Tài liệu: Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) và sấm trạng trình

Tài liệu
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) và sấm trạng trình

Nội dung

NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 - 1585) VÀ SẤM TRẠNG TRÌNH

 

Trong lịch sử khoa cử Việt Nam, ít có ông Trạng nào mà tên tuổi lại được nhắc tới cùng với nhiều giai thoại kỳ bí như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và cũng ít có ông Trạng nào mà tuổi thọ gần suốt một Thế kỷ như Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 tại Làng Trung Am. Huyện Vĩnh Lại, Tỉnh Hải Dương, nay là Xã Lý Học, Huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ông đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi (1535) đời Mạc Đăng Doanh. Ông chiếm thủ khoa của tất cả các khoa thi, và là vị Trạng nguyên thứ 32 trong lịch sử khoa cử Việt Nam.

Ông chỉ làm quan với nhà Mạc có bảy năm và sau khi dâng sớ xin chém 18 tên quyền thần mà không được chấp nhận, nên đã xin về trí sĩ tại quê nhà. Quê hương Trạng Trình nằm bên bờ Sông Hàn còn có tên là Sông Tuyết. Nơi đây ông đã mở trường dạy học, và sau khi ông mất, các học trò đã mượn tên sông mà tôn ông làm Tuyết Giang Phu Tử.

Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm là một ngôi đền nhỏ, khiêm tốn như tên ông, gần bên bờ Sông Tuyết nằm u tịch dưới tán các hàng cây um tùm. Một hàng chữ lớn Quốc công từ, nhắc về tước Trình Quốc Công, mà nhà Mạc đã phong cho ông trước khi ông  mất. Bước vào sân đền, ta nhìn thấy một bức hoành phi dưới mái đền, phía hàng hiên với bốn chữ lớn:

Như Nhật Trung Thiên

(Như Mặt trời giữa bầu trời)

Đó là sự đánh giá của người đời sau với nhân cách đạo đức của ông.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn của dân tộc ta, là cây đại thụ về thơ Nôm của Thế kỷ XVI. Trong thơ văn của mình ông đã thể hiện tư tưởng chống chiến tranh, mong muốn một cuộc sống hoà bình, ấm no cho nhân dân. Cách đây 5 Thế kỷ, ông đã chủ trương một tư tưởng mà ngày hôm nay ta đang ra sức thực hiện:

Cổ lai quốc dĩ dân vi bản

Đắc quốc ưng tri tại đắc dân

(Từ xưa đến nay, nước lấy dân làm gốc. Được nước nên biết đó là do ở chỗ được lòng dân).

Nguyễn Bỉnh Khiêm - Cảm hứng

Cũng chính bên bờ Sông Tuyết này, Tuyết Giang Phu Tử đã dựng quán Trung Tân với bài bia quán nổi tiếng[1]. Trong bài bia này,ông không chủ trương trung với một cá nhân nào đó dù đó là một ông Vua, mà là trung với lẽ phải với chân lý, với điều thiện, với đường chính, với nghĩa vụ mà mình phải thực hiện. . . Đó chính là điều mà người sau đã ngợi khen ông:Như Nhật Trung Thiên.

Bước vào trong đền, ta sẽ thấy một bức hoành phi lớn mang bốn chữ vàng còn rực rỡ: An Nam Lý Học. Đó là những chữ mà sứ nhà Thanh là Chu Xán sang nước ta khi về có nhận xét: An Nam Lý học hữu Trình Tuyền (Nước Nam về mặt Lý học có Trình Tuyền hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm). Lời ấy có chép trong tập Sứ giao ngâm, in ở Trung Quốc mà sau này nhà học giả Lê Quý Đôn sang sứ có được đọc và ghi lại.

Ta cũng lưu ý đến một vế câu đối trong đền viết về ông: Lý học thâm nguyên Trình tiên giác (Trạng Trình hiểu sâu sắc lý học, biết trước các việc).

Khả năng biết trước các việc này đã tạo nên một màn huyền thoại chung quanh cuộc đời ông.

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một ông Trạng mà cuộc đời gắn liền với những giai thoại và truyền thuyết ly kỳ. Tuy nhiên những tài liệu để lại về ông còn quá ít ỏi chủ yếu là bản Phả Ký Bạch vân am (Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công phá ký)[2]. Bạch Vân là biệt hiệu của Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy từ am Bạch Vân là am mà Trạng Trình ở ẩn. Tập Phả ký nói trên là do Vũ Khâm Lân, Tiến sĩ đời hậu Lê biên soạn, dựa theo gia phả do con cháu ông còn giữ và những truyền thuyết được kể lại.

Phả ký kể rằng ngay từ lúc còn chưa đầy tuổi, một hôm được bế ra đầu làng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ vào Mặt trời đang mọc mà thốt rằng: Ơ! Mặt trời mọc ở đằng Đông!

Lớn lên, Nguyễn Bỉnh Khiêm được theo học quan Thượng thư bảng nhãn Lương Đắc Bắc. Tương truyền rằng ông Bằng sau khi đi sứ đã mang được về bộ sách Thai ất thần kinh, nhưng đọc không hiểu. Thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh đặc biệt, ông trao cho cuốn sách quý này.

Truyền thuyết cũng nói rằng, nhờ hiểu được những lẽ huyền vi trong cuốn sách nên Nguyễn Bỉnh Khiêm đã làm ra những lời tiên tri cho 500 năm sau với tập Sấm ký mà người ta thường gọi là Sấm Trạng Trình.

Truyền thuyết của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng gắn liền với truyền thuyết về mẹ ông. Truyện kể rằng mẹ ông là bà Như Thị Thục, con gái quan Thượng thư Tiến sĩ Như Văn Lan (hiện có tên ở bia Văn Miếu) cũng là một phụ nữ đặc biệt, tinh thông lý số. Sống dưới thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông), bà đã biết trước rằng nhà Lê sẽ suy yếu nên có ý kén một người chồng có tướng sinh quý tử để giúp đỡ. Kén mãi không gặp người vừa ý, đành kết bạn với ông Nguyễn Văn Định, học trò Quốc Tử Giám và sinh ra Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Giai thoại nói rằng, một ngày kia khi bế con chơi ở bến đò Hàn, bà bỗng thấy một người tướng mạo phi thường bèn than: ''Sao ta không sớm gặp người này”. Người đó chính là Mạc Đăng Dung. Ở đây ta có thể thấy rằng đó là một chuyện không có thật, vì theo Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn thì Mạc Đăng Dung sinh ngày 23 Tháng 1 năm Nhâm Tý, giờ Ngọ, tức đầu năm 1483, còn bà Nhữ Thị Thục sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm năm 1491, tức Đăng Dung chỉ hơn Bỉnh Khiêm có 8 tuổi. Có lẽ nào khi nhìn thấy một cậu bé khoảng 8 - 10 tuổi ở bến đò mà bà Thục lại than thở như vậy!

Truyện cũng kể rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm được mẹ chăm sóc rất cẩn thận. Mới lên 4 tuổi, Bỉnh Khiêm đã thuộc nhiều kinh sách. Một hôm chơi đùa với con, ông Nguyễn Văn Định đọc câu:

''Nguyệt treo cung

Nguyệt treo cung''

Có nghĩa là: “trăng như cánh cung treo trên bầu trời”.

Cậu bé Bỉnh Khiêm đọc tiếp ngay:

''Vén tay tiên hốt, hốt rung''

Khi nghe kể lại chuyện này, bà Thục giận chồng nói: ''Nguyệt là bề tôi, mà tay cầm hốt cũng là kẻ bề tôi, ông dạy con thế sao có chí hơn người được, và bà thất vọng, bỏ về nhà bố mẹ (nay ở xã  Kiến Thiết, Huyện Tiên Lãng, Hải Phòng, quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn từ - đường thờ chung hai họ Nguyễn – Nhữ gọi là "Nguyễn – Nhữ Từ Đường”. Một vài tài liệu cũng thường hay nhắc tới giai thoại là bà Thục sau khi bỏ về nhà bố mẹ, lại đi tìm một người chồng khác, sau sinh ra Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613). Nhưng xét ra, Phùng Khắc Khoan sinh sau Nguyễn Bỉnh Khiêm 37 năm mà bà Thục khi đẻ Bỉnh Khiêm (1491) đã lấy chồng muộn, tức phải hơn hai chục tuổi, vậy không lẽ bà còn đẻ được Phùng Khắc Khoan khi đã gần 60 tuổi? Ta có thể cho rằng chuyện bà Thục sinh ra hai ông Trạng cũng chỉ là một giai thoại không có căn cứ giống như chuyện với Mạc Đăng Cung vậy.

Đó cũng là những điều mà ta còn thận trọng đối với các truyền thuyết khác liên quan tới Nguyễn Bỉnh Khiêm và tập Sấm Trạng Trình.

Tuy nhiên, về một mặt nào đó, ta có thể thấy ông là người tinh thông dịch lý, vì điều này được phản ánh qua thơ văn của ông. Tiếp theo là nhiều lời tiên đoán của ông nữa. Nó đã phản ánh tài nhìn chiến lược vừa có tính chất tiên tri.

Ta có thể thấy một số lời mách bảo của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với các thế lực đương thời đều được thực hiện, và mọi việc đều diễn ra đúng như ông nói.

Năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết, bèn sai người đến xin ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc này đã 77 tuổi, đang sống ẩn dật ở Am Bạch Vân. Không trả lời trực tiếp ông dẫn sứ giả ra hòn non bộ chỉ vào đàn kiến đang bò mà nói:

Hoành Sơn nhất đái khả dĩ dung thân

(Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được)

Hiểu được ý vậy, Nguyễn Hoàng nhờ chị xin với anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hoá từ đèo Ngang trở vào, nhờ đó mà dựng ra nhà Nguyễn ở phương Nam sau này. Về sau sử nhà Nguyễn đổi các chữ Khả dĩ dung thân trong Phả ký nói trên thành Vạn đại dung thân, hy vọng sẽ  giữ được cơ nghiệp mãi mãi. Nhưng đó không phải là lời Trạng và cơ đồ nhà Nguyễn đã chấm dứt năm 1945 với Cách mạng Tháng Tám.

Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm cũng muốn bỏ Vua Lê để tự xưng Vương. Khi cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông không trả lời mà dẫn sứ giả vào chùa, thắp hương mà nói: ''Mấy năm nay mất mùa, nên tìm thóc giống cũ mà gieo”. Rồi lại bảo chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói. ''Giữ chùa, thờ Phật thì ăn oản”. Hiểu ý, Trịnh Kiểm không dám phế bỏ nhà Lê mà phò Vua Lê vẫn để lập nên nghiệp Chúa.

Còn nhà Mạc, khi ông gần mất cho người đến hỏi ông kế lâu dài. Ông đáp: ''Cao Bằng tuy tiểu, khả lên sổ thế'' (đất Cao Bằng tuy thỏ, nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời). Sau quả đúng như lời.

Truyện cũng kể rằng, trước khi chết, Trạng có để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này làm ăn sa sút, mang thư ấy đến quan sở tại sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu bảy đời là Thời Đương nghèo khốn quá, mới nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách, nghe báo có thư của cụ Trạng Trình thì lấy làm kỳ lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi thì cái xà nhà rơi đúng chỗ võng đang nằm. Quan lấy làm may quá. Kịp đến khi mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:

Ngã cửu nhĩ thượng lương chi ách,

Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn.

(Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi, Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta).

Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục bèn giúp đỡ cháu của Trạng hết sức tử tế.

Và nhiều truyền thuyết khác nữa. . .

Hiện nay trong kho sách Viện Nghiên cứu Hán - Nôm còn tàng giữ bốn bản Sấm ký mang tên ông: Trình quốc công sấm ký mang ký hiệu AB 354; Trình tiên sinh quốc ngữ, bản AB 444; Trình quốc công sở chế VH 2261 và Trình quốc công ký VNV 102 (bản này có một số câu sấm ngắn). Tuy nhiên các bản đều không có tên người chép, chép từ bao giờ và chép từ đâu? . . .

Vậy thì những tập Sấm ký này có thật của Nguyễn Bỉnh Khiêm không? Những lời tiên tri đó có đúng không? Ai có thể giải mã những tời tiên tri đó? Đó là những vấn đề mà: Hội nghị kỷ niệm 400 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1585 - 1985) đã đặt ra để mọi người cùng giải quyết. Chỉ biết rằng báo chí gần đây đã đăng nhiều bài viết về những lời sấm đã được giải mã (trong đó có những  bài của chúng tôi) và nghiệm đúng với thời đại hiện nay. Những câu sấm ấy dù không phải là thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thì nó cũng là những lời dự báo được in ra từ hàng chục năm trước khi các sự kiện được ứng nghiệm. Thí dụ, trong bản Sấm ký do Chu Thiên dịch từ bản AB 444 của kho sách Viện Viễn Đông Bác cổ (nay trong kho Viện Nghiên cứu Hán - Nôm và do Nhà xuất bản Đại La ấn hành năm 1945) có câu sau đây mà người ta cho là ứng vào chiến thắng Điện Biên Phủ và việc tiếp quản Thủ đô năm 1954:

Cửu cửu Kiền Khôn dĩ định,

Thanh Minh thời tiết hoa tàn.

Trực đáo Dương đầu Mã vĩ,

Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.

(Đạo Kiền Khôn đã định rằng 9 lần 9 là 81 năm (Âm lịch),

Từ Tiết Thanh Minh, quân Pháp bước vào thời kỳ tàn lụi (chiến dịch Điện Biên Phủ).

Kịp đến đầu năm Mùi (1955) cuối Ngọ (1954) 8 vạn quân cụ Hồ kéo về tiếp quản Thủ đô).

Hoặc bản do Nhà sách Nam Kỳ phát hành năm 1948 (do Bùi Xuân Tiêu và Nguyễn Can Mộng lấy từ bản VH 2261 của kho sách Viện Viễn Đông Bác cổ) mở đầu có các câu:

“Nước Nam thường có thánh tài,

Sơn hà vững đạt mấy ai rõ ràng.

Kìa Nhị thuỷ, nọ Đảo sơn.

Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho.

Học cách vật mới dò tới chốn…”

Có người nói rằng, lời thơ đã khẳng định rõ ràng là đất nước ta có nhiều người tài giỏi, cùng với nhân dân giữ vững đất nước thoát qua biết bao nguy biến. Đất nước này cũng có nhiều tài nguyên phong phú cần được khai thác. Đảo Sơn phải chăng là Vũng Tàu - Côn Đảo, chứa tiềm năng về dầu khí và vị trí kinh tế chiến lược? Ai cũng thấy hiện nay ta có những mỏ vàng đá quý cần khai thác. Nhưng lời sấm cũng khẳng định phải có khoa học - kỹ thuật (học cách vật) mới có thề khai thác tốt và sử dụng tốt được những tài nguyên đó, những âu vàng trời cho.

Tập Sấm còn đề cập đến một bậc thánh giúp đời:

“Một đời có một tôi ngoan,

Giúp chưng Nhà nước dân an thái bình.

Ấy điềm sinh Thánh rành rành chẳng nghi”.

Lời sấm ấy phù hợp với câu đồng dao đã có từ trước năm 1920:

Đụn sơn phân giới, Bờ Đái thất thanh, Nam Đàn sinh Thánh.

Nhà sử học Đào Duy Anh, khi còn trẻ, đã đem câu này hỏi cụ Phan Bội Châu xem có ứng vào cụ không. Cụ Phan đã trả lời câu này ứng với Nguyễn Ái Quốc, tức Bác Hồ của chúng ta (Ông già Bến Ngự, Hồi ký, Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế 1982, trang 70).

Tập Sấm Trạng Trình (bản VNV 102) cũng ghi những câu mà người ta cho là nói về giai thoại vị "Thánh" còn ở ẩn, và nơi ấy có cái “bàn đá”.

Vua ngự thạch bàn xa thay,

Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng.

Gà kêu vượn hót vang lừng,

Đường đi thỏ thẻ thậm chưng khôn dò.

Nhân dân vắng vẻ bằng tờ,

Sơn lâm vào ở đỗ nhờ khôn thay''.

Vậy phải chăng đó là Pác Bó và ''bàn đá chông chênh lịch sử Đảng"? Nhất là khi đoạn tiếp theo viết:

“Sóng thiên nhật nguyệt sáng soi,

Sinh được chúa ấy là ngôi chẳng cầu”.

Ta biết rằng ''Nhật Nguyệt" chữ Hán hợp thành chữ ''Minh" và Bác từng viết: "Tôi tuyệt đối không ham gì phú quý”.

Cũng,vậy, tập Sấm nhiều lần nhắc đến chữ “Lục thất Nguyệt Gian'' (giữa Tháng Sáu và Tháng Bảy Âm):

''Y ra lục thất gian này.

Thời vận đã định tuần này hưng vương.

Trí xem nhiện nhất cho tường.

Bảo giang thánh xuất Trung ương thuở này”.

Ta biết rằng Cách mạng Tháng Tám 1945 nổ ra vào 12 Tháng Bảy âm và Hội nghị Tân Trào bắt đầu họp ngày 13 - 8 năm 1945 tức 6 Tháng Bảy năm Ất Dậu. Phải chăng đó là ''Lục thất nguyệt gian''? Còn Bảo giang tức một tên gọi khác của Sông Tô Lịch mà một nhánh chảy qua Ngọc Hà và Quảng trường Ba Đình nơi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập.

Người ta cũng thường nói tới câu:

"Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh.

Can qua xứ xứ khởi đao binh.

Mã đề dương cước anh hùng tận.

Thân - Dậu niên lai kiến thái bình''.

Và người đời cho rằng câu này nói về việc xảy ra đại chiến Thế giới lấn thứ hai và kết thúc vào năm Ất Dậu 1945.

Người ta cũng tìm thấy trong tập Sấm có nhiều lời tiên tri khác cho những sự việc sẽ xảy ra trên Thế giới, những điều mà người ta thấy có sự trùng hợp với các dự báo của Nostradamus (1503 - 1566) trong tập Những thế kỷ (Les Centuries), cũng như trong tập Những lời dự báo 2000 năm của Trung Quốc (Trung Quốc nhị thiên niên chi dự ngôn).

Một điều khá lý thú là ngay từ năm Thế kỷ trước đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhiều lần dùng hai chữ: “Việt Nam” trong thơ văn của mình để chỉ tên gọi Tổ quốc ta hiện nay. Và năm 1991, trong dịp kỷ niệm 500 năm ngày sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta đã phát hiện ra nhiều tấm bia cổ có hai chữ việt Nam" từ thời Mạc, cho thấy dường như Trạng Trình đã chủ trương đặt tên gọi Tổ quốc là Việt Nam, điều mà mãi đến năm 1804, tên gọi này mới chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta.

Trong tập Sấm cũng có ghi một lời rất đặc biệt:

''Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ

Hưng tộ diên trường ức vạn xuân”

(Đất nước Hồng Lam này sau ta 500 năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh ức vạn mùa Xuân).

Và quả đúng như vậy, từ sau năm 1991, kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đất nước ta đã thực sự bước vào một thời kỳ hưng thịnh, một thời kỳ đổi mới nền kinh tế thị trường, đất nước mở cửa, ngoại giao đa phương.

Trong bộ sách lớn Lịch triều hiến chương loại chí khi nhận xét về Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác giả Phan Huy Chú đã coi ông là: Một bậc kỳ tài, hiển danh muôn thuở. Phải chăng lời nhận xét này đúng ngay cả trong thời đại hiện ray của chúng ta?!

Nhà nghiên cứu: NGUYỄN PHÚC GIÁC HẢI

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/1037-02-633385796778906250/Nhung-nha-tien-tri/Nguyen-Binh-Khiem-1491...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận