Tài liệu: Thuyết phong thủy ở Trung Quốc

Tài liệu
Thuyết phong thủy ở Trung Quốc

Nội dung

THUYẾT PHONG THỦY Ở TRUNG QUỐC

 

I. Khái niệm về phong thủy

Trong lịch sử Cổ đại Trung Quốc từng xuất hiện một phong tục tập quán hết sức phổ biến, một tín ngưỡng có tính chất truyền thống, gắn liền với quan niệm cho rằng việc chọn đất mai táng tổ tiên (Âm trạch), cũng như chọn đất làm nhà cho người sống (Dương trạch) có quan hệ mật thiết đối với cuộc sống tổn vong họa phúc của con cháu và những người đang sống.

Người ta thường nói "Táng tiên ấm hậu" tức là chọn đất mai táng tổ tiên để tổ tiên phù hộ cho con cháu hưởng phúc lộc. Tất cả những hoạt động có liên quan đến việc chọn đất mai táng, hoặc đất làm nền nhà được người xưa gọi là Thuật Phong thuỷ, hoặc thuyết Phong thuỷ, hay vắn tắt hơn là Phong thuỷ. Người ta gọi những người am hiểu những lý thuyết Phong thuỷ, biết thực hành nghi lễ thủ tục, những pháp thuật mang tích chất huyền bí chẳng hạn quan sát địa hình, địa thế để tìm: ''long mạch”, đặt “la bàn" để xác định vị trí phương hướng v.v. . . là các thầy Phong thuỷ, hay Phong thuỷ tiên sinh, thầy địa lý, hoặc là Kham dư gia, Âm Dương gia... Đó là những chuyên gia lấy những hoạt động Phong thuỷ làm nghề mưu sinh và phục vụ cho nhu cầu bức thiết của toàn thể xã hội và cũng được xã hội coi trọng. Thuật ngữ Phong thuỷ với ý nghĩa chỉ hoạt động chọn đất mai táng hoặc dựng nhà ở cũng chỉ xuất hiện ở giai đoạn muộn về sau, vào thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều (thuộc các Thể kỷ III, IV, V, VII), là giai đoạn thuyết Phong thuỷ phát triển gắn liền với tên tuổi của Quách Phác và trước tác nổi tiếng  do ông soạn Táng Thư hoặc còn gọi là Táng Kinh. Ở đời thượng cổ, vào các triều đại Hạ, Thương, Chu người ta gọi các hoạt động Phong thuỷ là Bốc trạch, Tướng địa, Tướng trạch vớt ý nghĩa bói quẻ để chọn đất cư trú hoặc đất mai táng. Trong Kinh thi, Phong thuỷ được gọi là Tư Vũ, là Địa lý. Đến đời Tần, Hán các Phong thuỷ tiên sinh được gọi là Âm Dương gia, hoặc Kham dư gia. Kham có nghĩa là Trời, là Đạo trời, bao hàm việc xem xét thiên văn, thiên tượng, vị trí các chòm sao trên trời. là đất, là Địa lý, là xem xét vị trí phương hướng của các khu vực Địa lý, tương ứng với các chòm sao, đồng thời cũng bao hàm việc quan sát các hình thể của mỗi khu đất. Âm Dương gia là tên gọi khác nhưng cùng một chức năng với Kham dư gia. Ở triều đình đặt chức quan Kham Dư phụ trách quan sát thiên văn, làm lịch. Ngoài ra, người đời còn gọi Phong thuỷ Thanh Ô, Thanh Nang. Có truyền thuyết cho rằng Thanh Ô Công hay Thanh Ô Tử là một nhân vật đời Hán giỏi thuật Phong thuỷ được suy tôn là tổ sư của thuật Phong thuỷ.

Trong lịch sử, ông Quách Phác đời Tấn là người đầu tiên giải thích khái niệm Phong thuỷ và từ đó thuyết Phong thuỷ trở nên có cơ sở lý luận ổn định và phát triển. Trong Táng thư, Quách Phác nói: "Việc mai táng là để tích tụ sinh khí. Sinh nhân gặp gió thì tản đi, gặp nước ngăn thì dừng lại. Ý cổ nhân muốn quy tụ sinh khí không cho nó tản đi, khi nó di chuyển đi, khiến cho nó phải dừng lại, vì vậy gọi là thuật Phong thủy”. Khi chú thích Táng thư ông Phạm Nghi Tân (đời Thanh) giải thích thêm rằng: ''Không có nước ngăn lại, thì sinh khí sẽ bị gió cuốn làm cho tan đi, có dòng nước ngăn lại, thì sinh khí ngưng tụ và gió cũng không còn nữa. Vì thế hai chữ Phong và chữ Thuỷ (gió và nước) là hai yếu tố quan trọng nhất của thuyết Địa lý, mà trong đó “đắc Thuỷ”, (chỉ chỗ đất có dòng nước chảy quanh) là điều quan trọng hơn hết”.  Sau đó mới kể đến ''Tàng phong” hay "Tỵ  phong'' (tức là kiêng tránh gió, thu giữ gió” mới là điều quan trọng thứ hai. Như vậy, theo lý thuyết Kinh điển về Phong thuỷ, chỉ trong điều kiện ''tàng phong'' ''đắc thuỷ'' thì mới tích tụ giữ gìn được sinh khí.

Nhưng sinh khí là gì? Sinh khí, theo giải thích sách Lã Thị Xuân Thu, là do Dương khí thịnh mà phát tiết ra. Sinh khí là cái nguyên tố đem lại sức sống cho mọi sinh vật là cái khí làm cho mọi vật nảy nở và sinh trưởng. Sinh khí luôn tồn tại và vận hành trong lòng đất, tuỳ theo hình thể luồng lạch cao thấp của đất mà chuyển dời vận động, khi chuyển đi, khi tụ lại biến hoá mà phát sinh vạn vật, trong đó kể cả phát sinh ra con người. Các nhà Phong thuỷ phát triển quan niệm về sinh khí đã được các bậc tiền bối và Quách Phác đề xướng rằng, khí là một mặt, là nguyên tố mang tính chất tự nhiên, nó ẩn chứa tiềm tàng và vận động chuyển hoá gắn liền với đất, chính vì vậy mà muôn vật đều xuất phát, bắt nguồn từ trong lòng ''Đất  mẹ vĩ đại”. Thuyết Phong thuỷ quan niệm đất là ''Đại Mẫn”. Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một trong những nguyên lý cơ sở của thuyết Phong thuỷ đời Hán, coi Ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ là 5 yếu tố cơ bản cấu thành Thế giới, thì trong đó Thổ là yếu tố quan trọng nhất (là trung ương) mà Thổ thuộc quẻ Khôn tức thuộc Âm tính, là giống cái. Có tác giả thời Cận đại đã nêu một nhận xét thú vị rằng: trong ngôn ngữ và thần thoại của nhiều dân tộc trên Thế giới có một sự trùng lặp đáng chú ý là danh từ chỉ đất đều thuộc về giống cái; khí hoặc sinh khí bao hàm sẵn trong đó hai yếu tố Âm và Dương cũng như năm yếu tố Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ chúng nương tựa nhau, kết hợp với nhau, đồng thời tác động và chế ước lẫn nhau theo quy luật tương sinh, tương khắc. Chúng vận động biến hoá và di chuyển ở trong đất phát sinh ra muôn vật, như Táng thư nói: ''Ngũ khí hành hồ địa trung, phát nhi sinh hồ vạn vật”.

Cách lý giải về sinh khí như vậy là bắt nguồn từ kinh nghiệm của thực tiễn sản xuất và cuộc sống mà có, nó chứa đựng những yếu tố mang sắc thái duy vật và biện chứng thô sơ. Các nhà Phong thuỷ quan niệm rằng sinh khí không phải chỉ tồn tại và vận hành trong lòng đất, mà dĩ nhiên cũng tồn tại trong bản thân mỗi con người. Con người cũng như hết thảy mọi vật đều là do khí, sinh khí cấu tạo thành. Ông Tưởng Bình Giai, nhà Phong thuỷ trứ danh đời Minh trong sách Thuỷ Song Kinh, mục bàn về: ''Sự vận động thần diệu của khí'' có viết: ''Cái đầu tiên duy nhất chỉ là khí, tiếp theo ngay sau đó là nước. Không có gì xuất hiện trước nước, trong nước có những hạt cặn đục, các cặn đục lắng đọng lại mà thành ra sông núi”.

Nhưng Tưởng Bình Giai quan niệm sinh khí không những chỉ tạo nên diện mạo núi sông, cảnh quan môi trường sống xung quanh của con người, mà còn tạo nên chính bản thân con người, thậm chí còn được duy trì bảo lưu ngay cả sau khi con người đã chết.

Ông nói: ''Sinh khí kết tinh trong cơ thể của cha mẹ, dưới hình thức nước, khiến nó được di truyền cho con cháu do vậy mà con cháu thụ hưởng được anh khí của mẹ cha'' (khí giả, thuỷ chi thể vu phụ mẫu, bản hài đắc khí, di thể thụ âm). Ông còn nói: 'Khi con người sống, khí ngưng tụ ở đó và kết tinh ở xương; khi chết đi thì chỉ có khí được giữ cùng với xương'' (cái sinh giả, khỉ chi ngưng tụ, kết giả thành cốt tử nhi độc lưu). Ông nói tiếp: '' Vì vậy, việc mai táng là để cho sinh khí tiếp tục trở lại với hài cốt. Và do đó mà phù hợp được cho con cháu để trọn đạo sinh thành'' (cố táng giả, phán khí nội cốt, dĩ táng sở sinh chi đạo dã). Trước kia, Táng thư đã xác định ''việc mai táng là để tích tụ sinh khí” (Táng giả thửa sinh khí dã); và Tưởng Bình Giai sau đó cũng tiếp tục khẳng định: ''Việc mai táng là đưa sinh khí trở về với hài cốt, như Quách Phác đã từng quan niệm như vậy.

Nhưng mai táng như thế nào để có thể ''tích tụ được sinh khí’, đưa sinh khí trở về với hài cốt? Đấy chính là chức năng, bí quyết của các nhà Phong thủy. Thuyết Phong Thủy cho rằng muốn đưa sinh khí trở về với hài cốt, muốn sinh khí được bảo lưu, được tích tụ và duy trì lâu dài thì phải biết chọn đất mai táng (Âm trạch) ở nơi đất có nhiều sinh khí. Làm thế nào để chọn được một chỗ đất có nhiều sinh khí? Người ta đặt ra nhiều tiêu chuẩn để nhận biết; có rất nhiều thủ pháp chuyên môn, những bí quyết nhà nghề rất phong phú, rất phức tạp và nhiều khi thần bí nữa. Nó đã được các thầy Phong thủy vận dụng để phát hiện và xác định một ngôi đất nào đó là một nơi "cát địa" hay “phúc địa'' co tích tụ nhiều sinh khí. Đại để có mấy phương pháp chủ yếu. Thứ nhất gọi là "Mịch Long" tức là tìm “long mạch". Thuyết Phong Thủy cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đất, nhưng dựa theo hình thế, phương hướng của các dãy nút để vận hành. Cần xét xem chúng bắt đầu từ đâu và dừng lại ở đâu? Nơi dừng lại có địa thế bằng phẳng rộng rãi, có dòng nước chảy kể gần và uốn quanh, ắt hẳn là nơi tích tụ nhiều sinh khí, là đất có long mạch. Núi bắt nguồn từ xa chạy đến gọi là thế, nơi núi dừng lại gần nơi đất chọn gọi là hình. Thế đất thì bao quát, hình thù thì cụ thể. Thế càng cao xa thì hình càng có chỗ dựa vững chắc và đất đó sẽ mang lại nhiều phúc lộc. Muốn tìm chọn quý địa thì cần phải tiến hành "sát sa", nghĩa là xem xét những ngọn núi nhỏ ở xung quanh huyệt mộ (tức Âm trạch). Ngôi đất chọn làm Âm trạch gọi là có nhiều sinh khí nếu phía sau có dựa lưng vào ngọn núi cao được gọi là Chủ Phong, bên tả có núi gọi là Thanh Long, bên hữu có núi gọi là Bạch Hổ, hai núi này đứng hộ vệ chầu về núi chính, tạo thành vòng tay ngai che chống những luồng ác phong (gió độc) bảo vệ cho sinh khí không bị gió xua tan. Phía trước mặt mộ huyệt cũng được một núi nhỏ đứng án ngữ, gọi là án sơn như khoanh tay vái chào đón rước trước huyệt và cũng gọi là Chu Tước. Ngoài cùng có Núi Triều Sơn (Núi Chầu) quay về núi chính. Ngọn núi đứng chắn phía sau có tên là Huyền Vũ: - Có đủ hình thế "Tứ sa" hay "Tứ linh" (bốn con thú theo thần thoại) nói trên, đó là đất có điều kiện "Tàng phong" hay ''Ty phong" và tích tụ sinh khí. Một phương pháp nữa có tầm quan trọng đặc biệt là "quan thủy" vì theo thuyết Phong Thủy thì "đắc thủy" mới là yếu tố hàng đầu. Thuyết Phong Thủy cho rằng khí là cha mẹ của nước, là bản thể của nước. Nơi nào có sinh khí tất nhiên là có nước. Nước là cái khí hữu hình trong khi khí là vô hình. Đảo lại, nơi có nước chứng tỏ ở đấy có sinh khí. Mặt khác, Thổ là hình thể của khí; trong điều kiện Thổ bị dòng nước cắt ngăn và giới hạn lại thì khí cũng theo Thổ mà dừng lại, không di chuyển phân tán được. Vì vậy các thày Phong thủy cần tiến hành khảo sát các dòng sông, dòng suối, ao hồ chung quanh đất Âm trạch. Đại để, dòng sâu nguồn dài xa là khí vượng; dòng nông nguồn gần thì phúc lộc ngắn. Dòng nước chạy tới quanh co uốn khúc thì tốt, chảy ngang qua mà quanh vòng trở lại bao bọc quanh Âm trạch là tốt, dòng chảy nước chảy du dương êm đềm là tốt; dòng chảy đến xói thẳng vào huyệt như tên bắn, chảy sát huyệt mộ dễ gây xói lở, là hung. . . Sau khi đã "mịch long", ''sát sa'', "quan thủy", thày địa lý mới tiến hành ''điểm huyệt" và xác định "minh đường”. Việc đếm huyệt và xác định minh đường yêu cầu phải rất thận trọng, vì đó là mục đích cuối cùng phải đi đến và là việc hoàn toàn không đơn giản.

Vì vậy có câu tục ngữ: ''Ba năm tầm long, mười năm điểm huyệt". Đất điểm huyệt có thể chỉ là mấy thước cũng có thể là mấy dặm; nó phải là nơi tích tụ được sinh khí, không để khí tiêu tán, đồng thời không ngừng hấp thu được nguồn sinh khí của tự nhiên của ''đất mẹ" thường xuyên tiềm ẩn và vận hành trong lòng đất; khoảng đất bằng phẳng rộng rãi bao bọc chung quanh huyệt mộ được gọi là minh đường, trung minh đường (hay nội minh đường) và đại minh đường (hay ngoại minh đường); tiểu minh thường là quãng đất hẹp kề sát ngay trước huyệt, trung minh thường là khoảng không ở phía trong của các núi Thanh Long, Bạch Hổ; đại minh thường ở phía trong Ấn Sơn. Quan hệ giữa minh đường với hình thể của mạch núi chạy lại cần đạt tỷ lệ thích hợp; mạch núi từ xa thì minh đường rộng, mạch núi ở gần tới thì minh đường hẹp. Nếu minh đường quá khoáng đãng thì sinh khí dễ phát tán, nếu minh đường quá chật hẹp thì phúc lộc cũng không lâu bền.

Trong việc tìm chọn đất Âm trạch và Dương trạch, thuật Phong thuỷ còn vận dụng nhiều phương pháp, nhiều bí quyết và quy định những trường hợp cấm kỵ, hoặc trấn yểm. . . Tóm lại, xuất phát từ những lý thuyết Phong thuỷ, và sử dụng các thủ pháp chuyên môn thích hợp, các chuyên gia Phong thuỷ có thể phát hiện, điều chỉnh những khu đất có nhiều sinh khí để mai táng (Âm trạch) hoặc để xây dựng các công trình nhà ở, cung điện, lăng miếu, thành trấn, thôn lạc (Dương trạch).

Nhưng vì sao việc chọn đất có sinh khí để mai táng tổ tiên lại có thể đem lại phúc lộc cho con cháu? Vì sao "Táng tiên" có thể đem lại kết quả “ấm hậu”.

Sách “Táng thư” của Quách Phác nêu luận điểm cho rằng: “Khí cảm nhi ứng, quỷ phúc cập nhân”, những vật đồng khí đồng chất với nhau, có quan hệ cảm ứng lẫn nhau; quỷ ở đây là cha mẹ, tổ tiên sau khi đã chết (quỷ theo cổ tự cũng có nghĩa là quy, là về, là chết), quan niệm của Phong thuỷ chết là về với đất, với “Đại mẫu" để chuẩn bị cho giai đoạn tái sinh kế sau. Vậy quỷ ở đây chính là cha mẹ tổ tiên đã chết; còn nhân là những con cháu đang sống, là di thể của cha mẹ để lại: vậy cha mẹ và con cái là một đồng khí, một chất, vì thế chúng có mối quan hệ cảm ứng với nhau, cho nên ''quỷ phúc cập nhân” nghĩa là tô tiên mang lại phúc lộc cho con cháu. Sách Táng thư giải thích thêm: Thị dĩ. Đồng sơn Tây băng, linh chung đông ứng, Mộc hoa vu xuân, Lật nha vu nhất" tức nói: ''thế cho nên Núi Đồng (có mỏ khoáng đồng) bị sụt ở phía Tây, mà chuông thiềng phía Đông ứng theo (chuông tự kêu) mùa Xuân cây lật nở hoa thì quả lật ở trong phòng cũng nảy chồi”, ý nói chuông đồng và mỏ đồng là cùng một khí chất, cây lật và quả lật là cùng một khí chất, tuy chúng để ở chỗ cách biệt nhau nhưng vẫn có quan hệ cảm ứng theo lẽ tự nhiên của tạo hoá vi thế cha mẹ tuy đã chết nhưng vẫn có thể phủ hộ cho con châu theo quan hệ cảm ứng. Ở đây, nhà Phong thuỷ muốn nhắc tới một sự kiện minh chứng đời Hán Vũ Đế có quả chuông treo trên lầu Vị Ưởng tại Kinh đô Trường An. Bỗng nhiên chuông kêu "ô, ông .. . ô, ông. Các vị đại thần vô cùng kinh dị cho đó là điểm bất thường. Đông Phương Sóc là người có trí tuệ siêu quần thời bấy giờ đứng lên tâu rằng: "Nhất định là có núi đồng khoáng bị sụt lở". Mấy ngày sau quả nhiên có tin từ miền biên cảnh phía Tây xứ Thục báo về triều rằng ở đó có núi đồng khoáng bị sụt lở vào ngày, giờ ấy, triều đình đem đối chiếu thì đúng vào lúc chuông đồng ở cung Vị Ưởng phát tiếng kêu. Hán Vũ Đế kinh ngạc hỏi: "Vì sao mà Đông Phương Sóc biết. Ông đáp: ''Đồng đúc chuông lấy từ mỏ đồng trên núi, khí của chúng cảm ứng nhau phát ra tiếng kêu giống như thân thể người ta là do cha mẹ sinh ra vậy”! Vũ Đế chép miệng than: “Vật còn như thế huống chi người ta”. Các nhà Phong thuỷ cũng thường kể chuyện bà mẹ ông Tăng Tử để biện minh cho thuyết cảm ứng. Rằng đời Xuân Thu, ông Tăng Tử là người con rất mực hiếu thảo; mỗi khi Tăng Tử vắng nhà, bà nhớ con da diết, thường cắn vào ngón tay để kìm nén niềm thương Tăng Tử ở ngoài xa, mỗi khi bà mẹ cắn ngón tay thì ông thấy đau nhói tim. Chứng tỏ giữa mẹ và con có một quan hệ cảm ứng vô hình nhưng sâu sắc biết chừng nào (có lẽ đó cũng là hiện tượng mà ngày nay chúng ta gọi tà hiện tượng trường sinh học thần giao cách cảm hay điện sinh  học chăng?).

II. Sơ lược quá trình phát triển và diễn biến của các dòng phái phong thủy

Tại Chu Khẩu Điếm (gần Bắc Kinh) người ta đã phát hiện một khu hang động dùng để mai táng hài cốt của người nguyên thuỷ thuộc thời đại đồ đá cũ, cách ngày nay chừng năm vạn năm - đó là di tích mộ táng Sơn Đỉnh Động. Khu di tích mộ táng này là một ngách hang của một cái hang lớn, ở cạnh gần một ngách hang khác lớn hơn dùng làm nơi cư trú của người Sơn Đỉnh Động. Các xương đầu được bôi một lớp sơn đỏ ở xung quanh tượng trưng cho máu và cũng là tượng trưng cho linh hồn của người chết, phản ánh nguyện vọng, mong cho người chết sẽ tái sinh trở lại với cộng đồng. Khi miêu tả tổ chức xã hội đầu tiên của người nguyên thuỷ, tổ chức thị tộc - Engels đã nêu ra những đặc điểm chung quan trọng nhất của thị tộc (bao gồm thị tộc của những người da đỏ Châu Mỹ, thị tộc của người Hy Lạp Cổ đại, người La Mã Cổ đại, người Giécmanh ở Châu Âu) bên cạnh những đặc điểm thư cùng chung một huyết tộc, cùng sống trên một lãnh thổ, cùng có chung tiếng nói và có chung tập quán, tín ngưỡng,v.v… thì nhất thiết phải có một khu nghĩa địa chung được coi là mảnh đất thiêng liêng nơi trú ngụ linh hồn của tổ tiên và nngười trong thị tộc đã chết, ở đây cũng là nơi diễn ra những lễ nghi hiến tế, cầu đảo xin những lời khải thị của tổ tiên v.v. . .

Ở những thị tộc hay bộ lạc du mục, như người Mông Cổ ở vùng Ngạc Bắc, thuộc Trung Quốc, từ thời cổ xưa, tập quán mai táng người quá cố tại bãi nghĩa địa của thị tộc theo kiểu bộc táng. Người ta đem thi thể người chết đặt ngay trên bãi cát rồi lấy đá xếp chồng lên, thành một đống đá cao chừng ba, bốn trượng (khoảng 10 mét) sau đấy cắm một cái sào trên buộc một mảnh vải có ghi bài minh văn, tiếp sau là cả thị tộc tiếp tục lên đường tìm những bãi cỏ nước, để chăn nuôi du mục trên những phương trời xa thẳm. Trước khi lên đường đến nghĩa địa, họ nhặt một hòn đá nhỏ mang theo mình để linh hồn tổ tiên phù trợ. Họ không có một nơi sống ổn định thường xuyên, quê hương đối với họ là bãi nghĩa địa chung của thị tộc. Thông thường vào dịp tiết đầu Xuân hàng năm, họ quay trở về nơi có khu nghĩa địa chung tiến hành các nghi lễ hội hè một số ngày rồi lại tiếp tục cuộc hành trình du mục. Những ngôi mộ xếp bằng đá kiểu này khiến người ta liên tưởng tới các di tích kiến trúc đá ''cự thạch'' ở ven Biển Đại Tây Dương của nhiều tộc người Châu Âu và Châu Á, trong đó có cả tộc người sống ở miền Liêu Ninh Sơn Đông Trung Quốc. Ở đấy, các phiến đá khổng lồ được xếp thành hàng song song như những bức tường hoặc những vòng thành hình tròn. Các nhà khảo cổ học cho rằng đó là di tích mộ táng của các bộ lạc thời đại đồ đá mới. Như vậy, phong tục tập quán chọn đất mai táng tổ tiên là một tập quán phổ biến đối với phần đông các dân cư trên Thế giới ngay từ thời thị tộc trong xã hội nguyên thủy. Tập quán đó xuất hiện cùng với quan niệm vạn vật hữu linh và sự sùng bái linh hồn của tổ tiên sau khi chết.

Thời đại Hạ, Thượng, Chu tập quán tìm chọn đất mai táng và đất cư trú hết sức được coi trọng và thịnh hành. Bấy giờ, con người từ giai đoạn cuối của công xã thị tộc tiến sang giai đoạn có Nhà nước, có giai cấp. Nhân dân đã tiến hành khai phá các miền Châu thổ Sông Hoàng Hà, Sông Hoài, Sông Kinh, Sông Vị,. . . nhưng vẫn thường xuyên bị lũ lụt thiên tai và thêm cả những cuộc tấn công của các tộc người láng giềng đe doạ, vì vậy các thành quách, các đô, ấp, các thôn lý vẫn thường chọn ở các gò núi cao gọi là Khâu, Khư hay Phụ. Nhà ở gọi là Trạch Khâu, làng ấp gọi là Khâu lý, Khâu dân. Trang Tử nói: Khâu lý giả, hợp thập tính bách danh nhi dĩ phong tục dã" (họp mười họ, một trăm người thành một Khâu lý đó là phong tục). Các vị thủ lĩnh của các bộ lạc cũng chính là những nhà Kham dư tiền bối xuất sắc.

Cuốn Hoàng Đế Trạch Kinh tương truyền là do một thủ lĩnh liên minh bộ tộc tên là Hoàng đế soạn ra. Thực tế sách đó soạn ở giai đoạn sau này nhưng cũng phản ánh vai trò của các thủ lĩnh trong các hoạt động Phong thuỷ. Truyền thuyết cũng kể rằng Nghiêu, Thuấn, Vũ là những ông Vua có công lao trị thuỷ rất lớn và được lịch sử ca tụng. Truyền thuyết kể Vua Nghiêu và Thuấn cử Cổn phụ trách trị thuỷ, Cổn không hoàn thành nên bị giết. Lại cử con Cổn là Vũ trị thuỷ. Vũ cùng dân chúng khơi sông hồ đưa nước ra biển, suốt 13 năm liền, trị thuỷ mới xong.

Điều đó chứng tỏ thời thượng cổ, các Vua, các thủ lĩnh phải chăng rất am hiểu về hình thế địa lý, sông núi, đất đồng mới có thể quy hoạch được địa điểm cư trú và mai táng theo phong tục có hiệu quả? Sử chép rằng đời Thương, Sông Hoàng Hà hay gây ra lụt lội, trong vòng 300 năm nhà Thương phải dời đô 5 lần, mãi tới khi Vua Bàn Canh dời đô sang đất Ân (Tỉnh Hà Nam ngày nay). Kinh đô mới ổn định.

Ở thời Tam đại (Hạ - Thương - Chu), các khu đất nghĩa địa thường vẫn là tộc táng (của dòng họ) và thường được bố trí bên trong các thành quách và gần sát ngay bên cạnh khu dân cư trú để tiện cho sự chăm sóc và bảo vệ phòng thủ. . . Các hoạt động bói quẻ để chọn đất được gọi là bốc phệ, bốc trạch, tướng trạch được hết sức coi trọng. Các văn tự giáp cốt hay các thứ tịch cổ đều phản ánh điều đó. Sách Thượng Thư, lời tựa nói: "Vua Thành Vương nhà Chu ở Phong, muốn dựng cung thất ở Lạc Ấp, sai Triệu Công đến xem hướng chọn đất trước”, hoặc sách Hiếu Kinh, mục táng Thân chép: ''Bói điềm lành, tìm chọn đất mà đặt linh  cữu”. Các Vua Bàn Canh, Công Lưu, cổ Công Đàn Phụ, Chu Canh đều là những nhà tướng trạch lỗi lạc. Kinh Thi thường nói tới "Tư Vũ" nghĩa là xem xét kỹ để chọn đất ở. Kinh Thi tập Đại Nhã kể rằng "Công Lưu làm việc Tư Vũ (tướng trạch), ông tiến hành nhiều thao tác như trắc cương (trèo lên gò cao), giáng nguyên (bước xuống đồng bằng), tạ thuỷ (lần theo dòng nước chảy), quan kinh (xem xét đất xây dựng Kinh đô)”. Như vậy cũng giống như các nhà Phong thuỷ sau này thực hiện mịch long, sát sa, quan thuỷ, điểm huyệt, định minh đường. Ở thời Hạ, Thương, Chu các hoạt động tướng trạch thường gắn liền với những kinh nghiệm trong cuộc sống thực tiễn, nhất là trong việc xây dựng các công trình kiến trúc như xây dựng Kinh đô, thành quách, ấp lý... Phong thuỷ đã góp phần tích cực vào việc phòng chống thiên tai địch hoạ.

Hoạt động Phong thuỷ đã có từ đời thượng cổ, song chỉ đến Tần, Hán về sau, mới trở thành học thuyết có lý luận, có hệ thống chặt chẽ. Thuyết cho rằng, đất có địa mạch (hay long mạch) giống như người ta có huyết mạch. Địa mạch hay long mạch có ảnh hưởng đến sự hưng vong, thịnh suy của một người, một gia tộc hoặc một triều đại. Sử ký của Tư Mã Thiên Mông Điềm liệt truyện, thuật lại rằng: ''Mông Điềm vâng lệnh Tần Thuỷ Hoàng đào đắp Vạn Lý Trường Thành. Đến khi Tần Nhị Thế dùng Triệu Cao, Lý Tư âm mưu đoạt quyền kế vị, bắt Điềm phải tột chết. Trước khi chết, Điềm than rằng: "Ta có tội gì với Trời mà bị chết oan”. Hồi lâu lại thong thả nói: ''à, tội ta đáng chết, đào đắp Vạn Lý Trường Thành từ Cam Túc đến Liêu Đông dài hơn vạn dặm. Chính vì thế mà đoạn tuyệt địa mạch. Tội của Điềm là vậy đấy”. Mông Điềm vì vô ý thức mà cắt đứt địa mạch nên có tội với Trời, đến nỗi bản thân bị sát hại. Còn Tần Thuỷ Hoàng tin vào thuyết cho rằng Núi Ngũ Linh phương Nam có sát khí Đế vương, bèn sai sứ đục núi để yểm cốt, cắt đứt địa mạch của một phương Nam. Sách Quảng Đông Tân Ngữ của Khuất Đại Quân đời Thanh chép: “Thành Quảng Châu có thế lưng dựa vào núi, mặt trông ra bể, địa thế khai dương, mở rộng cửa đón ánh sáng Mặt trời. Phong vân bởi thế được hun đúc, nhật nguyệt bởi thế mà bị mờ mịt, đôi khi thấy xuất hiện hùng bá”. Phía Bắc thành có Núi Mã Yên Cương đời Tần thường thấy có sắc lạ, mây đỏ, khí vàng, các nhà chiêm tinh cho rằng đó là các khí của Thiên tử. Thủy Hoàng bèn sai người mặc áo gấm thêu, đục phá núi ấy. . . Bởi vậy ở đất Việt có lời ca dao rằng: ''Nhất phiến tử Vân Nam Hải khởi, Tần Hoàng tạc Mã Yên Sơn'' (nghĩa là mây đỏ bay lên từ Nam Hải, Tầrn Hoàng đục phá Núi Mã Yên).

Đời Tần, Hán thuyết: ''Táng tiên ấm hậu" được đề cao. Truyện Hàn Tín, chép ký ở Sử , Hoài Âm, Hầu liệt truyện, viết: ''Lúc Hàn Tín còn là kẻ áo vải, chí khí ông đã khác người thường. Mẹ ông mất, nhà nghèo, không có gì để táng, nhưng ông vẫn sửa sang, đặt vào chỗ đất cao ráo, khoáng đạt, bên cạnh mộ có thể chứa nổi vạn nhà. Tôi xem mả bà mẹ ông ta, quả có thế thực”. Quan niệm “Táng tiên ấm hậu" vừa là tập quán truyền thống lâu đời, vừa mang tính chất luân lý đạo đức về lòng hiếu thảo, vừa mang tính triết lý sâu sắc. Vì vậy mà thuật Phong Thủy càng hết sức phổ biến. Từ người áo vải nghèo túng như Hàn Tín thuở hàn vi đến nhà học giả uyên bác cao sang như Tư Mã Thiên đều am hiểu và sùng bái thuật Phong Thủy. Thuyết Âm dương và Ngũ hành cũng thư thuyết địa mạch được gọi là những yếu tố có vai trò quyết định đối với sự thịnh vượng, suy vong của mỗi con người, mỗi gia tộc, mỗi triều đại; thêm nữa những thuật pháp, những bí quyết về phương vị, về ngày giờ, cát hung để khởi công động thổ, về tục kiêng kỵ và trấn yểm. . . làm cho thuật Phong thuỷ ngày càng trở nên tinh vi phức tạp, thần bí và trừu tượng. Nó báo hiệu cho sự xuất hiện của trưởờg phát lý khí sau này. ở đời Hán, nhiều sách kinh điển của thuật Phong thuỷ được truyền bá, như Kham dư kim quỹ (dạy phép chọn đất), Cung trạch địa hình (xem đất dựng cung thất, nhà ở), hay Táng kinh, tương truyền do Thanh Ô Tử soạn, và do vậy, Thanh Ô Tử được hậu thế suy tôn là tổ sư của thuật Phong thuỷ. Ở các đời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, xã hội Trung Quốc có nhiều chiến tranh, biến động, loạn lạc liên miên, nhân dân lầm than, thái độ lánh đời lan tràn phổ biến, nhiều sĩ phu tìm cách ẩn lánh thoát tục, hoặc là tìm đến Đạo Phật - là tôn giáo mới du nhập từ Ấn Độ đang thịnh hành hoặc là học đạo du tiên ở ẩn, hoặc là truy tìm Phong thủy. Phật giáo cũng giống như Phong thủy, quan niệm rằng cuộc sống trần gian chỉ là giai đoạn tạm thời của chu kỳ 36 kiếp, sống gửi thác về. Các đạo sĩ, các hòa thượng, cư sĩ rất tâm đắc thuật Phong thủy, nhà chùa cũng như trong dân gian đều có tục ''ấn hành'' nghĩa là chọn đất có địa hình đẹp đẽ để dựng chùa, dựng am, dựng tháp. Phần lớn những nơi danh thắng trong nước đều dựng thành cổ tự (Thiên hạ danh sơn tăng chiếm đa). Vì vậy, các Hoàng đế Trung Hoa về sau như Thái Tổ, Thái Tông, Đức Tông, Triều Kim (Bắc Triều) xây dựng khu lăng mộ của Vua ở nền chùa cổ Long Hàm Tự. Chu Nguyên Chương nhà Minh sau dời đi ngôi chùa cũ là Tưởng Sơn Tự để xây hiến lăng cho mình. Phụ thân Vua Quang Tự nhà Thanh là Thuần Thân Vương cho xây dựng lăng tẩm trên nền chùa cổ Pháp Vân Tự đời Đường.

Đời Ngụy Tấn có Quản Lộ, Quách Phác là các nhà Phong thuỷ nổi tiếng. Quách Phác theo truyền thuyết người Tỉnh Hà Đông, được Quách Công cho túi Thanh Nang, nhờ đó hiểu biết Thiên văn, Ngũ hành, Bốc phệ. Tương truyền, Quách Phác là tác giả soạn sách Táng thư (hoặc Táng kinh) và được người đời suy tôn là tổ sư của thuyết Phong thuỷ. Quách Phác đã tổng hợp kinh nghiệm và các học thuyết đương thời, phát triển cơ sở lý luận hoàn thiện. Nhiều nhà phê bình khảo cứu cho rằng: sách Táng thư không phải do Quách Phác soạn ra mà là sách xuất hiện ở thời Đường, nhưng cũng không phủ nhận vai trò của Quách Phác và môn đệ của ông có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của thuật Phong thuỷ.

Thời Đường, người có văn hoá đều hiểu biết Phong thuỷ. Những đại biểu nổi tiếng như Trương Thuyết, Phù Đồ, Hoằng Sư, Tư Mã Đầu Đà…Trong đó có Dương Duẩn Tùng là xuất sắc nhất. Số lượng các trước tác Phong thuỷ rất đồ sộ. Đường Thư  kê ra có tới 13 bộ, ngoài ra, những sách Phong thuỷ dân gian lưu hành cũng lắm, ví như sách Trạch Kinh dân gian, nói về Dương Trạch có bộ Đôn Hoàng Tả Quyền, trong đó nêu 24 loại sách. Hoàng Đế Trạch Kinh là trước tác được các độc giả đánh giá cao và lưu hành rộng rãi nhất. Thuyết Âm - Dương, Ngũ hành vẫn là cơ sở xuất phát chung của phép chọn đất là Dương trạch đời Đường. Thuyết Nhi Thập Tứ Lộ (24 lộ, hay 24 sơn), Bát Quái, Cửu cung của các sách Trạch Kinh quán triệt nguyên lý Âm - Dương rất sâu sắc. Hoàng Đế Trạch Kinh viết:

"Âm đắc Dương, như thử đắc lượng. Ngũ tính hài hoà. Bách sự câu xương" (Âm gặp Dương, giống như nóng gặp mát, người người hòa hợp, vạn sự được thịnh vượng). Tuy nhiên, quan niệm Âm - Dương thời Đường có những cái mới, những phép kiêng kỵ nặng nề của các đời Tần, Hán, Ngụy, Tấn đến nay đã có xu hướng không cẩn kiêng kỵ nữa; các Sao Tướng Quân, Thái Tuế, Báo Vĩ, Hoàng Phan, Hắc Phương. . . không nhất thiết phải kiêng tránh, chỉ cần hoà hợp Âm - Dương là được. Trạch Kinh cũng đề xướng các nguyên tắc trong kiến trúc như tránh hư, trung thực; Ngũ hư (năm điều hư) phải tránh là:

1 - Nhà ở quá to mà người thì ít.

2 - Cổng quá to mà nhà thì nhỏ

3 - Sân nhà và tường vây bốn bên không hoàn chỉnh.

4 - Giếng và bếp không tiện lợi

5 - Đất đai rộng, sân, tường rộng mà nhà ít, bé.

Ngũ thực cẩn coi trọng là:

1 - Nhà nhỏ, người nhiều.

2 - Nhà to, cổng nhỏ.

3 - Trong vây, sân nhà hoàn chỉnh.

4 - Nhà nhỏ, nhưng lực súc nuôi nhiều.

5 - Cống rãnh thoát nước về hướng Đông Nam.

Trạch Kinh cũng khuyên: ''Bất suy mạc di" (nếu không suy sụp thì không nên dời bỏ chỗ ở ý), ý là tiết kiệm tiền của, không lãng phí trong việc hưng tạo Thổ Mộc. Quan điểm đó rất thích đáng, đến nay vẫn còn ý nghĩa tích cực.

Thời Tuỳ, Đường, lý thuyết Phong thuỷ có xu hướng phân hoá thành các trường phái. Xu hướng thứ nhất (chủ lưu) có đặc điểm nổi bật là coi trọng cảnh quan thực địa, ''nhân địa chế nghi" (tuỳ thế đất mà chế tác cho thích hợp). Họ chú ý đến địa mạo, địa khí, thổ nhưỡng, quan sát long mạch khởi nguồn từ đâu dừng lại ở đâu, phối hợp với việc xem xét các yếu tố: Sa, thuỷ để tìm cát địa. Từ đó, hình thành trường phái “Hình pháp" còn gọi là ''Hình thế pháp”, ''Loan đầu chi pháp" cũng gọi là "Tam tài pháp”. Hình pháp do các đại biểu miền Cống Châu (Giang Tây) đặt nền móng, như Dương Duẩn Tùng, Tăng Văn Suyền, Lại Đức Hữu,… Xu hướng thứ hai vẫn giữ nguyên các tín hiệu về ''phương vị hữu linh”, du nhập thêm lý luận về Âm - Dương, Bát quái, Thiên tinh, Can - Chi, do đó tăng thêm sắc màu thần bí và trở thành ''Lý khí chi pháp, còn gọi là ''ốc trạch phái" hay "Tam nguyên phái. Lý khí luận bắt nguồn từ đất Mân Trung (Phúc Kiến) nên cũng gọi là Mân Phái. ''Lý hiển nhi sự nan" (lý luận thì rõ ràng nhưng thực hành cụ thể lại khó khăn phức tạp), còn phải Lý pháp thì ''Lý hối nhi sự dị" (Lý luận thần bí khó hiểu nhưng sự thực hiện lại dễ dàng). Ở miền đồng bằng, không có núi non để tìm long mạch nên rất khó thực hành thuyết Hình pháp, vậy nên biện pháp đơn giản và hiệu nghiệm nhất là dùng la bàn làm công cụ vạn năng để phán quyết đất cát, hung. Cống phái và Mân phái đấu tranh kịch liệt, đến đời Minh, Thanh thì Cống phái giành được thắng lợi áp đảo.

Đời Tống, Nguyên, Phong thuỷ tiếp tục phát triển. Đời Tống có nhiều đại biểu Phong thuỷ nổi tiếng như Lại Văn Tuần, Trần Chuyên, Vương Cập,v.v…

Đời Minh, Thanh, các vị Hoàng đế rất tin Phong thuỷ. Chu Nguyên Chương từng sai người đục Núi Ngưu Thu rồi lấy dây sắt khoá lại tạo thành hình thế cho núi hướng về phía trong. Triều Minh có Lưu Cơ, Phi Hổ là các hoà thượng rất nổi tiếng; Triều Thanh có Lôi Phát Đạt giỏi Phong thuỷ, đồng thời là một kiến trúc sư nổi tiếng. Họ Lôi được triều đình trọng dụng.

Nhìn qua lịch sử, thuyết Phong thuỷ có nguồn gốc từ thời công xã thị tộc, nhưng đến thời Tam đại, lý thuyết Phong thuỷ mới hình thành với thuật Bốc trạch, Tướng trạch. Thời Tần, Hán là thời kỳ Phong thuỷ phát triển. Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều cũng là thời kỳ Phong thuỷ thịnh hành cả bề rộng lẫn bề sâu. Tuỳ, Đường ngũ đại, lý thuyết Phong thuỷ có nhiều sáng tân và bắt đầu phân hoá; đến Tống, Nguyên, Minh, Thanh, Phong thuỷ tiếp tục truyền bá rộng rãi. Sau ngày Trung Quốc giải phóng, Phong thuỷ bị phê phán, bị đả kích mạnh, nhưng gần đây có chiều hướng phát triển gia tăng trở lại.

Trước đây, từ điển Từ Hải định nghĩa về Phong thuỷ: ''là một loại mê tín ở Trung Quốc xưa, cho rằng cái hình thế nơi đất hay nơi đặt phần mộ người ta như hướng gió, dòng nước có thể đem lại vận may hoặc tai hoạ”. Gần đây cách định nghĩa ấy không được tán đồng. Nhiều học giả nước ngoài cho rằng: ''Phong thuỷ là một hệ thống quan niệm nhằm xem xét đánh giá cảnh quan để xác định địa điểm tối ưu cho một công trình kiến trúc. Đó là nghệ thuật chọn đặt nền công trình và cách bố cục công trình của Trung Quốc Cổ đại.

Bộ Bách khoa toàn thư kiến trúc của Mỹ mới xuất bản gần đây (1987) đánh giá cao những cống hiến của thuyết Phong thuỷ và các chuyên gia Phong thuỷ đối với các công trình kiến trúc hiện đại.

Mới đây, giới học giả Đài Loan lại đề xuất ý kiến, cho rằng Phong thuỷ là học thuyết về mối quan hệ giữa từ trường Trái đất với con người và hết sức đề cao Phong thuỷ. Nhiều học giả khác cho rằng lý thuyết Phong thuỷ ngày càng khoa học, đặc biệt là ngành cảnh quan môi trường đánh giá cao.

Tóm lại, Thuyết Phong thuỷ bên trong tấm áo thần bí còn chứa đựng những yếu tố có ý nghĩa khoa học tích cực. Nhiệm vụ của chúng ta cần tiến hành nghiên cứu nghiêm túc, để rút ra kết luận khoa học, bác bỏ những mê tín hoang đường, kế thừa và phát huy cái gì là giá trị chân chính mà kinh nghiệm và tri thức loài người đã tích luỹ được trong quá trình lịch sử.

TS. BÙI QUÝ LỘ

(Biên dịch theo bộ sách

Văn hoá thần bí Trung Hoa.

NXB Bắc Kinh xuân bản).

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/143-02-633385778388906250/Nen-van-hoa-co-than-bi-Dong-Tay-phuong-ky-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận