CÁC NHÀ BÁC HỌC VÀ KẺ PHIÊU LƯU ĐI
PHÁT HIỆN LẠI ĐẤT AI CẬP BỊ QUÊN LÃNG
Ngày 27 tháng 9 năm 1822, tại Viện Hàn Lâm bi ký và mỹ văn, ngài Jean Francois Champollion đọc bức thư gửi ông Dacier về chữ cái trong các văn tự ngữ âm mà người Ai Cập đã dùng, một văn kiện nổi tiếng làm ngọn nguồn cho việc phát hiện lại Ai Cập Cổ đại.
Xưa nay, nền văn minh của các Pharaon bao giờ cũng làm người ta chú ý và ngạc nhiên bởi vẻ tráng lệ của các công trình xây dựng và các sắc thái lạ lùng của tôn giáo. Ngày trước, những ký sự của Herodote, Diodore de Sicile, Strabon và Plutarque chứa đựng nhiều chi tiết quý giá về đời sống và nghi thức tôn giáo của người Ai Cập Cổ đại.
Nhưng đến Thế kỷ IV Tr.CN, Đạo Cơ đốc thẳng thế trong để quốc La Mã, nên năm 391 Vua Ihéodose I đóng cửa tất cả các đền miếu thờ ngẫu tượng. Các tăng nhân Ai Cập vốn là những kẻ độc quyền dạy cho dân văn tự tượng hình, dần dần mất hết và thứ chữ này cũng chết theo. Đến Thế kỷ VI thì đã chẳng còn ai biết đọc những văn bản khắc ở các công trình kiến trúc hay ghi trên giấy cói chỉ nữa.
Phải đến Thế kỷ XVII và nhất là Thế kỷ XVIII mới có những nhà du hành hiếu kỳ làm người ta chú ý đến đất Ai Cập, đến những công trình xây dựng và chữ viết bí ẩn ở đấy. Các tác phẩm của Benoit De Maillet và Claude Stcart ( cuốn Voyage en Egypte et Syrie, 1787- Hành trình qua Ai Cập và Syrie) của Constantin Francois De Volney đã đem đến cho người ta những hiểu biết chính xác về địa lý và các đền miếu lớn của Ai Cập. Sau cùng, một nhân vật rất đáng mến có một cuộc đời sôi nổi là Vivant Denon, bằng những bức vẽ của mình đã làm cho người Âu Châu biết đến đất nước Ai Cập.
Nguyên là quan hầu cận của Vua Louis XV, rồi làm bí thư sứ quán ở Petrograd và Napoli dưới triều Vua Louis XVI, Vivant Denon đã xin được Napoléon cho đi theo cuộc viễn chinh Ai Cập mặc dù ông đã 50 tuổi. Ở Ai Cập, Napoléon bổ nhiệm ông làm Giám đốc các viện bảo tàng và chính ông đã lập ra Bảo tàng Napoléon ngày nay là Bảo tàng Louvre.
Tác phẩm của Vivant Denon: Voyage dans la Basse et la Haute Egypte(Hành trình qua miền Hạ và miền Thượng Ai Cập) mở đầu cuộc phục sinh của Ai Cập Cổ đại. Xuất bản năm 1802, cuốn sách thành công rực rỡ trong toàn Châu Âu: bốn mươi lần in lại liên tiếp, và có những bản dịch sang tiếng Anh, tiếng Đức. Denon đã đi theo cánh quân của tướng Desaix đến Thượng Ai Cập, ở đấy nhiều khi nguy hiểm đến tính mạng và có khi phải tự tay cầm súng. Ông đã vẽ tất cả các công trình xây dựng thời các Pharaon mà ông gặp. Cái đẹp duyên dáng của các bức vẽ thật gợi cảm của ông đã góp phần tạo ra phong trào say mê Ai Cập trong tất cả giới Bác học lẫn quần chúng rộng rãi; đồ dùng và đồ trang trí nhỏ đều bắt chước nghệ thuật Ai Cập mọc ra nhan nhản và hậu quả bất ngờ, là nạn đánh cắp đồ cổ Ai Cập cũng phát triển nhanh chóng.
Tác phẩm của Vivant Denon xuất bản được ít lâu thì những công trình của khoảng 150 nhà Bác học mà Bonaparte đã đem theo sang Ai Cập cũng ra đời. Những người này đã đo, vẽ tất cả các công trình xây dựng, điêu khắc hợp lại thành bộ Description de I’Egypte (Địa chí Ai Cập) đồ sộ gồm 9 tập bài viết, 11 bản đồ và tranh vẽ khổ lớn xuất bản từ năm 1809 đến 1822. Nhưng ngay đến lúc ấy, vẫn chưa thể hiểu biết thực sự nước Ai Cập thời các Pharaon vì không đọc được chữ viết tượng hình phủ kín những bức tướng của các công trình xây dựng ở Ai Cập.
Tháng tám năm 1799, trong khi đào đất ở gần Rosette phía Đông Alexandria, một sĩ quan trong đạo quán của Bonaparte tìm thấy một phiến đá màu đen khắc đầy chữ. Viên tướng của ông ta là Menou cho chở phiến đá về Alexandria và đưa cho các nhà Bác học trong đoàn viễn chinh xem. Trên phiến đá có ba văn bản: văn bản trên cùng viết bằng chữ tượng hình, văn bản thứ nhì bằng loại chữ tương tự chỉ Ả Rập và văn bản thứ ba ở bên dưới bằng chữ Hy Lạp. Các nhà Bác học mà nhiều người biết chữ Hy Lạp đọc được ngay văn bản dưới cùng. Đó là một sắc lệnh từ thời Vua Ptolémée V (196 Tr. CN) và họ giả thiết rất đúng rằng, đó là bản dịch của hai văn bản trên; vậy là bản dịch đó có thể cung cấp cho người ta chiếc chìa khoá để đọc loại chữ tượng hình kia. Họ liền in rập các văn bản đó làm nhiều phiên bản đem về. Thật may vì khi quân Pháp vừa đầu hàng thì quân Anh liền chiếm lấy ''Phiến đá Rosette" làm chiến lợi phẩm. Ngày nay, phiến đá ấy được trưng bày tại Viện bảo tàng Anh ở London.
Việc phát hiện phiến đá Rosette được loan tin rất nhanh ở Châu Âu, tức thì bùng ra một cuộc chạy đua quyết liệt xem ai là người đầu tiên biết cách đọc được thứ văn tự bí ẩn kia.
Người hăng hái nhất cũng là người trẻ nhất trong số những người lao vào cuộc đua này là Jean Francois Champollion, bấy giờ mới độ 12 tuổi. Sinh năm 1790 ở Figeac, Champollion lớn lên trong một môi trường say mê Ai Cập. Người anh là Jacques Joseph, không được tham gia cuộc viễn chinh, là thư ký của Fourier, tỉnh trưởng Tỉnh Isère; ông này ở Ai Cập về đã cộng tác với Bộ Địa chí Ai Cập mà ông viết bài tựa dài về lịch sử. Được nuôi dạy giữa hai người ấy, Jean Francois cũng đâm ra say mê Ai Cập. Vừa trông thấy phiên bản phiến đá Rosettei cậu thề với lòng mình sẽ là người đầu tiên đọc được các văn tự bí ẩn ấy. Nhằm mực đích đó, năm 13 tuổi' Champollion không những đã học tiếng Hy Lạp và tiếng La tinh mà còn học cả tiếng Do Thái cổ, tiếng Ả Rập, tiếng Xiriắc và tiếng Aramê. Năm 17 tuổi Champollion học thêm tiếng Ba Tư và nhất là tiếng Côpt, vì tin chắc rằng tiếng Côpt chỉ là tiếng Ai Cập cổ viết bằng chữ Hy Lạp.
Sau khi trải qua nhiều lần không may vì dính dáng đến chính trị, năm 1821 , Jean Francois Champollion dọn đến ở Paris gần người anh lúc bấy giờ làm thư ký cho Bon Joseph Dacier, nhà Hy Lạp học, thư ký suốt đời của Viện Hàn Lâm bi ký và mỹ văn. Từ đấy, Champollion dốc hết tâm lực vào công việc tìm tòi của mình, đồng thời lo lắng theo dõi những tiến bộ của các đối thủ: người Anh Thomas Young, người Thụy Điển Johan David Akerblad và người Pháp Sylvestre de Sacy, những người ấy cũng đang cố tìm cách đọc cho được văn tự Ai Cập.
Tất cả mọi người, cũng như chính Champollion, đều vấp phải một cái khó chung: Văn tự Ai Cập là biểu ý hay là tượng âm? Nói cách khác là mỗi ký hiệu tương ứng với một ý hay một âm? Ngày 14 tháng 9 năm 1822, Champollion bỗng linh cảm rằng chữ Ai Cập vừa là biểu ý, chữ Ai Cập vừa là tượng âm. Nhờ phiến đá Rosette và những phiên bản các văn bia lấy ở những công trình kiến trúc khác do bạn hữu gửi từ Ai Cập về cho Champollion, Ông đã đọc được tên các Vua Hy Lạp và La Mã. Alexandros, Cléopâtre, Arsinoé, Auguste, Neron. Từ các tên đó, ông tìm ra các ký hiệu chữ cái cơ bản. Từ tên các dòng họ của Ptolémée và Caesar, ông chuyển sang dòng họ các Pharaon Ai Cập: Thoutmosis, Ramsè. Sau cùng ông đọc được hết tất cả các ký hiệu. Và ông đọc sang những văn bản ngày càng dài hơn rồi cuối cùng ông làm chủ được chữ Ai Cập.
Phát hiện của Champollion dù có gây ra ghen ghét, song dần dần vẫn được công nhận. Được một vài Công hầu trong triều ủng hộ, ông được cử làm người quản lý các bộ sưu tập Ai Cập của Bảo tàng Louvre. Năm 1827, giấc mơ của đời ông được thực hiện: Champollion được cử đi tiến hành một cuộc khảo sát tại Ai Cập. Năm 1828, ông lên đường trong mười lăm tháng cùng với những hoạ sĩ rất giỏi như Nestor I’hôte và một đội khảo sát người Italia do Rossellini, học trò, bạn thân và chỉ huy của ông. Ông đi dọc thung lũng Sông Nil từ Alexandria đến Aswan, lưu lại Abu Simbee rồi đi xa đến tận Thác thứ hai. Bấy giờ ông có thể tự hào mà viết thư cho Dacier, người bảo trợ ông nói rằng: “Tôi có thể thưa với ngài rằng, không phải thay đổi chút gì trong thư về chữ cái của các văn tự tượng hình của chúng ta; hệ chữ cái của chúng ta là đúng. Nó áp dụng được tốt không kém cho những văn bia ở tất cả các đền đài cưng điện và lăng tẩm của các thời Pharaon”.
Trong khi Champollion, cũng như các đối thủ của ông, hăng say làm việc tìm cách đọc các văn tự tượng hình thì thói ''sùng mộ Ai Cập'' trở thành thời thượng do cuốn sách của Vivant Denon và bộ Địa chí Ai Cập đã có tác động đầu tiên là kích thích lòng thèm muốn của những người sưu tầm và nhất là của các viện bảo tàng lớn ở châu Âu, ai cũng muốn có bộ sưu tập cổ vật Ai Cập riêng của mình. Ngoài ra, rất đông kẻ phiêu lưu bị thu hút đến Ai Cập với hy vọng sẽ làm giàu nhanh chóng.
Về nguyên tắc, Ai Cập đặt dưới quyền giám hộ của Vua Hồi giáo Constantinople, nhưng trong thực tế thì Phó Vương Mehemet Ali trị vì như một quân chủ chuyên chế ở Ai Cập. Ông muốn hiện đại hoá nước này, những đồ cổ không làm ông quan tâm. Vì vậy, các lãnh sự nước ngoài lợi dụng những sự dễ dàng mà họ được hưởng với tư cách nhà ngoại giao xin được Mehemet Ali cho phép khai quật và chuyển đi những công trình xây dựng thời cổ. Họ tuyển người trong đám giang hồ phiêu lưu, giao cho việc tiến hành những cuộc khai quật cho riêng họ và đem về những cổ vật tìm thấy hay mua được. Cứ như thế hình thành nhiều bộ sưu tập quan trọng.
Nhà ngoại giao và sưu tầm trứ danh người Italia Bernardino Drovetti, được bổ nhiệm làm lãnh sự Pháp tại Ai Cập n1810 (và giữ chức ấy đến tận năm 1829), đã lợi dụng chức vụ để kiếm lời rất nhiều trong những vụ buôn bán đồ cổ. Đôi khi chính ông điều khiển các cuộc tìm kiếm và tay chân của ông ngang nhiên cướp đoạt, nhất là trong những vụ buôn bán đồ cổ. Đôi khi chính ông điều khiển các cuộc tìm kiếm và tay chân của ông ngang nhiên cướp đoạt, nhất là trong vùng chung quanh Thebès. Ông ta gạ bán bộ sưu tập thứ nhất cho Vua Pháp Louis XVIII, nhưng nhà Vua chê là quá đắt. Bộ đó được Vua Piémonl mua. Nhờ vậy Bảo tàng Turino được sở hữu bộ sưu tập cổ vật Ai Cập giá trị lớn đầu tiên.
Kết quả ấy khuyến khích Drovetti lập hợp bộ sưu tập thứ hai. Theo lời khuyên của Champollion, Vua Pháp Charles X đã mua bộ ấy cho Bảo tàng Louvre. Rồi Drovetti tập hợp bộ sưu tập thứ ba, được Vua Phổ mua năm 1836. Bộ này không lớn bằng bộ sưu tập đầu, song nó cũng rất đẹp.
Hoạ sĩ Henry Salt, được bổ nhiệm làm Lãnh sự Anh năm 1816, theo gương Drovetti cũng tập hợp tiên tiếp ba bộ sưu tập. Tập thứ nhất được Bảo tàng Anh (British Museam) mua, trừ báu vật đẹp nhất - bộ quách bằng ngọc thạch trắng của Vua Dethi 1 - được bán cho một tư nhân với giá tiền bằng tất cả những vật khác của bộ sưu tập cộng lại. Bộ thứ hai, lớn hơn nhiều, được Vua Pháp Chartes X mua năm 1824. Nhờ hai bộ sưu tập mua của Drovetti và Salt mà Bảo tàng Louvre không thua kém gì Bảo tàng Turino. Bộ thứ ba thì sau khi Salt chết đã đem bán phần lớn cho Bảo tàng Anh.
Các bộ sưu tập đặc biệt ấy không thể có được nếu không có các hoạt động không mỏi mệt của đám nhân viên lãnh sự, đặc biệt là người Pháp Jean Jacques Rtfand làm việc cho Drovetti, người Hy Lạp Giovanni d'Athanasi và nhất là người Italia phi thường Giambattista Belzoni làm việc cho Salt. Belzoni sinh ở Padova, bên Italia. Năm 20 tuổi đã nghĩ đến việc đi tu kín, nhưng rồi sang Anh làm trò múa nhảy ở các phiên chợ khiến quần chúng phải kinh ngạc vì có sức khoẻ dị thường. Sau đó ông sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Manta, rồi cuối cùng đến Ai Cập; làm ra một cái máy bơm nước để tưới đồng ruộng.. Sáng chế ấy chẳng thành công: Mehemet Ali không mua. Cuối cùng được giới thiệu với Salt và ông này liền dùng làm thuộc hạ. Tài khéo léo và sức mạnh phi thường của Belzoni đã được kể lại trong suốt cuốn sách mà ông đã viết Các cuộc hành trình ở Ai Cập và Nubia, kể lại những chuyến đi thu thập đồ cổ cho Salt.
Khám phá của Champollion và những sách xuất bản sau đó đã đào tạo ra những nhà Ai Cập học đầu tiên, trong đó một số người đã tỏ ra xuất sắc khác thường.
Người Đức Karl Lepslus sang Paris theo các lớp của Collège de France, đã học đọc chữ tượng hình qua các sách của Champollion xuất bản sau khi tác giả qua đời. Từ 1842 đến 1845 ông chỉ huy một cuộc khảo sát lớn ở Ai Cập do Vua Phổ tổ chức. Được cử làm giáo sư trường Đại học Berlin, ông lập ra môn Ai Cập học ở Đức với trước tác chủ yếu của ông là Denkmaier aus Aegypton Actionpien und. Công trình kiến trúc ở Ai Cập và Ethiopia mô tả tất cả các công trình ở Thung lũng Sông Nil, từ Thác thứ tư đến Địa Trung Hải.
John Wilkinson thì bỏ sự nghiệp võ quan sang sống ở Ai Cập và tiến hành những cuộc khai quật trong hơn mười năm trời. Ông có thể được xem là người khai sinh ra môn Ai Cập học của Anh. Ông là người đầu tiên, trong cuốn Manners anh Customs of Ancient Egyptians (Phong tục tập quán của người Ai Cập Cổ đại), miêu tả đời sống hằng ngày của những thợ thủ công và nông dân thời các Pharaon, được thể hiện trong những bức vẽ ở các lăng mộ.
Emile Prisse d'Avennes, người Pháp đỗ kỹ sư và kiến trúc sư rồi bước vào một cuộc đời thanh niên rất phiêu lưu: Chiến đấu chống quân Thổ ở Bán đảo Moreos (Hy Lạp), làm thư ký cho Toàn quyền Anh ở Ấn ĐỘ, rồi cuối cùng định cư ở Ai Cập và hiến cả cuộc đời cho khảo cổ học. Prisse đã tặng Bảo tàng Louvre ''gian buồng của nhà Vua'' hay ''phòng thờ tổ tiên'' lấy ở đền Karnak ngay trước khi Lepsius đến nơi cũng định chiếm đoạt. Ông lại tặng nước Pháp cuộn ''Giấy Papyrus Prisse”, một tư liệu dài và quý báu viết từ năm 2000 Tr.CN mà người ta có thể coi là cuốn sách cổ nhất Thế giới.
Sau cùng, Auguste Marieue đã đảm bảo cho tiền đồ của môn khảo cổ học Ai Cập mới ra đời bằng cách làm chấm đứt việc buôn bán. Từ đầu Thế kỷ XIX, việc buôn bán này đã để cho bao nhiêu cổ vật, công trình kiến trúc và sách chép trên giấy cói chỉ rời khỏi Ai Cập với những tờ giấy phép chính thức hoặc sau những cuộc khai quật vụng trộm.
Chính trong lúc ngắm những bức vẽ của Nestor L'hôte mà một thầy giáo trường trung học ở Boulogne sur Mer tên là Mariette đã bị thu hút đến đất Ai Cập mà không sao cưỡng lại được. Dùng cuốn Ngữ pháp của Champollion, ông một mình học chữ tượng hình; rồi sau khi xin được một việc làm nhỏ ở Bảo tàng Louvre, năm 1850 ông được cử đi công cán ở Ai Cập để mua những sách chép tay chữ Côpt. Trong khi chờ đợi những giấy tờ cần thiết để được phép mua sách, ông đến thăm Saqqarah. Nhìn thấy vài con Nhân sư bị vùi một phần trong cát, ông nhớ lại một văn bản của Satrabon nói đến một con đường hai bên có hai hàng Nhân sư dẫn tới những ngôi mộ chôn các con bò đực Apis. Bỏ việc tìm mua sách chép tay chữ Côpt, Mariette đi theo con đường đã tìm ra kia và đến đúng mộ địa Serapeum và tại đó ông đã đào được những bộ quách đồ sộ chôn các con bò thiêng và tất cả những thứ xung quanh.
Phát hiện này có tiếng vang rất lớn và làm cho Mariette có tiếng tăm Quốc tế. Nhưng điều quan trọng là trong những tháng tìm kiếm hối hả ấy, ông đã được biết đến niềm vui của lao động trên thực địa, cái say sưa của sự khám phá; và ông không thể rời bỏ những thứ ấy được nữa. Nhờ Ferdinand de Lesseps can thiệp, Phó Vương Ai Cập Said Pacha giao cho Mariette nhiệm vụ bảo vệ các cổ vật của Ai Cập. Năm 1858 lại bổ nhiệm Marietle làm Giám đốc các công trình khảo cổ ở Ai Cập và ông được cấp tất cả mọi phương tiện để hoạt động. Từ đấy, Mariette bắt tay vào các cuộc khai quật ở Gizah, Saqqarah, Abydos, Thebès, Elephantine và tập hợp tất cả những vật tìm được tại Cairo.
Muốn bảo đảm việc gìn giữ tất cả các cổ vật và công trình của Ai Cập Cổ đại, Mariette đã vấp phải những khó khăn rất lớn trong việc áp dụng những biện pháp cần thiết. Tuy vậy, chỉnh nhờ ông mà đã xây dựng được những nền móng cho Sở cổ vật Ai Cập và Bảo tàng Cairo. Ông qua đời năm 1881 và Gaston Maspero kế vị ông và tiếp tục sự nghiệp của ông. Từ đấy con đường đã được vạch ra và đưa đến những cuộc phát hiện lớn, giúp cho người ta biết rõ hơn Ai Cập thời các Pharaon: đó là việc tìm ra nơi cất giấu xác ướp các Vua ở Deir - el - Bahari, Lăng Vua Tutankhamon, các lăng tẩm ở Tanis.
JEAN VERCOUTTER