai Vũ, lượng nước mưa rất dồi dào, nhiệt độ lại cao, rất có lợi cho sự sinh trưởng của cây cối đặc biệt là lúa nước. Nhưng, Mai Vũ đến và đi có khi sớm khi muộn, thời gian từ khi Nhập mai đến khi Xuất mai cũng có khi dài khi ngắn, lượng mưa cũng có khi nhiều khi ít. Mai Vũ đến quá sớm sẽ nguy hại đến việc thu hoạch lúa mạch, nếu đến muộn thì lại ảnh hưởng tới việc gieo trồng vụ hè và quản lý ruộng đồng. Tổng lượng Mai Vũ đã có thể đạt trên 1000 milimét (ví dụ như vùng Giang Nam vào năm 1954). Trong mùa Mai Vũ có mưa lớn liên miên và còn kèm cả bão suốt 4 hôm trở lên (như các năm 1953, 1964, 1969. . . ), do vậy mùa Mai Vũ thường gây ra những trận lụt lội nguy hiểm. Nhưng mùa Mai Vũ đến chậm thậm chí xuất hiện không mai hoặc thiếu mai (như các năm 1958, 1959, 1978. . . ) thì sẽ gây ra hiện tượng hạn hán. Do đó, trong thời kỳ Mai Vũ, vừa phải chú ý nạo vét mương, rãnh sông, ngòi khơi thông dòng chảy, lại vừa phải chú ý tích trữ nước để phòng hạn hán.

Thời

15 ngày sau Hạ Chí được gọi là "Thời”, trước đây ở khu vực Giang Nam, trong thời gian này người ta trồng lúa muộn. Để tiện cho việc sắp xếp hoạt động nông nghiệp, người ta chia Thời thành 3 giai đoạn: Đầu Thời, Trung Thời, Mạt thời, gọi chung là "Tam Thời”. Từ Quang Khởi người Triều Minh trong cuốn Nông chính toàn thư có viết: ''sau Chí (Hạ Chí) nửa tháng là Tam Thời, Đầu Thời 3 ngày, Trung Thời 5 ngày, Mạt Thời(cuối thời) 7 ngày. Vùng nông thôn Thượng Hải, 3400 năm trước cũng dùng chế độ Tam Thời này. Số ngày của Đầu Thời, Trung Thời, Mạt Thời không giống nhau là do tình hình địa lý ở các vùng không giống nhau, thói quen sinh hoạt, phong tục không giống nhau, cách nói cũng khác nhau. Cùng với sự phát triển của sản xuất Nông nghiệp khoa học việc dùng Tam Thời để sắp xếp công việc đồng áng đã không còn thích hợp.

Hạ Chí đếm 9

Trung Quốc cổ đại, lưu truyền cách ghi ngày: từ Hạ Chí đếm 9, cách này phản ánh sự thay đổi thời tiết của mùa Hạ.

Từ Hạ Chí đếm 9 hay còn gọi là Hạ Cửu (Hạ 9/9), lấy ngày Hạ Chí làm ngày thứ 1, cứ mỗi 9 ngày gọi là "1 đoạn'' hoặc còn gọi là ''cửu 1'' ''cửu 2" . . . cho đến “cửu 9”, 81 ngày kết thúc, lúc ngày đã là Bạch Lộ, trời bắt đầu chuyển lạnh. Nông thôn miền Bắc Trung Quốc, lưu truyền Bài ca Hạ Cửu Cửu như sau:

            “Cửu 1 đến Cửu 2, quạt không rời khỏi tay

            Cửu 3 – 27 nước lạnh ngọt như mật

            Cửu 4 – 36 mồ hôi ướt đầm áo

            Cửu 5 – 45 ngon cây gió múa hát

            Cửu 6 – 54 hóng mát chớ ngồi lâu

            Cửu 7 – 63 đêm ngủ không đắp chăn

            Cửu 8 – 72 cẩn thận kẻo nhiễm lạnh

            Cửu 9 – 81 nhà nhà tìm áo bông

            ''Bài Ca Hạ Cửu Cửu” lưu truyền ở Giang Nam như sau:

''Cửu 1 Cửu 2 quạt luôn tay

Cửu 3 - 27 nước lạnh ngọt như mật

Cửu 4 - 36 mồ hôi ra như tắm

Cửu 5 - 45 đầu cuối là thu múa

Cửu 6 -  54 hóng mát Phật vào Chùa

Cửu 7 - 63 lên giường nhớ trải khăn

Cửu 8 - 72 đắn đo chăn mỏng đắp hay ôm?

Cửu 9 - 81 nhà nhà đốt lò than.”

Những năm 80, trên xà nhà lớn bằng gỗ cây Du ở Chính Đường miếu Vũ Vương (Vua Vũ - vị Vua đầu tiên của Triều Hạ) Thành phố Lão Hà Khẩu Tỉnh Hồ Bắc, người ta đã tìm thấy có khắc Bài ca Cửu Cửu, ca từ như sau:

''Hạ Chí vào đầu Cửu, quạt lông cầm trên tay

Cửu nhị (2) - 18 bỏ mũ tiếp liền khăn

Cửu 3 - 27 rời nhà mồ hôi ra

Cửu 4 - 36 cuốn chiếu nghỉ ngoài sân

Cửu 5 - 45 viêm thu tự lão hổ

Cửu 6 - 54 hóng gió vào cửa Chùa

Cửu 7 – 63 đầu giường để sẵn khăn (ga trải giường)

Cửu 8 - 72 giờ Tý tìm chăn đắp

Cửu 9 - 81 mở hòm lấy áo bông”

Những bài ca trên đều nói về sự cảm nhận nóng lạnh và các hoạt động của con người, đã thể hiện một cách sinh động quá trình thời tiết từ nóng đến cực nóng rồi chuyển sang lạnh. So với ''Đông Cửu Cửu”, giá trị ứng dụng của nó rộng hơn, vì ở Trung Quốc sự chênh lệch nhiệt độ trong mùa Đông giữa miền Nam và miền Bắc là khá lớn còn mùa Hạ thì ngược lại. Chúng ta hãy so sánh giữa Quảng Châu và Trường Xuân, bình quân nhiệt độ tháng 1 lạnh nhất là Quảng Châu 13,40C, còn Trường Xuân là -170C hai địa phương chênh nhau 30,40C. Nhiệt độ bình quân tháng 7 lạnh nhất là: Quảng Châu 28,30C, còn Trường Xuân là 22,90C như vậy chỉ chênh lệch nhau 5,40C. Qua đây ta thấy ''Hạ Cửu Cửu” có thể áp dụng được hầu hết các địa phương trong toàn quốc. Bắt đầu đếm từ Hạ Chí 9.9 – 81 ngày là hết ngày nóng nực.

Đông Chí đếm 9

Đông chí đếm 9 cũng gọi là ''Đông Cửu Cửu”, nó phản ánh tình hình thay đổi nhiệt độ giữa mùa Đông của Trung Quốc. Đông Cửu Cửu cũng được tính từ ngày Đông Chí, có địa phương thì tính sau Đông Chí một ngày, cứ 9 ngày được tính là 1 đoạn hoặc gọi là "Cửu 1'' ''Cửu 2'' . . . . Cho đến Cửu 9 - 81 ngày thì kết thúc, lúc này sắp đến Xuân Phân năm thứ 2 trời ấm dần lên.

Đông Cửu Cửu thường thường diễn ra trong thời gian từ Đông Chí đến Kinh Trập, tức từ 22 – 12 Dương lịch đến trước sau ngày 1 2 - 3. Thời kỳ này, ở Trung Quốc trừ khu vực Hoa Nam ra còn cơ bản các khu vực khác đều chịu sự khống chế của cao áp lạnh, cùng với không khí lạnh phương Bắc liên tục tràn xuống phương Nam, từng trận mưa tuyết cũng đến theo, nhiệt độ bị giảm mạnh, trời rét đậm, cho nên còn gọi là “ngày Đông đếm 9”.

''Ngày Đông đếm 9'' vừa đúng vào thời gian Đại Hàn và Tiểu Hàn trung tuần tháng 1.  Thời gian này, nhiệt độ bình quân ở khu vực phía Bắc Sông Hoài và Tần Lĩnh đều dưới 00C. vùng Đông Bắc từ -10 đến -300 băng đóng dày tới 2,3m. Lưu vực Sông Trường Giang ở giữa 0 đến 100C; Quảng Đông và Quảng Tây, nhiệt độ bình quân lúc này cũng chỉ từ 10 đến 150C. Nếu như tính nhiệt độ thấp nhất xuất hiện trong thiều năm nay, thì phải kể đến khu vực Đông Bắc trong thời gian này xuống tới -30 đến - 400C, khu Vực Hoa Bắc từ -10 đến -200C, lưu Vực sông Trường Giang từ -5 đến -100C, Hoa Nam cũng có khả năng xuất hiện nhiệt độ thấp trên dưới 00C.

“Tam Cửu” (3.9), trời rét nhất, nguyên nhân cũng giống "Tam phục'' nhưng tình hình thì ngược lại. Sau khi vào Đông, nhiệt lượng mặt đất dần dần bị mất đi, nhiệt độ cũng hạ thấp dần. Ở Bắc bán cầu, đến ngày Đông Chí, ban ngày ngắn nhất, ánh sáng Mặt trời chiếu xiên rất mạnh, mới nhìn tưởng Đông Chí là ngày lạnh thất, kỳ thực không phải. Bởi vì, trong thời gian rất dài trước Đông Chí, mặt đất đã tích rất nhiều nhiệt, lúc này vẫn ít hơn nhiệt lượng bị mất đi, nhiệt độ vẫn tiếp tục bị hạ thấp, thời tiết ngày một lạnh, thêm vào đó, lúc này thường thường có không khí lạnh tràn xuống phía Nam, do đó, trước sau "Tam Cửu'' sau Đông Chí, sẽ xuất hiện thời tiết lạnh nhất trong một năm.

Khoảng bắt đầu từ cửu 5; cùng với sự dịch chuyển vị trí của Mặt trời lên phía Bắc, nhiệt do ánh sáng Mặt trời toả ra mật đất hấp thụ được lớn hơn nhiệt mất đi, mặt đất và không khí gần mặt đất lại bắt đầu bốc lên cao. Qua cửu cửu, thời tiết dần dần chuyển sang ấm áp những bước chân của mùa Xuân đã bắt đầu lan toả từ vùng biên cương phương Nam lên phương Bắc.

Trong thời gian đếm 9, sự lạnh nóng của thời tiết là dần dần thay đổi. Bài ca Đông Cửu Cửu lưu truyền trong dân gian Trung Quốc, đã nêu rõ vấn đề này và có nội dung như sau:

 

''Cửu 1 Cửu 2 nước không chảy xiết

Cửu 3 cửu 4 băng phá cối đá

Cửu 5 – 45 chim rời tổ múa

Cửu 6 – 54 bờ rậu mọc gai mềm

Cửu 7 – 63 đi đường phanh cúc áo

Cửu 8 – 72 Chó vàng nằm chỗ mát

Cửu 9 – 81 cày bừa đều ra đồng.”

            Bài ca Đông Cửu Cửu lưu truyền ở lưu vực Sông Trường Giang có nội dung như sau:

            “Cửu 1 Cửu 2 không ra tay

Cửu 3 Cửu 4 đi trên băng

Cửu 5 Cửu 6 sông tan băng

Cửu Cửu 8 men sông ngắm liễu

Cửu 9 cửu 1 chân ra ruộng cày”.

Qua đây ta thấy được, từ vùng Hoa Bắc đến lưu vực Sông Trường Giang. Khi ''Cửu Cửu'' kết thúc cũng là lúc bắt đầu mùa màng cấy vụ Xuân bận rộn.

“Ngày Đông đếm 9'' đã gây một số phiền phức nho nhỏ cho cuộc sống của con người, nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi nhất định cho sản xuất nông nghiệp. Ví dụ: nhiệt độ thấp liên tục, khiến cho lúa tiểu mạch Đông có thể thuận lợi qua được giai đoạn phát dục ''Xuân hóa”, làm chết cóng trứng sâu hại và nấm bệnh, kích thích sự giải phóng chất dinh dưỡng trong lòng đất. Ngạn ngữ nông nghiệp có câu: "Tam cửu thì lạnh, Tam phục thì nóng, không lạnh không nóng, ngũ cốc không cho thu hoạch, do vậy trong sản xuất nông nghiệp phải có ''ngày Đông đếm 9”? Và đương nhiên, trong thời gian cửu cửu phải chú ý để phòng và khắc phục những nhân tố bất lợi. Khi bắt đầu vào thời gian cửu cửu phải chuẩn bị thức ăn dự trữ, tu sửa chuồng  trại, đảm bảo điều kiện tốt để vật nuôi cây trồng vượt qua được mùa Đông một cách an toàn; trong thời gian cửu cửu phải kết hợp tích trữ phân bón và xây dựng hệ thống thủy lợi đồng ruộng, chú ý trừ diệt cỏ bờ ruộng, tiêu diệt sâu và trứng sâu hại; sau cửu cửu phải tích cực tranh thủ thời gian chuẩn bị xuống giống làm vụ Xuân. ''Mùa Xuân gieo 1 hạt mùa Thu thu vạn thạch'' (1 thạch = 10 đấu), người dân rất quen thuộc với lý lẽ này.




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/127-02-633384093715028750/Lich-phap-va-cac-loai-lich-Dong-phuong/Nga...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận