PARANA KỲ DIỆU VỚI YOGA:
THĂNG HOA VÀ SIÊU PHÀM CỦA NHÂN LOẠI*
* Theo y học Cổ đại Ấn Độ, cơ thể con người có 7 luân xa (chakra, linh điểm) thống lĩnh, nếu một luân xa hoạt động quá mức, nó sẽ trở thành một chủ tế khống chế cơ thể bị ảnh hưởng tới sức khoẻ và sự sáng suốt của trí tuệ. Yoga với các phương pháp luyện tập sẽ giúp điều chỉnh, chuyển hoá cơ năng, khiến chúng ta có thể tự khống chế luân xa, đạt đến trạng thái mà mình mong muốn.
1, Luân xa Shahasrara: ở đỉnh đầu, tương ứng với huyệt bách hội trong Đông y hay tuyến tùng trong Tây y.
- Làm đầu óc sáng suốt, là con đường thông suốt của trí tuệ vượt qua tất cả mọi hình thể và danh xưng của vật chất. Nó chứa 5 loại tuyến nội tiết, trong đó chủ yếu là tuyến tùng, các tác dụng điều hoà và phân bố các thể tuyến nội tiết toàn thân.
2, Luân xa Ajna (hay Agnya): ở giữa hai mày, tương ứng với huyệt ngạch trung trong Đông y hay tuyến yên trong Tây y.
- Đây là trung tâm của trực giác và trí lực, nó khống chế, chi phối não thuỳ. Khi Ajna hoạt động mạnh thì trí tưởng tượng, ý thức, triết học đều phát triển vượt trội, những hoạt động thông thường thì kém. Do đó, để điều chỉnh hoà hợp toàn cơ thể, cần tăng cường hoạt động của luân xa Swadisthana, chủ về tinh lực, sinh thực khí.
3, Luân xa Hamsa (hay Vishuddhy): ở yết hầu tương ứng với huyệt đại chuỳ trong Đông y hoặc tuyến giáp trong Tây y.
- Luân xa này chủ về lý trí, khi hoạt động mạnh có thể tạo tài năng nghệ thuật. Nó chi phối tuyến giáp trạng, có liên quan đến việc tiêu hao mỡ, do đó kích thích được luân xa Hamsa có thể đạt hiệu quả giảm béo. Khi linh cảm con người ở trạng thái biến động bất thường, nên khống chế luân xa đối cực của Hamsa là Manipura, đây là luân xa chủ về tình cảm, sự phân tiết hormon không điều hoà ở luân xa này sẽ gây bệnh ở các cơ quan dạ dày, gan, tụy. Để giúp cho các cơ quan tiêu hoá khoẻ mạnh, có thể dùng ''sức mạnh lý trí'' của Hamsa để khống chế tình cảm.
4, Luân xa Anahata: ở ngực, còn gọi là Thái dương linh điếm, tương ứng với huyệt tâm du trong Đông y hoặc tuyến ức trong Tây y.
- Luân xa này chi phối phân tiết hormon các tuyến phổi, tim, ức, tụy và tạo tế bào, có tác dụng khống chế hiện tượng lão hoá, vì vậy người giữ cho huyệt này thịnh vượng có thể duy trì dung nhan tuổi trẻ, sức sống mạnh mẽ. Khi luân xa này bảo đảm cho hormon các tuyến ở trạng thái cân bằng thì con người có tính tiết chế cao, tình cảm ổn định và bình tĩnh.
5, Luân xa Manipura: ở bụng (rốn), tương ứng với huyệt mệnh môn trong Đông y hay tuyến tụy trong Tây y.
- Luân xa này khống chế phân tiết các tuyến tụy, thượng thận, gan, tỳ, nếu hoạt động tốt sẽ giúp thể phách tráng kiện, tinh thần mạnh mẽ, dịch tiêu hoá và mật sung túc giúp chuyển hoá tốt thức ăn thành huyết dịch và các nguyên tố của sự sống.
6, Luân xa Swadisthana: ở bộ phận sinh dục, là linh điểm tập trung tinh lực, tương ứng với huyệt đương quan trong Đông y hay tuyến thượng thận trong Tây y.
Luân xa này chi phối hormon tuyến phó thận, nếu hoạt động tốt sẽ giúp sức khoẻ sung mãn, tính chiến đấu rất cao, nếu hoạt động quá mức sẽ trở thành kẻ độc tài, xem mình là trung tâm, khát vọng quyền lực rất lớn. Ngược lại nếu nó hoạt động kém, hormon tuyến phó thận giảm thiểu sẽ gây trạng thái bất an, sợ sệt, hèn nhát. Luân xa này cũng khống chế tạng thận, đối cực với luân xa Ajna. Khi Ajna định được mục tiêu sắp tới rõ ràng thì Swadisthana sẽ phát huy tác dụng.
7, Luân xa Mooladhara: ở xương cùng, tương ứng huyệt trường cường trong Đông y hay tuyến sinh dục trong Tây y.
Luân xa này là căn nguyên của nguồn sáng tạo đại diện cho sinh khí và nguồn lực sinh mệnh, là đối cực với luân xa Shahasrara. Các luân xa khác đều ở trên Mooladhara và được nó cung cấp sức mạnh, vì thế còn gọi là ''luân xa đáy biển'' hay ''luân xa cơ sở”.
Yoga với các phương pháp tập đặc thù sẽ giúp cho sự phân tiết hormon ở 7 luân xa được cân bằng, bình thường, làm cho cơ thể từ hư nhược trở nên cường tráng, từ bệnh tật trở nên khoẻ mạnh. Cơ sở của vấn đề: dinh dưỡng nuôi các tuyến nội tiết là từ huyết dịch, sự “thuần hoá”, ''sạch hoá'' của huyết dịch liên quan mật thuyết với sức khoẻ, một trong những con đường thuần hoá huyết dịch hữu hiệu nhất là luyện tập Yoga.
Theo các thà tư tưởng Ấn Độ, Vũ trụ cấu tạo bởi hai yếu tố:
AKASKA - hình thái nguyên thủy của chất liệu phổ biến. Tất cả những gì hữu hình, những sản phẩm của sự tổ hợp đều được xây dựng từ AKASKA. Từ AKASKA hình thành Mặt trời, Mặt trăng, các tinh tú, con người, động - thực - khoáng vật, vật chất nói chung dưới mọi thể đặc, lỏng, khí, dưới mọi dạng vô cơ, hữu cơ, hữu sinh, vô sinh. Không thể nhận biết AKASKA trực tiếp vì nó rất vi tế, ta chỉ thấy nó gián tiếp dưới dạng cô đọng trong các hình thể vật chất quanh ta. Nó hiện hữu và tràn ngập khắp không gian Vũ trụ trong buổi mai đầu của ngày tạo thế và cuối mỗi chu kỳ Vũ trụ, vạn vật lại trở về AKASKA, AKASKA nguyên thủy chuyển hóa ra Vũ trụ dưới muôn hình vạn trạng là nhờ ở yếu tố thứ hai.
PRANA, nó giống như AKASKA, vô cùng và trùm khắp Vũ trụ, có mặt ở đâu và lúc nào có mặt sự vận động, dù đó là chuyển động cơ học, là lực điện từ hay trường hấp dẫn. Cũng chính PRANA thị hiện ở cơ bắp trong hoạt động thần kinh, và các phản ứng sinh hóa, cũng như tư tưởng của con người. Tất cả các lực tinh thần hay vật lý đều chung một bản thể là PRANA. Ở cuối mỗi chu kỳ Vũ trụ, mọi dạng năng lượng lại trở về hình thái nguyên thủy PRANA. Cũng như với AKASKA, ta chỉ nhận biết được PRANA một cách gián tiếp qua sự thị hiện của nó dưới mọi dạng năng lượng cơ, hóa, quang, điện, từ... Phái Yoga cho rằng không thể hiểu biết được Vũ trụ qua con đường hiểu biết từng phần, từng bộ phận hợp thành của nó. Mặt khác, mỗi sự tồn tại cá thể, mỗi thị hiện đặc thù đều che giấu một bản thể chung, vì thế, giống như kinh Vệ Đà, để trả lời câu hỏi (cái gì nhờ biết nó ta biết tất cả cái gì là cái "nhất dĩ quán tri'' đã khái quát hóa Vũ trụ trong Một Tồn Tại Tuyệt Đối Duy Nhất, các nhà tư tưởng Yoha tìm cách điều khiển cái PRANA này để từ đó điều khiển toàn thể các dạng năng lượng trong Vũ trụ. Ai làm chủ được PRANA, chế ngự được PRANA, sẽ làm chủ được, chế ngự được thân xác và tinh thần của mình cũng như của người khác, bởi vì PRANA sự thị hiện khái quát hóa của năng lượng. Muốn thế, trước hết ta hãy tìm cách chế ngự cái PRANA ở trong ta. Ta: đợt sóng nhỏ bé trong đại dương vô tận của PRANA Vũ trụ. Người luyện Yoga mà thành công được việc chế ngự PRANA trong người là thành tựu sự toàn bích, trở thành gần như toàn nắng, toàn tri. Những người chữa bệnh bằng đức tin (faith - healer), bằng tinh thần (mind - healer), những người thôi miên, các nhà thông - thiên học, điều động từ xa (télékinésie) khoa học Cơ đốc . . . các pháp sư phù thủy, thày mo. . . đều chỉ là những người tình cờ khám phá ra PRANA và sử dụng nó mà không rõ về nó. Và nếu chúng ta tinh lọc, chắt gạn các lý thuyết, lập luận của họ, cuối cùng bao giờ ta cũng thấy bóng dáng của PRANA mà họ không hề hay biết bản chất. Tư duy là sự biểu thị vi tế của PRANA trong ta, nhưng tư duy không phải là toàn bộ đời sống tâm thức của chúng ta, đời sống ấy có phần vô thức hay bản năng, hay thần kinh thực vật, có phần hữu thức, hay ý thức, hay thần kinh động vật. Giữa hai phần này có một vùng giáp ranh còn bí ẩn là tiềm thức, và một phần cao quý nhất, mạnh mẽ nhất, kỳ diệu nhất, siêu việt nhất mà thường chìm ngủ trong ta, đó là phần siêu thức (supraconscience). Nó vượt lên trên ngưỡng giới hạn của lý trí, mà bán kính hoạt động và hiệu quả rõ ràng là hết sức hạn chế.
Sự hiển thị rõ rệt nhất gần gũi nhất, dễ nhận biết nhất của PRANA trong thân thể con người là hoạt động của phổi. Nói chung, nếu hoạt động này ngừng thì mọi hình thức khác của vận động trong cơ thể đều chấm dứt, trừ những người luyện Yoga đến trình độ đủ cao để có thể vẫn sống trong nhiều ngày, nhiều tháng trong tình trạng không hô hấp. Để tiến tới cái vi tế là nguyên nhân, ta phải biết sử dụng cái thô thiển là kết quả. Bằng cách từng bước một tiến tới cái vi tế hơn tất cả mà ta đạt được mục tiêu.
PRANAYAMA là phương pháp điều khiển, chế ngự PRANA, trước hết và chủ yếu là cái PRANA đã làm vận động buồng phổi. PRANA không phải là hơi thở, như người ta vẫn thường hiểu lầm, cũng như PRANAYAMA không phải tà dùng ý thức để thực hiện các vận động co bóp của phổi là cái có liên hệ đến hô hấp. Không phải sự hô hấp sinh ra vận động của phổi mà ngược lại chính sự vận động của phổi tạo ta sự hô hấp, hút và đẩy khí trời như một cái bơm. PRANA là bản thể là cốt lõi của lực cơ bắp đã gây ra sự co bóp của các cơ hô hấp. các phế nang, qua sự trung gian của những giây thần kinh. Một khi ta đã làm chủ được cái PRANA thị hiện trong hô hấp, tâm thức ta sẽ tinh tế hơn, từng bước ta có thể đi sâu vào cơ thể ta để cảm nhận những lực vi tế là những dòng thần kinh chạy khắp thân ta từng bước ta sẽ chế ngự được các thị hiện của PRANA ở trong cơ thể ta. Thực tế có những người nhờ tập PRANAYAMA mà có thể điều khiển bằng ý chí hầu như toàn bộ mọi cơ quan mọi chức phận trong cơ thể của họ, trong khi những người khác nói chung các cơ các chức phận này hoạt động một cách máy móc, ''tự chủ'' dưới sự chỉ đạo của hệ thần kinh thực vật. Vì vậy các phép tập PRANAYAMA nên dựa theo sự chỉ dẫn cổ điển hơn là cải biên trên cơ sở lý luận của giải phẫu học phương Tây. Tuy nhiên, nếu ta quen hiểu PRANA là hơi thở là PRANAYAMA là điều tức, là dẫn khí, thì điều này lại mang đến cho phép tập một tính cách cụ thể trong ý thức, do đó lại dễ dàng và mau chóng đạt kết quả dù rằng thực chất vấn đề ở đây là ý hướng điều khiển PRANA là năng lượng đằng sau các hoạt động của những phế nang, của sự hô hấp nói chung chứ không phải là sự hấp thụ, dẫn dắt một thứ khí nào cả. Giống như từ trường không phải là khí từ tỏa ra từ vật nhiễm từ, và trường điện không phải là khí điện từ vật nhiễm điện, PRANA có lẽ tương ứng với trường năng lượng dưới dạng thuần túy, nguyên sơ nhất.
Cho đến nay, nếu như khoa học có vẻ nhìn nhận các hạt quark cơ bản là hình thái nguyên thủy của vật chất thì vẫn chưa tìm được cho năng lượng một hình thái nguyên thủy tương tự. Sự thống nhất của bốn trường lực nếu được hoàn tất trong một ngày nào đó, liệu có kết thúc được vấn đề năng lượng không nếu như khoa vật lý mặc nhiên bỏ qua PRANA. Vì vậy nếu PRANA, giống như các đường kinh lạc của Đông y đã từng bị đối xử khinh rẻ, chí ít cũng bị ngờ vực mà không nhận được một chứng chỉ hợp pháp của khoa học thì cũng không đủ để bài bác PRANA, coi nó như một sự tưởng tượng hàm hồ, thô sơ của cổ nhân. Dù sao việc sử dụng khái niệm có hình tượng là khí PRANA, tuy không phù hợp với thực thể của PRANA, lại có tác dụng đẩy nhanh quá trình luyện tập PRANAYAMA có hiệu quả.
Khi ta đã điều khiển được PRANA, tức là chế ngự được các bộ phận cấu tạo thân thể ta, thì chẳng những ta có thể chế ngự các bệnh tật và đau đớn nơi ta, mà còn cho cả người khác nữa. Bởi vì, một là bệnh tật được phái Yoga quan niệm là sự mất quân bình trong phân phối PRANA, ta có thể điều khiển được PRANA nên ta có thể lập được quân bình, điều PRANA đến chỗ thiếu, bớt PRANA ở chỗ thừa. Hai là, mọi hiện tượng, tốt hay xấu, đều có tính cách tây lan, PRANA cũng có thể lan từ người này sang người khác. Chữa bệnh từ xa là truyền bá PRANA có dao động đặc trưng cho trạng thái khỏe mạnh. Sự truyền bá PRANA này có thể tìm được hình ảnh minh họa cơ chế vận hành của nó ở các hiện tượng cảm ứng điện từ, dao động cưỡng bức và cộng hưởng ảnh hưởng lớn lao gần như mê hoặc của một người này lên một người khác, dù đây là một nhà thôi miên, một người chữa bệnh từ xa, một nhà tiên tri tôn giáo hay một lãnh tụ chính trị có thể được hiểu như là sự nâng dao động PRANA một cách có ý thức qua luyện tập hay vô thức do năng khiếu bẩm sinh lên một tần số đủ cao và đủ mạnh nhằm cưỡng bức dao động của những người xung quanh phải đạt tới cùng tần số để có hiện tượng cộng hưởng, mà kết quả hiệu dụng là sự đồng dạng của thể trạng hoặc tư tưởng.
PRANA thị hiển vi tế nhất dưới dạng thức tư tưởng, tập trung tư tưởng chỉ là tập trung PRANA, và toàn bộ pháp môn Raja Yoga chỉ nhằm mục đích giảng dạy cách chế ngự và điều khiển PRANA trên những bình diện khác nhau. Khoa vật lý có thể coi là một loại PRANAYAMA mà mục đích chủ yếu là chế ngự PRANA thị hiện trong những vật thể vật lý bên ngoài bằng những phương pháp vật lý bên ngoài. Còn Raja Yoga, với tư cách đối thể, chế ngự cái PRANA thị hiện trong những hoạt động tâm - sinh - lý bên trong bằng những phương pháp tâm - sinh - lý bên trong.
Hoạt động hô hấp liên quan đến sự chế ngự PRANA trong toàn cơ thể, bởi vì theo cách lý giải của trường phái Yoga, trung tâm điều khiển bộ máy hô hấp gây nên một tác động chỉ đạo lên toàn bộ phần còn lại của các trung tâm thần kinh. Theo họ, sự hô hấp có nhịp đều hướng các phần Tử của cơ thể (có thể cái mà họ nói tới chính là những ion) theo một chiều vận động. Khi toàn bộ tinh thần ta, tâm trí ta, chuyển thành một ý nghĩ duy nhất, một ý chí duy nhất, thì các dòng thần kinh sẽ được định hướng chuyển động cho các electron. Do đó, khi tất cả các dạng vận động của cơ thể đã trở thành một máy ác quỷ khổng lồ của ý chí. Cái ý chí kỳ vĩ ấy chính là những gì nhà Yoga truy cầu qua phép luyện thở PRANAYAMA.
Để hiểu rõ hơn cơ chế tác động của trung tâm hô hấp lên các trung tâm khác, chúng ta hãy tìm hiểu quan liệm của trường phái Yoga về hệ thần kinh. Theo họ, trong cột sống có hai luồng thần kinh gọi là Pingala Dương và Ida Âm và một kênh trống rỗng gọi là sushumna đi qua suốt dọc tủy sống. Khúc cuối bên dưới của kênh sushumna là một tiểu thể tam giác gọi là muladhara (tương ứng với đám rối tủy - plexus sacré), ở đó nằm cuộn khúc “con rắn lửa'' Kundanni. Các đường Pingala và Ida chéo nhau ở 7 điểm gọi là chakra nằm trong sushumna kể từ dưới lên đỉnh đầu là các chakra, Muladhara, Swadishthana, Manipura, Anahata, Vishudda, Ajna, Sahasrara.
Những CHAKRA này tiếng Phạn có nghĩa là bánh xe, gọi một cách hình tượng là bông sen, tương ứng với những huyệt Trường cường, Đương quan, Mệnh môn, Tâm du (Anahata). Đại chùy (Vishuddha), Ngạch trung, Bách hội trong Đông y.
Hoặc với các đám rối tủy (plexus sacré) tiền liệt (plexus prostatique) dương (plexus solaire), tim (plexus cariaqua), hầu (plexua pharyngien), trán, (plexus frontal), sọ (plexus crânien) - Và các tuyến nội tiết là các tuyến sinh dục (gonades), tuyến thuợng thận (surrénales), tuyến tụy (pancréas), tuyến ức (thymus), tuyến giáp (thyroides), tuyến yên (hypophyse), tuyến tùng (épiphyse) trong Tây Y.
Chúng ta biết rằng các dòng thần kinh chuyển động theo hai hướng: hướng tới mang thông tin, hướng đi mang mệnh lệnh. Tất cả những gì ta nhìn thấy, tưởng tượng ra hiện lên trong giấc mơ đều tồn tại hoặc có nguồn gốc nguyên thủy trong không gián trực quan Mahakasha. Khi nhà Yoga đọc được tư tưởng của người khác hoặc kiến nhận được những vật thể siêu cảm (suprasensible), khi ấy họ đã thấy chúng trong không gian tâm linh Chittakasha. Còn nếu sự kiến nhận là kiến nhận cái Không, kiến nhận không đối tượng được kiến nhận, tức là thực hiện được tâm - hư, hoặc triệt tiêu được mọi hoạt động của tâm thức thì phép luyện được coi là đã hoàn tất trong không gian tuệ giác (chidâkâsha).
Khi Kundalini được lay tỉnh khỏi giấc ngủ mê mệt trong Muladhara, nó sẽ luồn vào Sushumna và mỗi lần nó leo lên được một chakra là mỗi lần hành giả vươn tới một trình độ cao hơn của năng lực kiến nhận trong không gian tâm linh, là mỗi lần đạt được những quyền năng kỳ vĩ, là mỗi lần địa tầng khác nhau của tâm thức được thẩm nhận để từ đó hành giả kiến nhận Vũ trụ dưới dạng vi tế và nhân quả của nó. Và cuối cùng, khi Kundalini lên tới được đỉnh Sahasrara cũng là khi hành giả thành đạo, hành giả là đức Thế tôn toàn trí, toàn năng, vượt ra ngoài vọng sinh Tử luân hồi ở người thường không tu luyện, kênh Sushumna bị bịt kín không liên thông với phần cuối của nó và Kundalini bị đông cứng trong ngục tù munladhara. Môn Raja Yoga mời chúng ta thực hành những phép luyện tập, nhờ đó ta có thể khai thông Sushumna và phóng xuất các dòng thần kinh qua đó. Ta biết rằng, một vật thể bên ngoài khi tác động lên giác quan sẽ gây ra một dòng thần kinh chạy lên trung tâm tương ứng ở não, trung tâm này phản xạ trở lại, trong trường hợp các trung tâm thuận hệ thần kinh động vật, sự phản xạ này là một tri giác. Nhưng trong giấc mơ thì sao? Ở đây không có vật thể bên ngoài nào tác động cả. Các nhà tư tưởng Yoga cho rằng những kiến nhận trong giấc mơ là sự tái hiện những kiến nhận tiền thân trong Thế giới trực quan đã lắng xuống một nơi nào đó, nơi đó là muladhara, kho tàng của những tri gíac và ''hồ sơ" hành vi quá khứ samskara, và rất có thể cũng cất giữ cả những năng lượng đã tiêu hao trong sự vận chuyển thông tin từ cơ quan cảm giác đến trung tâm thần kinh để kết thúc bằng những kiến nhận - phản xạ, vì mỗi khi ta quán tưởng, Thiền định hay chỉ tư duy thôi với cường độ đủ cao, tức là với mức tập trung đủ lớn trên mỗi đối tượng thì khi ấy khu vực quanh muladhara nóng hẳn lên. Bất cứ khi nào và ở đâu hiện hữu cái ta gọi là quyền năng siêu nhiên hay trí tuệ siêu nhiên thì khi đó và ở đó hiện hữu sự kiện một dòng tơ mảnh Kundalini đã lọt vào và thao tác trong Sushumna. Một bệnh nhân được lành bệnh nhờ đức tin và lời cầu nguyện như những bệnh nhân hành hương tới Lourdes không hiểu rằng không phái đức Chúa ở ngoài họ xúc động quá dễ dãi trước lời cầu nguyện cho mục đích vụ lợi cá nhân của họ mà ra tay làm phép màu tế độ cho họ lành bệnh. Nhưng chính đức Chúa bên trong họ, cái năng lực vô biên Kundalini của họ đã bị lay tỉnh phần nào bởi cường độ mãnh liệt của thái độ tâm linh trong đức tin và lời cầu nguyện, chính cái con rắn lửa ấy của bản thân họ đã phù hộ độ trì cho họ. Kundalini cũng có thể được dựng dậy bởi một chấn thương dữ dội và hoạt động trên một lĩnh vực nào đó. Đó là trường hợp của Vangna, Curaghina. . . những pháp sư không hề tu luyện gì mà bỗng nhiên sau một tai nạn đã tới một thương tật nào đó lại có được những phép lạ kỳ diệu ném ra sự thách thức mà không một nhà khoa học nào dám chấp nhận giao đấu chỉ với vũ khí quen dùng của họ là phương pháp luận khoa học và tinh thần duy lý. Nói rộng ra, mỗi lần cầu thành tâm nhất, mỗi câu nguyền mãnh liệt nhất, mỗi ý chí tập trung nhất, mỗi ám ảnh thường xuyên nhất, đều có cơ được thực hiện hóa qua sự trển khai hoạt động của một phần nhỏ Kundalini, chứ không phải do mật Thần thánh nào trên mây, đức Chúa nào trên trời đã hóa phép thần thông mà làm ra cả.
Mỗi người đều là một dòng nước, một con sóng bé nhỏ trong đại dương vô biên của tri thức và quyền năng. Nếu khát vọng và nhu cầu nằm ngay nơi con người thì phương tiện thỏa mãn cũng chính ở nơi con người, chứ không phải trong tay một đấng siêu nhiên nào hết. Đức tin vào thế lực siêu nhiên chỉ đem lại lòng sợ hãi, mà lòng sợ hãi chỉ có nghĩa là sự suy thoái của tinh thần. Chính vì thế Vivekananda đã nói: ''Bản chất của tâm linh là nó trở thành được đúng cái mà nó nghĩ tới một cách mãnh liệt”. Kundalini là sự thị hiện tâm linh của PRANA và PRANAYAMA chỉ có mục đích là lay tỉnh con rắn lửa Kundalini ấy. Cần nhớ rằng vấn đề ở đây khác hẳn ''chuyện Ngu Công rời núi”. Cái quyết tầm của Ngu Công là nghị lực để đôn đốc chỉ đạo một công việc lâu dài, cái ý đinh làm đến cùng một công việc khó khăn; còn cách thức, phương pháp cần thực thi lại là một chuyện hoàn toàn khác, nó chỉ phụ thuộc vào kiến thức, kinh nghiệm, sự khéo léo và sự thông minh của Ngư Công. Trái lại, sức mạnh của tâm linh, theo phái Yoga giải thích, nó là sự trực tiếp chuyển hóa, trực tiếp ''biến" thành đối tượng của lời cầu nguyện, của ý chí dưới dạng hiện thực, dưới dạng vật chất của đối tượng. Ta có thể tìm thấy những tình huống minh họa cho lời nói của Vivekanada trong vô số hiện tượng cửa đời sống hàng ngày. Thí dụ, đó là những người mang dấu Thần (stigmatisé) bên Công giáo, họ là những tín đồ vì quá thành tín chiêm ngưỡng Chúa Chtist trong hình tượng đóng đanh câu rút mà rồi sau trên thân họ, trên tay họ cũng xuất hiện những vết sẹo, thậm chí như trường hợp Therese Neumann, người phụ nữ ở Bavière (Đức) cứ mỗi ngày thứ Sáu hàng tuần lại ứa máu ra đằng mắt và đầu, mà vẫn sống khỏe mạnh bình thường vào những lúc khác. Thí dụ, đó là những người mắc chứng hystérie, những người mộng du có những thao tác mà ngay những diễn viên xiếc cao thủ nhất cũng phải kinh hãi, trong trạng thái vô thức, hoặc những người bị tâm thần - cơ thể (maladie psychosomatique) cứ tự cho mình là mang một bệnh nào đó mặc dù mọi khám nghiệm lâm sàng đều khẳng định ngược lại, và nếu sự tự kỷ ám thị này kéo dài đủ lâu thì các mô của họ sẽ tuân theo sự xác tín ấy mà mang bệnh thực sự, theo kiểu treponema pallidum, tức là các mô của mỗi người đều có khả năng mỗi khi bị đặt dưới một tác động tâm lý thích hợp sẽ bắt chước mà mắc phải một thứ bệnh tật của cơ thể con người.
Thông thường, các thông tin và mệnh lệnh vãng lai trên các lộ thần kinh, trong đó, theo các nhà Yoga chủ yếu là hai kênh Pingala và Ida trong tủy sống, nhưng họ cũng cho rằng hoàn toàn có thể vận chuyển thông tin và mệnh lệnh không cần qua những tuyến giao thông quá vật chất ấy, và nếu thực hiện được như vậy thi tức là thành tựu được sự giải thoát khỏi sự nô dịch hóa của vật chất. Con đường giải phóng phải được đột phá tại quan ải munladhara và chạy qua vacumn của sushumna.
Nhưng có thực con ngươi bị nô dịch hóa bởi vật chất không? Nô dịch hóa như thế nào? Có thể thủ tiêu được sự nô dịch hóa ấy không, và bằng cách gì? Chúng ta hãy lần lượt tìm câu trả lời của các nhà tư tưởng Yoga. Trước hết, ta xem xét cách lý giải của họ về con người.
Con người, thân xác là tâm thức
Từ ngàn xưa, và bất kỳ ở đâu, con người vẫn được quan niệm là được hợp thành bởi hai phần: thân xác và tinh thần quan. Quan điểm thông thường như là một di huệ của khoa học thực nghiệm trong Thế kỷ XVII và XIX vốn chỉ quan tâm thực tế cũng chỉ biết và chỉ thừa nhận phần hữu thức mà họ đồng nhất hóa với toàn bộ đời sống tinh thần, ít chú ý đến phần vô thức, không hay biết gì về phần tiềm thức, còn nói gì đến phần siêu thức của tinh thần, quan điểm ấy cho rằng tinh thần hoàn toàn phụ thuộc vào thể xác như là phương thức tồn tại, biểu hiện không trực quan của thể xác sinh ra, tăng trưởng và tiêu vong cùng với thể xác.
Hệ tư tưởng của Raja Yoga, hoàn toàn dựa trên cơ sở triết học của trường phái số - luận Samkhya, đánh giá vị trí của tinh thần tương quan với thể xác theo hướng ngược lại.
Tinh thần của con người có 3 cấp độ:
+ Phần vô thức, hay bản năng, hay thần kinh thực vật, mà bản chất cũng như hoạt động của nó nói chung con người không nhận thức được, không kiểm soát được, không điều khiển được. Tuy nhiên, nếu tập luyện PRNAYAMA đủ kiên trì là đúng phép thì có thể nhận thức được nó, kiểm soát được nó, điều khiển nó theo ý chí; điều này đã được các cuộc kiểm tra chặt chẽ khẳng định.
+ Phần thứ hai cao hơn, đặc trưng cho vị thế của con người trong giới động vật, đó là ý thức hay hữu thức tức là hệ thần kinh động vật ở người, qua nó ta suy luận, ta phán đoán nó, ta tưởng tượng, nói chung ta tư duy với phương tiện là lý trí, tức là khả năng ghi nhận, hay phát hiện, hay giả định trong trình tự thời gian dưới tên gọi là nhân quả của các hiện tượng đã chứng kiến hoặc thể nghiệm và được tàng trữ trong kho trí nhớ. Lý trí hình thành và thao tác trên cơ sở các thông tin của các giác quan: mắt, tai, mũi lưỡi và thân. Tri giác là phản ứng đặc thù của tinh thần con người khi xử lý các thông tin. Nói rõ hơn, những giác quan ấy (indriya) tiếp nhận các kích thích của vật thể bên ngoài gọi là tín hiệu, truyền tín hiệu lên các trung tâm thần kinh tương ứng ở não, từ đó, theo cách lý giải của Yoga, chúng được truyền sang trí năng, còn gọi là thức mạt na (manas), tức là cái tâm lý lúc xảy ra kích thích nó có chú ý hay không đến tín hiệu, nó - hay cũng thế, cái ''tôi'' có được mắc hay không và mạng lưới vật thể bên ngoài + cơ năng giác quan + trung tâm ở não. Các điều kiện đầy đủ cho việc cảm thụ tín hiệu đến đây đã được thỏa mãn, nhưng việc xử lý tín hiệu ấy như thế nào lại là một chức năng không thuộc về các khâu nói trên, cho nên trí năng lại phải truyền những tín hiệu đã được cảm thụ một cách “khách quan”, “vô tư”, cũng có thể nói một cách “tự động, máy móc và phi tính cách" (impersonel) ấy sang cơ năng quyết định (buddhi). Ở đó tín hiệu phổi hợp với ký ức, với liên tưởng dựa trên tính cách, khuynh hướng bẩm sinh có tính căn nghiệp, với trạng thái tâm sinh lý lúc ấy của chủ thể, tức là với mọi yếu tố “ngã” cố hữu và hiện hành của chủ thể. Chính là từ những tín hiệu đã được ''chế biến'' lại thư thế mà hình thành tri giác của chủ thể và mệnh lệnh phát ra cho các trung tâm hành động thực thi những điều cần thiết. Toàn bộ những vận động này, những thao tác này cấu thành nội dung của cái gọi là tâm thể chitta (le contenu menta). Nếu tâm thể quả thực vận hành như vậy, hoặc chỉ ít ta tạm thừa nhận như vậy thì ta không thể không thừa nhận tiếp theo rằng phương thức vận hành ấy không thể đơn thuần coi là thuộc tính nội tại của vật chất có tổ chức phức tạp, nói cách khác, nếu ta theo dõi sự miêu tả quá trình nhận thức theo lý thuyết Yoga đến đây mà không thấy nó vô lý, hàm hồ, thì chắc chắn ta phải thấy nó rất có lý, rất logic ở khâu cuối cùng: theo Yoga, đằng sau tất cả những thao tác ấy là linh hồn purusha hiện hữu không phải với tư cách một nhà độc tài tùy tiện mà như như cái Lý của Vũ trụ hay nói nôm na như người cung ứng năng lượng cho hoạt động có quy luật. Đối với nhà khoa học thực nghiệm và duy lý thì chắc chắn là các khâu trí năng, cơ năng quyết định và linh hồn purusha mãi mãi vẫn là cái gì quá mơ hồ, quá siêu hình hay quá thừa. Hoạt động của tâm thức được diễn tả đầy đủ trong thao tác feed – back giữa vật thể bên ngoài và con người, cả hai đều là những cấu thể vật chất. Không đi vào những tranh cãi chi tiết với các thuật ngữ chuyên ngành và cơ chế phức tạp, cũng không cần viện dẫn những ''phép lạ" do con người vật chất tạo ra nhưng lại vượt quá khuôn khổ những quy luật do tính vật chất của chính con người hạn định, ta có thể phần nào làm sáng tỏ thí dụ khâu trí năng ở đây qua một tình huống mà bất kỳ ai cũng từng gặp. Mắt ta vẫn mở, đầu óc ta vẫn tỉnh táo, nghĩa là các cơ quan thị giác nguyên vẹn, lành lặn, lại đang ở tư thế sẵn sàng hành động, ấy vậy mà chỉ vì ta mải mê suy nghĩ đến một điều gì đó, ta vẫn không hề nhận thấy vật thể, cho dẫu nó vẫn lù lù ngay trước mặt. Đấy, cái, trí năng ở đây là như vậy. Vật thể, con mắt, trung tâm thị giác chưa đủ nếu trí năng, hay nói rộng ra, nếu cái tâm của ta, không được mắc vào hệ thống đó. Nhưng nhìn ra được một vật thể rồi nhiều khi đâu đã phải là hết, có lúc cần phải hoặc tự nhiên có phải ứng lại tức thì. Cái gì đưa ra những phản ứng ấy? Hoặc lại phản ứng như thế này mà không như thế kia? Hoặc cũng nhìn thấy mỹ nhân mà người thì khen đẹp, kẻ thì dửng dưng? Biết bao nhiêu cái Ngã khác nhau trong quần thể nhân loại. Ta sẽ trở lại vấn đề này, vấn đề sự hình thành những tính chất đặc thù cá nhân trong mục Samyama.
Ngoại trừ Purusha, tất cả những nhân tố còn lại đều cấu thành từ vật chất. Tinh thần ở dạng vi tế hơn nhiều so với các công cụ của nó. Như vậy là giữa tinh thần và các giác quan, các dây thần kinh, nói rộng ra, toàn thể thân xác, chỉ có sự khác nhau về trình độ cao, thấp, tinh, thô, của cùng một chất liệu cấu tạo Tamatras, mà hình thái thô thiển, trực quan là vật chất sống, là thể hữu sinh cùng với tất cả các loại bức xạ, các loại năng lượng đặc thù của nó như nhân điện, khí công, lade, nhân thể. . . Như vậy có thể nói tinh thần là công cụ trong bàn tay thao tác, điều hành của linh hồn, qua đó linh hồn ứng xử với vật thể ngoại giới theo căn nghiệp của tinh thần, hoặc để mượn ngôn ngữ của Duy - thức luận, theo đặc tính của những gì mà chủng tử của thức Alaya đã huấn tập từ một tiền kiếp. Tinh thần không ổn định mà thường xuyên biến động. Được rèn luyện, nó có thể chuyên chú và một giác quan, nhiều giác quan hay không một giác quan nào cả. Nó cũng có thể quay lại dò xét ngay chính bề sâu của nó. Chính khả năng là điều các hành giả Yoga truy tìm bằng cách tập trung mọi năng lực của tinh thần và hướng chúng về phía nội giới để tìm hiểu những gì diễn ra bên trong ấy. Người ta có thể cảm nhận được mỗi cung đoạn mà kích thích đi qua từ các giác quan đến trung tâm thần kinh tương ứng, sang trí năng, vào cơ năng quyết định rồi chuyển tới purusha. Cũng như mọi khoa học khác, Raja Yoga yêu cầu sự chuẩn bị cần thiết và đề ra những phương pháp riêng của nó để truy tìm, để thức nhận cải bản thể sâu kín của tinh thần, những phương thức ấy là các phép thực hành Pranayama và nhất là Samyama hay tập trung tư tưởng.
Về tinh thần và thể xác có chung một bản thể cấu tạo, về mặt trực quan, có mối liên hệ hai chiều nên thực phẩm nuôi sống, tái tạo thể xác cũng quyết định trạng thái chất của tinh thần. Nói cách khác, ta phải quan tâm đến chất liệu của thực phẩm ta dùng hàng ngày, chỉ khi nào đã đi được khá xa trên đường tu luyện Raja Yoga ta mới đủ trình độ gỡ mình ra khỏi nhu cầu tự nhiên như ăn, uống, ngủ, nghỉ của thân xác. Giống như một cái cây con, lúc mới trồng còn non nớt ẻo lả nên cần phải được bảo vệ tốt để tránh bị hư hại, nhưng khi rễ đã ăn sâu, thân đã lớn mạnh, cành lá xúm xuê đủ sức chống lại mưa to gió lớn, chống lại mọi sự tiến công thù địch từ bên ngoài, tới thì khi ấy ta mới có thể rỡ bỏ hàng rào che chắn. Không thể tập luyện Yoga có kết quả nếu không biết tránh cả hai cực đoan: phóng túng giác quan hay khổ hạnh ép xác.
Như vậy là, khác với tính duy tâm chủ quan của Phật giáo, trường phái Yoga thừa nhận thế giới bên ngoài là có thực và tồn tại độc lập với ta. Tinh thần con người cũng mang tính vật chất thư thế giới khách quan. Đời sống tinh thần chỉ là những biến động, thông cảm ứng đối trước những kích thích của thế giới khách quan mà mang tính chất đặc trưng cho mỗi cá nhân thông qua các samskara, các chủng Tử đã được gieo trồng trong quá khứ. Ta thường đồng nhất ta với những biến động ấy, những cảm ứng ấy mà bị cuốn hút vào trong vòng tuân hồi sinh - tạo - bệnh - tử, rồi bị che lấp, bị mê hoặc đến nỗi không nhận ra, không tìm lại được cái ta chân chính, tức là linh hồn purusha bất tử và toàn bích. Đó là nội dung của cách lý giải Yoga về hiện tượng con người bị nô dịch hóa bởi vật chất.
Các chakra (luân xa) trong Yoga
Thân thể ta là một động cơ mà sự hô hấp là cái bánh đà (volant). Nó khởi động và điều hòa chuyển động của tất cả các bộ phận cấu thành thân thể. Nó khởi động và điều hòa chuyển động của tất cả các bộ phận cấu thành thân thể. Với hơi thở ta từng bước thâm nhập vào thân ta mà cảm nhận trực tiếp những lực vi tế thị hiện nơi hoạt động thần kinh, từ đó ta có thể tiến dần đến chỗ điều khiển được chúng và chế ngự được thân xác ta. Bản thân tinh thần vận hành trên cơ sở các dòng thần kinh hoạt động như nguồn cung cấp nhiên liệu nên sự nhận thức và điều khiển được các dòng thần kinh sẽ đưa ta tới khả năng chế ngự tinh thần một cách trọn vẹn. Khi ấy tinh thần đạt tới trình độ cao nhất, lên được thẩm cấp tối thượng, tìm tại được bản thân nó nơi bộ phận cấu thành huyền diệu nhất, kỳ vĩ nhất của nó, tức là phần siêu thức, khi ấy con người sẽ trực tiếp trông thấy những tồn tại siêu cảm trong không gian tâm linh Chittakasha.
Các chakra (tuân xa) trong Yoga
Để được như vậy, Pranayama mới chỉ là bước đầu nó lay tỉnh Kundalini và khai phá đường đất cho con rắn lửa ấy trườn mình ra khỏi Munladhara. Nhưng để nó đủ sức leo dần qua các chakra thì còn phải thực hiện những biện pháp hỗ trợ, và đây cũng là những phép luyện tập quan trọng nhất, chủ yếu nhất của Raja Yoga.