THIÊN NHIÊN – MỘT CUỐN LỊCH VĨ ĐẠI
Trong bài thơ Phú đắc cổ nguyên thảo tống biệt, nhà thơ đời Đường Bạch Cư Dị đã chỉ ra sự tuần hoàn mỗi năm một độ xanh tết rồi khô héo của cỏ phương (phương thảo - cỏ thơm). Sự tuần hoàn xanh tốt rồi khô héo của cỏ phương là sự thay đổi theo khí hậu, hàng năm mùa Xuân đến cỏ phương lại hồi tỉnh.
Thực vật là như vậy, thế còn động vật thì thế nào? Chim di cư (chim nhạn, chim yến,…) cứ xuống miền Nam rồi lại lên miền Bắc, là một ví dụ. Ngạn ngữ nông nghiệp có câu ''Người không thấy Xuân về chim biết khi Xuân đến'', như vậy ta thấy loài chim có phản ứng với thời tiết, khí hậu còn mẫn cảm hơn con người.
Trong giới tự nhiên, sự xanh tốt khô héo thịnh suy của thực vật, sự di chuyển qua lại của các loài chim di cư, cho đến các hiện tượng: sương, tuyết, đóng băng, sấm, . . . tất cả được gọi là ''vật hậu”? Ngành khoa học quan sát trắc học hiện tượng vật hậu rồi ghi lại tiến tới nghiên cứu mốt quan hệ tương hỗ giữa giới tự nhiên với động thực vật và sự biến đổi chu kỳ của các điều kiện môi trường (khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng . . . ) gọi là ''vật hậu học”.
Hiện tượng vật hậu giống như tiếng kèn của Đại Tự nhiên, có tác dụng hướng dẫn báo hiệu thời vụ việc đồng áng nông tang. Ngay từ xa xưa, trước khi sáng tạo ra ''24 Tiết'' (khoảng thời kỳ Chiến Quốc) tổ tiên người Trung Quốc chủ yếu dựa vào quan sát mọi biến đổi hoạt động của cỏ cây, chim muông để chỉ đạo hoạt động sản xuất rông nghiệp. Từ đó, về sau, rất nhiều kiến thức về vật hậu, phần thì được coi là kinh nghiệm được ghi chép trong sách Nông học, phần thì được các thi nhân dẫn vào thơ ca văn chương. Ví dụ như: Lục Du thời Nam Tống trong bài thơ Điều đề (chim hót) đã viết:
“ Dã nhân vô lịch nhật
Điểu đề tri tứ thời
Nhị nguyệt vấn tử quy
Xuân canh bất khả trù
Tam nguyệt vấn Hoàng Anh
Ân phụ mân tằm cơ
Tứ nguyệt minh bố cố
Gia gia tằm thượng thốc”
(Dân thường không có lịch, nghe tiếng chim hót biết đủ 4 mùa, tháng 2 hỏi chim Tử quy, mùa Xuân cấy cày không thể chậm trễ, tháng 3 hỏi chim Vàng anh, thiếu phụ buồn vì tằm đói, tháng 4 nghe chim Cuốc kêu, tằm của mọi nhà đều chụm lại . . .)
Lý Thời Trân trong cuốn Bản thảo cương mục có câu “A công a bà, cát mạch tháp hòa'' ( Cụ ông cụ bà, cắt lúa mạch cấy lúa) đây là kinh nghiệm nghe chim Cuốc kêu để thu hoạch mùa màng và cấy lúa.
Trong dân gian, còn lưu truyền rất nhiều câu ngạn ngữ nông nghiệp về phương diện vật hậu. Ví dụ: vùng Hoa Bắc có những câu: ''tảo phát chưng miên hoa'' (táo nẩy mầm thì trồng bông); ''liễu mao khai hoa, điểm đậu an qua'' (cây liễu mao ra hoa thì trồng đậu bấm dưa); vùng Tứ Xuyên thì có câu: ''nhạn nga bay qua mau gieo hạt bông”, Vùng An Huy và một số vùng khác cũng có những câu ngạn ngữ nông nghiệp. Do hiện tượng vật hậu là sự phản ánh điều kiện thời tiết khí hậu của các năm, còn Tiết khí hàng năm đều vào 1 ngày cố định trong tháng. Do vậy dựa vào vật hậu nắm vững thời vụ, so với việc chỉ đơn thuần dựa vào các câu ngạn ngữ nông nghiệp Tiết khí để dự liệu thời vụ, sẽ càng thiết thực và đáng tin cậy.
Ở Trung Quốc, bắt đầu từ thời Hán đã có vật hậu của ''72 Hậu”. Nhưng do sự sinh trưởng của cây cối ở mỗi vùng lại khác nhau, các năm cũng không giống nhau. Do vậy lịch thời Cổ đại chưa giải quyết được vấn đề. Nếu như ở cùng một khu vực lựa chọn một số động thực vật có tính tiêu biểu, ghi chép lại các biến đổi hoạt động chủ yếu ở những thời kỳ không giống nhau của chúng và kết hợp với ghi chép về nhiệt độ của đài khí tượng, thời tiết, hoạt động nông tang đồng áng, qua nhiều năm tích luỹ, có thể biên soạn thành ''Lịch Tự nhiên'' của khu vực. Tham khảo Lịch Tự nhiên, có thể biết được việc đến sớm hoặc muộn của các mùa trong các năm, điều này có tác dụng trong việc chỉ đạo sản xuất nông nghiệp.
Công tác nghiên cứu quan sát trắc tượng về vật hậu không chỉ là để dự báo thời vụ mà nó còn có tác dụng tốt trong nhiều lĩnh vực khác. Hiện nay, phương pháp phân định 4 mùa có rất nhiều như dựa vào Thiên văn học, dựa vào khí hậu, còn có cách dựa vào thói quen. Dùng vật hậu phân định 4 mùa, gọi là ''vật hậu quý”? Dùng vật hậu quý chỉ đạo sản xuất nông nghiệp là rất thực tế.