Tài liệu: Bát quái, Hà Đồ, Lạc Thư, Ma Phương, Cửu Trù, Hồng Phạm, Kinh dịch theo dòng thời gian và truyền thuyết

Tài liệu
Bát quái, Hà Đồ, Lạc Thư, Ma Phương, Cửu Trù, Hồng Phạm, Kinh dịch theo dòng thời gian và truyền thuyết

Nội dung

BÁT QUÁI, HÀ ĐỒ, LẠC THƯ, MA PHƯƠNG, CỬU TRÙ

HỒNG PHẠM, KINH DỊCH THEO DÒNG THỜI GIAN

VÀ TRUYỀN THUYẾT

Theo truyền thuyết có liên quan đến tế lễ, bói toán, ta ngược tên đến thời Tam hoàng kỷ dưới thời Vua Phục Hy (2852 - 2737 Tr.CN); kể rằng một hôm, Phục Hy đang đi dạo bên bờ Sông Hoàng Hà bỗng có một con Long Mã nổi lên trên sông và tiến lại phía nhà Vua. Con vật kỳ quái này mang trên lưng một chiếc Bát quái có tám dấu, mỗi dấu có ba hàng bố trí đối xứng quanh một vòng tròn nửa đỏ, nửa đen.

Con Long Mã này có ba mươi vẩy đen hình vuông kề gần hai nhăm vảy khác màu trắng hình tròn. Tất cả hợp thành những hàng xen kẽ trắng, đen và tạo thành ba hình vuông đồng tâm. Hoàng đế hiểu đó là “điềm trời” phái xuống và ghi lại những dấu hiệu thần bí kia.

Tám dấu với hình trung tâm được gọi là Bát quái, còn tập hợp những điểm đen trắng hợp thành một bảng gọi là Hà Đồ (Hà là sông, Đồ là bảng; Hà Đồ là tấm bảng phát hiện ở bờ Sông Hoàng Hà).

Bát quái có ở trong một quyển sách là Kinh Dịch. Những bài của cuốn sách ấy được giải nghĩa trước bởi Hà Đồ và một bảng tương tự gọi là Lạc Thư (Lạc là một nhánh của Sông Hoàng Hà). Câu chuyện kể về Hoàng đế Đại Vũ (2205 – 2197 Tr.CN). Một hôm du thuyền, thấy một con rùa gọi là Thần Quy nổi lên trên Sông Lạc; nó mang trên lưng hai hàng chấm đen, trắng tạo thành một hình vuông ở bốn góc hai mươi chấm đen hợp thành, một chuỗi những số chẵn hai, bốn, sáu , tám. Hai mươi chấm trắng khác ở bốn cạnh hình vuông hợp thành một dãy lẻ một, ba, năm, bảy, chín ở giữa hình, năm chấm trắng, xếp theo hình chữ thập hợp thành chuỗi lẻ từ một đến chín.

Theo sách Chu Lễ có sáu loại màu là: Trời, Đất, và bốn phương Vũ trụ. Mỗi vật đều có màu của phương ấy.

Con rùa thần kia mai tròn ở trên là tượng trưng cho Trời và hình vuông ở dưới là Trái đất, còn vảy của ó có những hình và dòng chữ ở đó người ta có thể đọc được những lời tiên đoán.

Lúc đầu, Phục Hy đã tập hợp tám dấu mà rồng thiêng đã dâng lên ở Hoàng Hà, tạo thành sáu mươi bốn ký hiệu, mỗi ký hiệu có sáu hàng chữ không phải ba như cũ. Đó là nội dung khởi thủy của Kinh Dịch đầu tiên. Ông giải thích những hình thức mới sáu hàng ấy để dùng phổ cập, nhưng không được truyền lại. Sau này có một số chú giải nữa nhưng đều nông cạn cả. Đến khoảng năm 1219 – 1122 Tr.CN) Văn Vương[1] cha của Võ Vượng, người sáng lập ra vương triều nhà Chù, thay đổi cách sắp xếp đầu tiên của bát quái. Ông dùng bảng đó chồng lên thành sáu mươi bốn quẻ để bói và ghi những điều xét đoán mà sau này các thầy bói đã lợi dụng các điều ấy để hành nghề.

Các thầy bói cổ Trung Quốc đều coi đây là quyển sách ''thần'' nhưng rất tối nghĩa. Đời sau nhiều người đã tìm cách chú giải theo ý chủ quan của mình. Thư viện Bắc Kinh còn giữ được gần hai ngàn bản thuộc loại này.

Một thuyết khác, trong rất nhiều truyền thuyết được lưu lại trong sách vở Trung Hoa, và được các học giả tranh luận sôi nổi rồi chấp nhận một cách võ đoán, là ''Long Đồ - Qui Thư”.

Khảo sát về Hà Đồ, Lạc Thư, ta thấy người đầu tiên ghi lại nguồn gốc xa xưa của chúng là Khổng An Quốc, đời Hán. Họ Khổng viết: “Đời vua Phục Hy có con Long Mã xuất hiện trên Sông Hà, nhà Vua bèn bắt chước theo những vằn của nó để vạch Bát quái: gọi là Hà Đồ. Đời Vua Vũ có con Thần Qui xuất hiên trên Sông Lạc. Nhà Vua bèn nhân đó mà xếp đặt thứ tự để làm thành chín loại (Hồng Phạm) gọi là Lạc Thư”.

Theo từ điển Từ Nguyên của Trung Quốc thì: Long Mã là một con ngựa giống như rồng. Nói Mã Đồ tức là nói con Long Mã dâng tấm bản đồ xuất hiện trên Sông Hà thời Phục Hy. Về sau, khi Đế Nghiêu lên ngôi, Long Mã lại xuất hiện, mình xanh vằn đỏ, có mang sách mệnh của Trời ban cho nhà Vua để tri thiên hạ.

Linh Qui là con rùa thiêng, vì người xưa thường dùng nó vào việc bói toán có tính chất linh thiêng huyền diệu, và Qui Thư tức là Lạc Thư.

Theo sách Kỳ môn ngữ tổng quy thì con Long Mã cao tám thước, năm tấc (thước Tàu), xương cổ dài, cánh bên phải nhúng xuống nước mà không ướt, trên đó có bức cổ đồ (tấm đồ xưa). Long Mã xuất hiện trên Sông Mạnh Hà, còn gọi là Mạnh Độc, thuộc Huyện Vũ Tên, Tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Sau nhân dân Trung Hoa thấy cát trên bờ sông này màu vàng gọi là Hoàng Hà.

Những tài liệu trên đây của Từ Nguyên tỏ ra khá tỉ mỉ. Nhưng thực ra xuất xứ của Đồ, Thư vẫn bao trùm nhiều bí mật và hoài nghi. Bởi vậy, nhiều cuộc bàn cãi sôi động của Nho gia đã xảy ra trong nhiều Thế kỷ. Nhiều bộ sách cổ từ đời xưa được lôi ra để chứng minh những xuất xứ kỳ lạ ''quái đản''. Mâu thuẫn càng tăng thì dị biệt càng nhiều. Đó cũng là một trong những nguồn gốc sinh ra nhiều điều mê tín, thần bí cho các triều đại về sau chúng ta hãy xem chú giải của Từ Nguyên về hai chữ Hà Đồ và Lạc Thư.

Từ Nguyên viết: ''Khi Phục Hy làm Vua thiên hạ, thấy con Long Mã mang tấm đồ xuất hiện trên sông (Hà) bèn bắt chước những vằn nét của nó để vạch ra Bát quái. Vằn, nét của nó có số một và sáu ở  dưới, hai và bảy ở trên, ba và tám ở bên tả, bốn và chín ở bên giữa, còn năm và mười ở giữa”.

Và đây chú giải chữ Lạc Thư. ''Vua Đại Vũ trị thủy thấy con Thần Qui mang thư có nét trên lưng, đếm từ số một đến số chín, bèn nhân đó xếp đặt thứ tự làm thành chín trù. Những nét đó được bố trí như sau: đầu đội 9, đuôi đạp 1, bên tả 3, bên hữu 7, đôi vai 2, 4, đôi chân 5, 8 và ở giữa số 5. Đại Đái Lỗ chép “Minh đường cổ chế” có những điểm 2, 9, 4, 7, 5, 3, 6, 1. Đó là phép Cửu cung. Về sau bọn phương kỹ dựa vào đó để phụ họa mà làm Lạc Thư. Đám hậu Nho sau này cũng theo thuyết đó.

Từ đó đến nay, nhiều người hình như lặng lẽ chấp thuận một sự võ đoán táo bạo của đám Hán học và Nho gia, không một phản ứng. Chẳng thế mà ngày nay một số học giả Đông, Tây đã coi đây như là một sự kiện lịch sử hiển nhiên. Chấp nhận như vậy, thực ra chỉ là một điều bất đắc dĩ còn khiên cưỡng chưa lý giải được của những người đời sau.

Sau đây là hình vẽ Hà Đồ Lạc Thư (gọi tắt là Đồ Thư - Xem hình trang tiếp theo).

Những chấm trắng tượng trưng cho Thiên khí (Dương) và những chấm đen tượng trưng cho Địa khí (Âm); Phục Hy vạch ra Bát quái, tức tám quẻ (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài). Chữ Quái là một cách đọc âm của chữ Quải, tức là treo lên. Tiếng Việt ta gọi là quẻ. Từ tám Quẻ đơn này mỗi Quẻ có ba vạch. Phục Hy lại đặt Quẻ nọ lên trên quẻ kia, tức là trùng quái, luân phiên hết một lượt, thì được 8 x 8 = 64 Quẻ.

Trong Lạc Thư, Đại Vũ lấy chín số (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9) của những chấm đen, trắng vạch ra một Ma Phương (Carré magique) lấy số 5 đặt ở trung tâm, cộng ngang, cộng dọc, cộng trên xuống, dưới lên, phải sang trái, trái sang phải, chéo góc bề nào cũng thấy số 15.

Số 15 này được gọi là số Thiên khí (năm chấm trắng), và Địa khí (mười chấm đen) ở trung tâm Đồ.

Cho nên quan hệ giữa Hà Đồ Lạc Thư theo quan điểm Nho gia là quan hệ biểu, lý (trong ngoài) và kinh, vĩ (dọc, ngang). Một tấm vải phải có hai sợi (ngang và dọc) đan lại với nhau mới thành. Địa cầu cũng có kinh tuyến và vĩ tuyến. Kinh, vĩ cũng còn dùng để chỉ những vật có trật tự chỉnh tề. Như vậy thì biểu, lý, kinh, vĩ không tách rời, xé lẻ. Theo Dịch lý, Hả Đồ cần Lạc Thư và Lạc thư cần có Hà Đồ. Khi Đồ làm biểu, tàm kinh thì Thư làm lý, làm vĩ. Khi Thư tàm biểu, làm kinh thì Đồ làm lý, làm vĩ.

Đó chính là thuyết ''cùng làm kinh, vĩ, biểu, lý” cho nhau của Nho gia, định rõ tương quan mật thiết giữa Đồ và Thư.




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/143-02-633385065400653750/Nen-van-hoa-co-than-bi-Dong-Tay-phuong-ky-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận