THANH TƯỚNG HỌC
Tìm hiểu con người qua giọng nói, tiếng cười cũng có thể biết được ít nhiều về con người đó. Cười ha hả lớn tiếng, thân rung động, đầu cúi xuống, ngẩng lên không ngừng, đến lúc dứt tiếng cười - chứng tỏ một nhãn quan rộng rãi, không câu chấp tiểu tiết, khảng khái, tự tin cao, tinh lực và ý trí mạnh ... cười gượng, thanh âm không tự nhiên, âm lượng không đáng kể - nhu nhược ít ưa giao tế, sợ bị chú ý, tự ti, mặc cảm mạnh, nhưng có khát vọng ngầm. Cười hì hì cười như miễn cưỡng, nhưng không nén được - tính trầm mặc, đắn đo, tự kỷ ám thị, không ưa công tác. Âm lượng của giọng nói càng về cuối câu chuyện càng vang rõ, hùng hồn thì chứng tỏ một sinh lực dồi dào, đức tự tin cao và ý chí mạnh.
Còn người khôn ngoan thường ít cười, nếu cười thì đúng chỗ và thường cười mỉm. Người dễ dãi, thiếu thận trọng thì bạ đâu cười đó (Nhưng người chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên). Người khoan dung, độ lượng, có tài xã giao, lúc nào cũng có nụ cười kín đáo nhưng rất cởi mở, cặp mắt lúc nào cũng như cười. Người lỗ mãng hay cười to, cười lớn như muốn lấn át kẻ khác, ít cười và cười khúc khích là kẻ nhút nhát biển lận. Người đa dâm cười bằng đôi mắt đa tình.
Sau cùng là người đi lúc nào cũng như ngả ngược về đằng sau, dáng đi dường như để mọi người chú ý. Mắt giương to, nhìn lên cao, chào người bằng cái nhún vai, trả lời cụt ngủn, khô khan nhưng sắc bén. Theo sau là nụ cười lạnh nhạt, có thái độ kẻ cả. Đó là người phách lối, cứng đầu, ích kỷ, keo kiệt và thiếu nhân đạo.
DÁNG ĐIỆU, CỬ CHI, HÀNH VI:
a) Cử chỉ:
Một người giảo hoạt luôn luôn có đôi mắt xếch và đôi tròng không nghỉ ngơi, lúc ngồi như co rút hai vai lại đầu cúi về phía trước, tai vểnh lên như lắng nghe.
Người kiên nhẫn lúc nào cũng ngay ngắn, đàng hoàng lúc đi cũng như lúc ngồi; luôn luôn trầm mặc, đoan trang.
Người ích kỷ và cơ hội rất khó khám phá vì luôn luôn có cử chỉ dè dặt, luôn tỏ ra cho mọi người biết mình là người đứng đắn và rất đa nghi. Khi lắng tai nghe việc gì như quên những người xung quanh.
Người chính trực luôn luôn có cử chỉ tự nhiên. Ngoài những điểm trong hai bàn tay, không cho phép chúng ta nhận xét vội vàng về người chính trực, vì bên ngoài họ có vẻ hòa hoãn, gần như tầm thường. . .
Người bất chính nhận xét càng khó khăn hơn, nếu không cân nhắc cử chỉ và lời nói thì sẽ lầm với người nhút nhát, rụt rè. Người rụt rè không bao giờ có cử chỉ hòa hoãn, trái lại đôi mắt luôn luôn nhìn xuống, đầu hơi cúi như lúc nào cũng sợ sệt, tự ti.
b) Dáng điệu:
Người có bước đi dài thong thả là người có nghị lực nóng nảy hay gặp may. Bước đi nhanh như gấp rút chân không bén đất là người thiếu thận trọng, cơ cực suốt đời. Bước chậm, nặng nề là người can đảm. Bước đi nhún nhảy là người kiêu hãnh, tự cao, tự đại. Bước đi khoan thai gần như đếm được, rất giàu nghị lực, vượt được nguy hiểm và dễ thành công.
Người hay xòe tay ra trong lúc đi là thiếu khôn ngoan. Nửa xỏe nửa nắm là người nhút nhát. Nắm lại là người phóng đãng, thỉnh thoảng vuốt trán là người hay nghĩ ngợi. Hay chà mũi là người thiếu trong sạch. Hay quẹt mồm là người thiếu thành thật. Ưa gãi tai là người đa mưu, gãi cằm là người tự phụ, khoe khoang, xấc xược. Thỉnh thoảng thắt thêm dây nịt, hoặc thọc tay nào thắt lưng là người dâm ô tục tĩu. Thọc tay vào túi là vụng về, thô lỗ. Chắp tay ra sau lưng là người hay lên mặt, dạy đời. Hay búng tay, bẻ ngón tay là người ưa phỉnh gạt, dối trá, ưa nịnh.
Lúc ngủ bàn tay xòe ra là phá của, nắm lại là keo kiệt, nửa xòe nửa rắm là người nhân ái.
Khi nói chuyện ngón cái đút và ngón khác là người có tính bủn xỉn. Tay hoạt động theo miệng là người dễ giận, dễ hờn. Vừa nói vừa khua tay là ít suy xét đúng đắn. Hay cười không đâu, lúc chào thâ mình cứng đờ là người thiếu xét đoán. Hay cười là người gian xảo, khinh người.
Người có dáng do dự, vẻ mặt nhăn nhó là người kém thông minh, không hoạt bát, hay gặp thất bại. Người đàn bà dáng đi vụng về, cục mịch, không khoan thai, lúc sàng bên này, lúc sàng bên nọ như rồng rắn, đôi mắt có vẻ kiêu hãnh, dù có đẹp, mềm mỏng cho mấy cũng đáng ngại. Vì người đó có trái tim sắt đá và hay trả thù như Võ Tắc Thiên hay Từ Hy Thái Hậu.
KHUÔN MẶT VÓI TÍNH CÁCH VÀ CUỘC ĐỜI
Riêng về xem tướng mặt đời thà Hán đã chia khuôn mặt thành 365 khuôn hình, bộ vị để ứng với 365 ngày của bốn mùa; Xuân- Hạ - Thu - Đông để xét đoán và “giải mã” sắc diện và hình hài.
Rồi mặt lại được chia thành 12 cung, mỗi cung chủ về một việc. Chẳng hạn họ qui định ấn đường là cung mệnh. Địa các (cằm) là cung Nô bộc. Mặt lại chia thành Ngũ nhạc, Tam đình, Tam tài... Như Tam đình thì có Thượng đình từ chân tóc đến lông mày chủ về tiền vận, trung bình lấy từ lông mày đến dưới mũi chủ về trung vận. Hạ đình từ dưới mũi đến cằm chủ về hậu vận v.v…
Bác sĩ Giôdép Ranan, nhà tiên tri người Áo cho rằng nếu chỉ xem bàn tay thì không thể biết đường đời của con người mà phải nhìn khuôn mặt, vóc dáng, nghe giọng cười, tiếng nói, cử chỉ, kiểu đi, đứng…
Như trên đã nói con người có nhiều kiểu khuôn mặt khác nhau: mặt trái xoan, mặt chữ điền, mặt chữ thập, mặt tròn, hay má bầu, mặt lưỡi cày hay mặt tam giác, mặt thịt, mặt xương v.v... Còn có loại mặt tổng hợp, vừa chữ điền vừa xương xương. Cứ mỗi khuôn mặt lại có một đặc tính khác nhau; kết hợp với các đường nét trên khuôn mặt sẽ cho ta kết luận về tâm lý, tiền tài, danh vọng, sự may rủi của từng khuôn mặt. Thông thường khuôn mặt chia làm ba khu vực.
Khu vực hạ tầng: gồm cằm, hàm răng, miệng và phần cách khoảng giữa mũi và miệng. Khu hạ tầng trực tiếp liên hệ với phần hạ bộ của thân thể, phần bụng tức bộ phận tiêu hóa.
Khu trung dung: gồm mũi, mắt, má và tài. Khu trung dung trực tiếp liên hệ với bộ phận hô hấp hay giao cảm.
Khu thượng tầng: gồm từ mắt đến trán, liên hệ với bộ óc nói lên ý chí con người.
Nếu 3 khu vực đều cân đối như nhau, chúng ta có thể ước đoán không sai là cá nhân của khuôn mặt đó không bao giờ bị một cản trở nào cả trên đường đời, sẽ luôn luôn gặp may mắn trên mọi phương diện.
Nếu phần khát vọng lấn áp, tức hạ tầng phát triều mạnh, rộng và dài quá mức bình thường thì tùy sự nảy nở vừa phải, hay quá độ để có thể kết luận từng mức độ về dâm đãng, bê tha, xa hoa.
Phần giao cảm nảy nở qua hình thức rộng, hẹp của khuôn mặt ở vị trí lưỡng quyền và nhất là mũi dài hay cong, trán gồ ghề hay trợt ra sau. Với phần giao cảm lấn át, đó là người dạt dào tình cảm, đòi hỏi cần sự vuốt ve, ấp ủ, mơn trớn.
Sau cùng là phần trí thức, tức khu thượng tầng lấn át, có thể chia làm ba vùng có giá trị khác nhau;
+ Vùng mặt thể hiện sự quan sát, nhạy cảm.
+ Vùng trán chỉ định trí xét đoán, tính hoài nghi và sự sợ hãi.
+ Vùng 3 thượng đỉnh, gồm từ trán đến chân tóc; đây là phần sáng kiến cũng như mơ mộng – xác định người thông minh hay đần độn.
Một vầng trán thật rộng ở khu vực mắt, người giỏi kỹ thuật, thích sáng tạo, nếu rộng ở khu vực trung là người giàu tưởng tượng, sống triền miên trong mộng tưởng, hoài nghi thực tế thích hợp với văn nghệ sĩ.
Nét kín đáo trong khuôn mặt:
Lúc đối diện một người, ta thấy người ấy có cái mũi to biểu hiện đa cảm. Nếu hai lỗ mũi khép lại hoặc ít mấp máy, người khô khan ít tình cảm. Ngược lại nếu sống mũi nhỏ hơn và hai lỗ mũi phình ra, rất đa cảm.
Một vầng trán rộng, tròn và đều đặn chưa đủ để kết luận là người thông minh. Nếu trán nhỏ với những nét khác thường, trông nghiêng như nét gạch thẳng từ đỉnh trán xuống sống mũi. Yếu tố đó nói lên giàu trí tuệ, thông minh tuyệt vời.
Mũi, miệng, mắt và tai là bộ phận sống của khuôn mặt, vì những tính cách của con người được thể hiện khá đầy đủ và dễ thấy ở nơi đó. Những thớ thịt bao bọc trên gương mặt là hình thức sống động biểu lộ cá tính từng người, lúc vui buồn hay giận dỗi, thông minh hay đần độn.
Khuôn mặt mở khi nói có đôi mắt tươi cười, lỗ mũi mấp máy, môi mở rộng. Ngược lại khuôn mặt có vành môi khép lại, mắt chìm sâu trong mí, mũi đờ đẫn, trán bằng phẳng, đó là khuôn mặt khép lại. Ngoài ra, cũng còn thấy khuôn mặt có đôi mắt thờ ơ lãnh đạm, đôi môi không mở, cũng không đóng, mũi trầm trầm đó là khuôn mặt nghĩ ngợi, lạnh lùng của những người có nhiều mưu mô xảo quyệt.
CÁC MẪU TRÁN
Người có trán trợt phía sau là người hoạt bát, có ý tưởng cao đẹp, nhưng hay nhút nhát. Trán đứng hai loại: đứng từ chân mày lên tóc là người đần độn, không có ý thức sự việc một cách thấu đáo, lại có tính cục cằn thô lỗ. Nếu trán đứng hai phần ba trước khi chấm tóc thì lại là người giàu suy nghĩ, khôn ngoan và sâu sắc.
Trán vồ thì ngược tại trán trợt, không có ý tưởng cao đẹp, thiếu hoạt bát, ngoại trừ phần đi đứng và chỉ tay tốt chế ngự lại. Một cái trán quá cao trên khuôn mặt dài và chiếc cằm nhọn (mặt lưỡi cày) là người vụng về, ngu xuẩn và thiếu sáng kiến. Nếu thêm cặp mắt láo liên, trắng đục là người gian xảo, quỷ quyệt. Gương mặt trên với môi mỏng là người điêu ngoa, lắm lời.
Nếu trán thật xương, người đó sẽ ngang ngạnh, hay gây gổ. Nếu gồ ra thì cục cằn thô lỗ. Trán vuông và rộng với đôi mắt hiền từ là người can đảm, khôn ngoan, thông minh, trung thực. Nếu hơi tròn là người khôn ngoan, mềm dẻo, nhân hậu.
Trán tròn nhô ra ở phần trên là đứng khoảng gần mắt, có vẻ rộng và cao. Đó là người hay suy xét, hoạt bát, thông minh và có trái tim lạnh lùng. Trán ngắn (y học gọi là trán thiểu năng) nếu thiếu đều đặn, nghiêng về một phía, lếu thêm u nần hoặc nhăn tự nhiên là người bất nhất, không thủy chung, khó chơi. Trán dài, làn da thật phẳng và thật bằng, dù vui hay buồn vẫn không có nếp nhăn là người thờ ơ, đa nghi, nham hiểm.
Các nếp nhăm ở trán tùy thuộc tuổi tác và sự nhọc nhằn vất vả về cuộc đời. Người càng cơ cực nếp nhăn càng rõ ràng. Càng già nếp nhăn càng nhiều. Nếu nếp nhăn không ngay ngắn dù đều đặn cũng chứng tỏ là người nhẹ dạ và hay đa nghi. Nếp nhăn thật đều, thêm ngay ngắn, không sâu lắm là người chịu suy nghĩ, khôn ngoan, thẳng thắn và cương trực. Nếu trán chỉ có nếp nhăn ở phần trên, còn phần dưới vẫn trơn tru thể hiện sự ngu đần. Nếp nhăn đều, nhỏ, có vẻ nhăn nheo và không rõ ràng, biểu hiện cá tính mềm yếu và không thọ. Nếp nhăn bị đứt đoạn gãy từng phần không đều, đó là người bạc nhược, hay gặp chuyện buồn. Nếu nếp nhăn rõ ràng, đều đặn sẽ có tâm hồn chất phác, hạnh phúc và nhân ái.
* Mày được các nhà tướng thuật coi là bảo thọ cung, coi về vận mệnh cùng thông; Quảng giám tập tại nói: ''Mày là quân, mắt là thần, phải sáng dài quá mắt, song song hàng nhạn. Nếu ngắn hơn mắt, anh em bất hòa dù có đến ba bốn anh em, cũng không được nhờ cậy''. Mày là ''hoa của mặt” như hoa của cỏ cây, như ánh sáng nhật nguyệt, có quan hệ mật thiết với cá tính, tuổi thọ, hiền ngu, sang hèn của người. Các nhà tướng thuật cho rằng, lông mày thưa nhỏ, bằng rộng, dài đẹp là tướng thông minh hơn người, nếu thô rậm rối, ngắn thì là tướng ngu dốt, hung ác, lông mày dài hơn mắt là tướng giàu sang. Đường Thái tông từng bảo Viên Thiên Cương coi tướng Sầm Văn Bản. Viên Thiên Cương nói Sầm: ''Học đường sáng sủa, mày dài quá mắt, ắt sẽ nổi tiếng thiên hạ về văn chương''. Mày ngắn không đủ để che mắt, hoặc là gần sát mắt là tướng nghèo khó, mày cao sát đầu là tướng tính tình cứng rắn nóng nảy, đuôi mày cụp xuống là tướng tính tình nhu nhược; đầu mày tiếp nối nhau là nghèo đói và hại cho anh em, lông mày mọc ngược, không tốt cho vợ, xương mày nổi cao, hung ác gặp lắm trắc trở, vận mệnh khó khăn; trong mày có sẹo đen, thông minh hiển quý, lông mày vươn cao, đỡ rộng lớn, trong mày có lông trắng, tuổi thọ cực cao, trên mày có nếp nhăn dọc thẳng, đại cát đại lợi, trên mày có nhiều nếp nhăn ngang, nghèo khổ ít của cải.
Độ thưa dày của lông mày cũng đáng chú ý. Những người có lông mày rậm phải đi đôi với rậm, râu rậm gọi là tam rồng. Lông mày thưa, phải mai thưa, râu thưa gọi là tam hy. Có như vậy, trên dưới khớp nhau là tướng hoàn mỹ, nếu ngược lại là có chỗ chưa tốt.
Lông mày thế nào thì cát, lông mày thế nào thì hung, rất nhiều ý kiến. Sách Tướng Lý Hành Chân đời Thanh đã tổng kết khá toàn diện: ''Mày xanh vào mai, vị đến Tam công. Mày như cung cong cơm áo vô cùng. Mày cao vọt dậy, quyền cao lộc hậu. Lông mày rủ dài chắc hẳn sống lâu. Lông mày nhuần sáng dễ thành quan sang. Mày như trăng non, thông minh ai hơn. Mày dài quá mắt, trung trực nhiều lộc. Lông mày mịn màng, không hiền cũng sang. Góc mày chọc mai, là người cô tài. Mày như trăng cong, hiền lành sáng trong. Mày mà cao thẳng, chức cao trong trường. Mày thanh cao trường, bốn bể vang danh. Mày thanh có vẻ, thanh cao xiết kể. Mày nối không phân, sớm về mộ phần. Mày như chổi xể, ân tình sớm vỡ. Mày ngắn hơn mắt, tính tình cô độc. Mày trăng đầu thang, hiền lành trong sáng. Có khí đỏ vàng, vinh quý vui mừng. Mày không phủ mắt, người tan của mất. Xương máy nhô cao, một đời lao đao. Mày tròn rậm thấp, suốt đời tất bật. Lông mày nối liền, tuổi thọ khó toàn. Mày mọc lông hào, tuổi thọ bền cao. Mày cô nếp nhăn, trắc trở khó khăn. Mày dài quá mắt, anh em hoà mục. Lông mày đứt đoạn, anh em lìa tán. Ngán cụt cục xúc, phân tán cô độc. Lông may loà xoà, nữ thiểu nam đa. Mày đẹp thần hoà, hưởng phúc sáng loà. Lông mày mịn nhỏ, đa tài đa nghệ. Mày có chấm đen, nhiều tài lắm ngón. Mày dạng trăng non, danh tiếng nức bốn phương. Mày dài hơn mắt, năm sáu anh em. Mày như chổi xể, tám chín anh em. Mày mắt bằng nhau, anh em đôi người. Mày không bằng mắt, ít anh em nhất, dù có một đôi, riêng anh riêng tôi.”
Về hình dáng của mày, các nhà tướng thuật chia ra nhiều loại: khinh thanh mi (mày thanh nhẹ), tiêm đao mi (mày dao nhọn), đoản xúc tú mi (mày ngắn thanh tú), bát tự mi (mày chữ bát), toàn loa mi (mày xoắn ốc), long mi (mày rồng), sơ tán mi (mày tán thưa), la hán mi (mày la hán), tảo trửu mi (mày chổi xể) sơ đoản mi (mày thưa ngắn), kiếm mi (mày lưỡi kiếm), tiền thanh hậu sơ mi (mày trước thanh sau thưa), liễu diệp (mày lá liễu), giao gia mi (mày gặp nhau), quỷ mi (lông mày quỷ), sư tử mi (mày sư tử), nhất tự mi (mày chữ nhất), tân nguyệt mi (mày trăng non), tiểu tảo trửu mi (mày chổi nhỏ), ngọa tàm mi (mày con tằm), hổ mi (mày hổ), thanh mi (mày thanh) gián đoạn mi (mày đứt đoạn), đại đoản xúc mi (mày thô ngắn) v.v... và với mỗi dáng mày, đều có bình luận về hoạ phúc. Ví dụ, với mày dáng trăng non thì nói: "mày thanh mắt tú quả tốt lương, lại thích đuôi mày quét thiên lương, đường lệ vui vầy đều phú quý, sau này đỗ đạt bái tiền đường”. Đông y cho rằng, quan sát đôi mày có thể đoán trước bệnh sống hay chết. Các nhà tướng thuật phụ hoạ theo đó mà đưa ra thuyết về tướng lông mày quyết định thọ yểu, phúc hoạ. Sách Vọng chẩn tuân kinh đã nói rõ quan hệ giữa đông y với tướng thuật.
“Mày là bẩm mộc khí mà sinh ra, về kinh lạc thì mày thuộc về kinh thú túc Thái Âm. Nó nhiều, ít, thưa dày, thô mịn là do khí huyết nhiều ít, phú bẩm đục trong quyết định. Nhà tướng thuật biệt rõ quy luật đó có thể dự đoán được người hiền hay ngu, nhà y học phân biệt được sự khác nhau mà có thể dự đoán được bệnh sống hay chết. Đạo tuy nhau nhưng căn cứ là một”.
* Sơn căn (nằm trên sống mũi, dưới ấn đường):
Sáng tươi, cao lên thì không hề có tai ách, đầy mà rộng thì học hành giỏi, đỗ đạt, hiển vinh. Sơn căn sáng sủa thì được cả ngũ phước, giàu sang, tuổi thọ cao, không hề gặp tai nạn. Thấp mà hắc hãm thì mắc bệnh trầm khá (nặng). Khô khan mà nhọn (có mu cao) thì nhiều tai ách, hoạn nạn.
* Ấn đường (nằm trên vùng Sơn căn, dưới Hạ đình thuộc sống mũi ngang hai khoé mắt):
Nếu mạng cung sáng láng là người siêu quần xuất chúng có thể trở thành vĩ nhân. Ấn đường mở rộng là có quyền chức, được người đời trọng vọng. Có màu sáng mịn thì gặp được nhiều việc lành, may mắn. Sống ấn đường nổi cao là người thích tu luyện thiền tông. Thần quan sáng chớp thì gần thần tiên (tu hành). Tảng môn (ấn đường) trẹt hẹp thì thê thiếp không toàn. Ấn đường màu hãm đen là họa hoạn sắp đến.
* Mũi: mũi tròn thẳng như cái ống thì y thực đầy đủ. Lỗ mũi trông thấy rõ thì chết yểu, cơ hàn. Mũi như mỏ chim ưng (điểu) thì mưu sâu, quỷ quyệt. Mũi có ba ngấn thì cô độc, phá sản. Mũi có ba nơi lõm xuống thì cốt nhục phản ly. Chuẩn đầu (đầu mũi) mà thẳng mướt thì cơm áo đầy đủ. Chuẩn đầu nổi cao, sáng tươi rất phú quý, hiển vinh. Chuẩn đầu có màu hồng thì Đông Tây bôn tẩu (vô định). Mũi mà xương lộ ra thì sợ chết, nhát gan. Đầu mũi (chuẩn đầu) thịt sa xuống thì rất tham dâm. Chuẩn đầu tròn, đầy, mập thì cơm áo dư dật, phú quí. Chuẩn đầu mỏng, nhọn thì cô bần, khốn đốn. Mũi cao ngang với Thiên đình, oai vang bốn biển, nổi danh trong thiên hạ. Mũi trống lộ cao quá (hếch lên) thì chết đường. Đầu mũi thấp tẹt thì tâm tư thường rối loạn, bẩn hàn, cơ cực.
Người xưa cho rằng mũi hình túi mật treo, to, đầy đặn, cao, lỗ mũi rộng là người giàu có. Mũi quá thấp so với hai gò má là tướng ly biệt vợ, chồng. Cằm nảy nở, vuông vức, thì từ 50 tuổi trở lên vận số tốt lành. Lông mày sâu róm thì tính nóng nảy, thô lỗ, dễ gây hiềm khích, hình thê khắc Tử (khắc với con cái).
* Miệng: môi cong như vòng cung thì làm quan đến Tam công. Môi đỏ thắm như son thì giàu sang, phong phú nhưng yểu Tử. Miệng túm lại như hú thì người rất bần tiện. Miệng nhỏ như túm cái đãy thì đói khổ. Miệng loa ra thì cơ hàn, lắm lời. Cánh tay như rồng (cong) miệng giống mỏ phượng có oai quyền nhưng tính tình thì dễ phản phúc. Miệng rộng, lưỡi mỏng, tâm tính tốt, người vui tính, giàu có. Quanh miệng có màu tía sẫm thì tham tài, có họa. Mở miệng lộ rõ răng thì lòng không có mưu chước, thâm độc gì, sống trung thực nhưng thiều sự thị phi. Trong miệng có thớ thịt (thấu lý: thớ thịt) thì giàu có. Hai khóe miệng rủ xuống, cộng với gian môn cúp thì về già cô đơn buồn tủi.
* Môi: môi thấp trịt không nâng cao thì đói khổ. Môi có màu gan gà thì suốt đời bần hàn. Môi có màu xanh đen thì chết đói ở ngoài đường (hiểm). Sắc môi hồng mà sáng tốt thì giàu có, phong túc. Môi khuyết hõm vào là tính hạ tiện. Hai môi không ngay đối nhau là người bất nhất, láo lường.
* Răng: răng trắng trong như ngọc, thì tính vui vẻ hay ca hát, của cải không thiếu, không phải nhọc nhằn, tần tảo mà dư đật. Răng lóng lánh như màu bạc là tướng người quý, sang trọng. Răng như hột thạch lựu (lựu trắng) thì phú quý tự đến, răng như răng rồng thì sinh quý tử. Lợi răng mà lòi rõ ra, thì có việc gì quan trọng cũng bị tiết lộ không giữ bí mật. Răng lớn mà dày kha, rất phú quý. Răng thưa thì của cải không còn. Răng được 30 chiếc thì cơm áo no đủ. Răng dưới 30 chiếc thì không thọ, chết sớm. Trên 30 chiếc răng thì phú quí đầy đủ. Được 36, 38 chiếc là Khanh tướng, Công hầu, học giỏi, đỗ đạt cao. Sức khỏe và tuổi thọ của con người phụ thuộc vào răng. Vì răng là cốt tủy trong con người. Răng (cốt) mà tốt thì tuổi thọ càng cao. Nói mà hở lợi (lộ sỉ) thì tướng người bỏ đi.
* Lưỡi: Lưỡi lớn mà miệng nhỏ thì nói năng không hoạt bát, cơ hàn. Lưỡi nhỏ mà miệng lớn thì nói năng lanh lợi, hoạt bát, xảo ngôn. Lưỡi ngắn mà lớn là người lười biếng. Lưỡi nhỏ mà dài là tướng làm quan, hoạt động xã hội. Lưỡi dài liếm đến mũi là quý tướng, quan to, học giỏi. Lưỡi như lưới rắn (lè ra, thụt vào) người hiểm độc, dâm ô, khó chơi. Lưỡi không có vằn, thớ là người tầm thường. Trên lưỡi có thớ vằn làm đến Tam công, Bộ trưởng. Lưỡi có nốt ruồi là người siêu phàm.
* Nhân trung (Điểm ở môi trên, dưới mũi, trên miệng):
Nhân trung sâu mà dài thì con cháu hưởng phước lâu dài. Nhân trung ngắn cạn thì ít con cháu. Nhân trung cao mà dày thì thường chết sớm. Nhân trung bằng mà rộng thì không con. Các nhà y gia xem người phụ nữ buồng trứng có tốt hay xấu là dựa trên hai bờ Nhân trung.
* Pháp lệnh (hai bên khóe mũi, trên khóe miệng):
Đường Pháp lệnh mà rõ ràng chạy thẳng xuống, Địa các thì có oai quyền và phú quý. Pháp lệnh ngắn mà nhọn thì nghèo hoặc chết yểu. Pháp lệnh dài đến Địa các (cằm) thì được phước thọ đầy đủ. Ngắn mà quắp vào miệng thì bần hàn, chết đói. Pháp lệnh xung phá (ngắn mà tan ra) thì quá nghèo. Có ngấn tròn, dài thì đủ ăn, đủ mặc.
* Tai: Tướng thuật còn gọi ''thái thính quan", ''kim tinh '' (tai trái), ''mộc tinh'' (tai phải), ''thọ tinh'', ''thông minh bộ học đường''. Tướng thuật cho rằng, tai thông với tâm, thận, tướng tai có quan hệ với trí, ngu, thọ yểu và vinh nhục, khổ sướng. Thần tướng toanh thiên – Tướng nhĩ viết: “Tai suốt não mà thông với ngực, có quan hệ với tim và thận. Cho nên thận khí vượng thì tai tỏ, thận khí hư thì tai không trong không sáng, vì thế tai chủ tiếng tăm và tính hạnh". Như vậy là nói thính giác của ai đó như thế nào là có quan hệ với sự thông minh hay ngu dốt của người đó. Mà tai tinh hay không tinh là do thận khí vượng hay hư quyết định. Quan điểm tai thông với thận vốn là lý luận Đông y. Vọng chẩm tuân kinh đời Thanh viết: “Tai là cung của thận, do đó xem tia tốt hay xấu là có thế biết được thận khoẻ hay yếu. Sao vậy? Tai đem thớ nhỏ là thận bé, thớ thô là thận to, tai cao thận cao, tai lùi về sau thận thấp Tai dai khoẻ thận khoẻ, tai mông không dai thận yếu... Thận chủ xương, do đó tai nổi màu sắc là bệnh của xương. Tai đỏ, nhiều nhiệt khí, tai xanh trắng, thiếu nhiệt khí. Tai đen, da huyết thiếu khí. Đỏ vàng là phong, xanh đen là bệnh, trắng là tràn.”
Y học từ góc độ bệnh lý mà nói ảnh hưởng của thận đối với tai, qua tai mà chẩn đoán tình trạng sức khoẻ. Kết quả quan sát đó đã trực tiếp trở thành căn cứ lý luận của tường thuật.
Căn cứ vào lý luận Đông y, phụ họa vào nhân sự, tướng thuật cho rằng, tướng tai lý tưởng là: dày, dai, dài thì thọ khảo sống lâu, vành bờ phân minh thì thông minh, dái tai dày, rủ thì giàu có sống lâu, tai dày thịt thì giàu đủ, trong tai có lông thì trường thọ, tai có nốt ruồi đen thì sinh quý Tử, cửa tai rộng lớn thì có chí hướng lớn lao, sự nghiệp thành đạt. Tai mỏng mà hướng về phía trước thì gia tài phá tán, phải bán nhà bán ruộng, tai lộn, khuyết vểnh, lộ thì suốt đời vất vả cuối cùng không có nhà để ở, hai tai to nhỏ khác nhau thì đời sống không thuận, gặp nhiều trở ngại, hai tai màu sắc sáng sủa, hồng tước thì tiền đồ rộng lớn, tiếng tăm lừng lẫy: trái lại, thô đen thì nghèo đói, ngu dốt.
Có “bài quyết tướng tai'' như sau:
"Tai như xách lên, tiếng tăm lẫy lừng.
Hai tai rủ vai, hiển quý không sai.
Tai trắng như mặt tiếng nổi như cồn.
Tai hình quân cờ, lập kế thành gia.
Tai như hoa bay, xa tổ lìa quê.
Tai mỏng như giấy, nghèo đói bơ vơ
Tai như tai chuộtt, nghèo hèn chết yểu.
Tai lận không vành, nghiệp tổ tan tành.
Tai có châu rủ, áo cơm no đủ.
Tai mỏng không gốc, sống không mấy chốc.
Cửa tai to rộng, thông minh bay bổng.
Tai có thành dày, thọ khảo lâu dài.
Dưới tai xương tròn, tiền của không còn”.
Về cát hung của tướng tai các tài liệu ''Thần tướng toàn thiên, "Tướng lý hành chân",v.v. . . còn bàn nhiều thì tức là trong khoảng từ 15 đến 30 tuổi, vận mệnh rất tốt. Nếu nhiều nếp răn, lồi lõm không bằng phẳng hoặc là thấp hoặc là hẹp lõm thì tức là trong khoảng đó vận mệnh không tốt.
* Hoan cốt (xương gò má): Xương gò má cao, đầy đặn thì có oai quyền. Hai xương má cao ngang Thiên đình thì vạn người sợ oai. Mỗi bên mà không đều nhau thì bại gia (bên cao, bên thấp). Xương thấp quá không xứng với mặt là người không nghị lực. Cao mà hãm vào mũi thì có thành rồi cũng bại. Mũi cao xứng với hai gò má thì có nhiều người giúp sức phù trợ. Xương gò má cao (đàn bà) thì quyền lấn chồng (hiếp chồng). Đàn bà có gò má cao mà nhọn thì ba đời sát chồng. Gò má có màu xanh hãm thì anh em rầy la, mất đoàn kết. Gò má có màu quá trắng hãm thì anh em có tai nạn. Phụ nữ gò má quá cao là tướng lấn át chồng, khổ về đường tình duyên, lẵng đẵng vì Dương thịnh Âm suy nghịch cách. Cộng với giọng nói như phèng la bế hoặc sang sảng tiếng đồng thì đời chẳng sát chồng cũng hại con.
* Tóc, Râu: tóc dài, thưa mà đẹp là thông minh, phú quý, sống lâu. Tóc ngắn, cứng, thô, màu vàng là can trường nhưng lao khổ. Tóc mai rối loạn, khô khan suốt đời ưu sầu, lo toan. Tóc vàng, khô khốc không nghèo cũng chết yểu. Tóc dài quá mông thì sống lâu giàu có, phú quý. Râu mép, tóc mai thanh tú mượt mà thì có danh tiếng lẫy lừng. Râu cằm, râu mép mà khô loạn thì bần hàn. Nếu mọc ngược thì khắc mọi người, không trở thành giặc cướp thì cũng thành tên phản phúc.
* Vai: mỏng, nhiều lông: người thận trọng, nhưng nhẹ dạ thiếu tài ba. Nhỏ, gày: người nhút nhát, ưa rắc rối, thiếu nhân từ, hay giận cùn nhưng ngăn nắp.
Vai mập và rộng: người nhiều sức lực nhưng hà tiện và thích nhàn hạ, ưa giả nhãn, giả nghĩa. Vai u: người đần độn, thiếu hoạt bát.
* Ngực: đầy mỡ là người kém thông minh, chậm hiểu. Ngực dài là người thận trọng, khôn ngoan. Ngực rộng và đầy, người nhiều sức lực. Rộng nhiều lông là người can đảm, thích sang trọng nhưng mưu mẹo và hay trả thù vặt. Khô khan và lép là người nhút nhát nhưng giàu nhân ái.
* Bụng: to và cao là người đa dâm và lười nhác. Bụng thon vừa phải là dáng đẹp. Nếu to quá độ dày mỡ thì cuộc đời càng ngắn lại khi thắt lưng dài ra.
* Gối: đầu gối cứng cáp và khô khan là người tráng kiện, đi nhanh, lòng dạ rộng rãi. Đầu gối to là người ít ham công việc, hay hành động xằng bậy, tính tình phách lối và kiêu căng.
* Chân: chân to, nhiều gân, và thịt là người khỏe mạnh, nhưng lười và nghèo kiến thức. Chân nhỏ kém sức lực tính nhút nhát nhưng mềm mỏng. Chân nhiều lông là người ham khoái lạc, háo danh nhưng nhẹ dạ và hay thay đổi. Phụ nữ mà lông chân nhiều như đàn ông, cộng với lông mày rậm, mắt ướt át liếc xéo là thuộc loại đa tình dục tính mãnh liệt.
Bàn chân dài gân guốc, đều đặn là người mạnh dạn, Bàn chân hẹp, thiếu đều đặn, người hèn nhát, thiếu sáng kiến. Mập và nhỏ là người kém sức lực. Ngắn và nhỏ là người hiểm đôc. Rộng và bằng là người xấu xa đê tiện (xem hình bên).
PHÂN TÍCH VỀ BÀN TAY, CHỈ TAY: TÍNH CÁCH - PHẨM HẠNH VÀ CUỘC ĐỜI
Bàn tay có những chỉ tay cùng với diện mạo, phong cách, dáng điệu, đi đứng nói năng của con người là biểu hiện của cá tính, khả năng, bản ngã của con người đó. Mỗi con người là một cá tính, một khả năng: hoặc lỗi lạc hoặc tầm thường, xuất chúng hay ngu đần, đều được thể hiện cụ thể qua phong cách bên ngoài và đặc biệt ngay trong chỉ tay, bàn tay của con người đó, không phải là định mệnh đã an bài cho con người ấy được giàu sang phú quý, được trí tuệ cao siêu, hay phải chết ''bất đắc kỳ tử'' hoặc được chết về tuổi già, mà đó là những gì có thể xảy ra. Nó được phát triển hay kìm hãm, còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác của gia đình, xã hội và bản thân.
Xem tay đoán bệnh*:
Loại trừ những mê tín, dị đoan, những lời phán xét dựa dẫm của các thày tướng, các nhà khoa học xem xét các đường nét vân tay một cách nghiêm túc, khoa học thì các nét và vân tay trong bàn tay có thể coi như một bản lý lịch, một bản đồ về bản thân con người… Vì đó là cấu trúc của tế bào, của gen quy định.
Từ đầu Thế kỷ XVII đã có những công trình nghiên cứu về đặc điểm giải phẫu, đặc tính các đường vân. Bước sang Thế kỷ XIX, ngành sinh học, di truyền phát triển đã giúp cho các nhà khoa học nghiên cứu sâu hơn về đường vân tay. Ngành hình sự đã dùng dấu tay để xác định cơ thể và tội phạm.
Trong hội nghị Quốc tế các nhà giải phẫu năm 1926, từ ''hình vân'' được mọi người chấp nhận. Vào giữa Thế kỷ này, việc phát hiện và nghiên cứu các bệnh di truyền đã làm cho các thà khoa học Thế giới tìm kiếm mối liên hệ giữa đặc điểm của các nhiễm sắc thể và những hình vân. Môn ''hình vân học'' được nghiên cứu, và các ngành y học, nhân chủng, chống tội phạm đã áp dụng những thành tựu của ngành này trong công tác của mình. Đặc biệt trong ranh vực y học, các nhà khoa học đã tìm thấy mối liên hệ giữa các đường vân với các loại bệnh. Lòng bàn tay được chia thành 14 khu, vì vậy có thể xác định được vị trí của các đường chỉ. Lòng bàn tay được giới hạn ở hai cạnh bên ở phía ngón cái và ngón trỏ. Hai cạnh khác giới hạn bởi cườm tay và nếp gấp của các ngón, 6 gò bàn tay bao bọc trong khoảng trũng giữa lòng bàn tay. Trong suốt cuộc đời, những hình vân ở bàn tay không thay đổi. Y học cũng đã xác định được những hội chứng nhiễm sắc thể có kèm theo những dấu hiệu trong hình vân ở ngón tay, lòng bàn tay, qua đó phát hiện được nhiều khuyết tật di truyền như bệnh ung thư bẩm sinh, trao đổi chất. Sự biến đổi hình vân cũng là cơ sở để cung cấp thông tin về các khuyết tật di truyền dị thường trong hệ thần kinh trung ương, tiết niệu, hệ hô hấp, tuần hoàn.
Các nhà khoa học Liên Xô trước đây khi xem xét mối liên hệ giữa các gen và các hình vân đã tìm kiếm một chỉ thị của tuổi thọ, giúp cho ngành lão khoa có thể dự báo tuổi thọ của một người từ rất sớm. Tiến sĩ sinh lý học Bécdưsév của trường Đại học Tổng hợp Péc nơ (Liên Xô trước đây) đã nghiên cứu và chọn 20 dấu hiệu cơ bản có thể thay đổi theo tuổi tác. Đó là tổng các đường vân trên 10 ngón tay, tổng số hình vân, số cung, số hoa tay, khoảng các ad (khoảng cách ngón trỏ và út), dh (tính bằng milimet), số vân giữa các hình tam giác lõm trong lòng bàn tay. Qua khảo sát trên hai nhóm người ở vùng Pôlexơ nước Ukraina cho thấy, các chỉ thị về trường thọ (lứa tuổi 80 lớn hơn 100 tuổi) là tổng số đường vân lớn, số hoa tay giảm, tổng sô nút trụ lớn. Các nhà khoa học cho thấy ở những người trưởng thọ không có những biến đổi đặc biệt do bệnh di truyền, nhưng không bao giờ có các hình vân dị thường. Gen bị tổn thương đưa đến các dị thường trong đường vân, gây bệnh tật, chết non... Nghiên cứu kỹ hình vân học sẽ giúp cho các thầy thuốc có thêm một phương tiện, một bản đồ sức khỏe để sớm chẩn đoán được một số bệnh, xác định được tuổi thọ con người và phát hiện những bất thường xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Những người có bàn tay mềm nhũn, lúc nào cũng lạnh, đường Sinh đạo (đường sống) chỉ ngắn khoảng chừng từ 2 đến 3cm, kể từ điểm khởi phát của nó, thì con người này không thể nào thọ trên 40 tuổi, cũng như người có những chỉ tay chằng chịt như bàn cờ thì con người đó khó có cuộc sống sung sướng hạnh phúc và trường thọ được. Ngược lại, một người có bàn tay đều đặn hồng hào với những đường chỉ rõ ràng. Các đường Sinh đạo, Trí đạo, Tâm đạo (Sinh đạo biểu hiện của sự sống, trí đạo biểu hiện của trí tuệ, thông minh và Tâm đạo biểu hiện của tình cảm, tâm tư con người) đều chạy dài từ điểm xuất phát (cũng có thể gọi là điểm bắt nguồn) đến điểm chấm dứt không bị cắt đứt, không lu mờ thì con người đó có cuộc sống sung túc thành đạt và có tuổi thọ cao.
Việc nghiên cứu, hay tìm hiểu bàn tay, chỉ tay của con người là một công việc lý thú. Biết được những điểm tốt hay những điều xấu để chúng ta tránh (nếu là điều xấu) và yên tâm tính chuyện làm ăn (nếu là điều tốt). Có lẽ có bạn sẽ nghĩ rằng: khi những ấn tượng trong lòng bàn tay đã là sự an bài cho cuộc đời của chúng ta rồi, làm sao mà tránh hoặc làm sao yên tâm vui hương những điều tốt lành ấy. Hay sự an bài là định mệnh khắc nghiệt không thể thay đổi được, số phận như thế nào thì phải chịu như thế, cần gì phải chịu đựng, cần gì phải cố gắng làm ăn.
Đấy là một sai lầm, vì rằng bạn đã nhìn con người mình bằng một cách thiếu khách quan và thiếu khoa học, hơn nữa, biểu hiện một ý chí thiếu tự tin, kém cỏi, thiếu nghị lực, không tin vào quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Bạn sẽ rơi vào tình trạng thỏa mãn với bản thân một cách chủ quan, phi lý (tức là chờ đợi và an hưởng) hoặc sẽ bi quan co rút mình lại, chấp nhận mọi sự xếp đặt của người khác, không chút suy nghĩ.
Bạn biết rằng ta không phải chỉ sống một mình trong Thế giới hoàn toàn cô lập, một không gian nhỏ hẹp và thời gian vô tận, mà ta đang sống trong sự vận hành của cả loài người trên hành tinh, cả Vũ trụ, trong một không gian vô tận và không thời gian hữu hạn cho mỗi con người. Vì vậy, cần phải biết mình và sửa đổi mình để tồn tại và phát triển.
Dĩ nhiên, vân tay, chỉ tay cơ bản của mỗi con người từ lúc sinh ra đã có và sẽ không thay đổi nhất là những đường chỉ tay chính như chúng ta đã đề cập đến ở đoạn trước. Nhưng, nói thư thế không có nghĩa là những chỉ tay, vân tay trong lòng bàn tay chúng ta không thay đổi. Ngoài những đường chỉ căn bản, còn thông đường chỉ khác có thể thay đổi, tùy theo tuổi tác và những biến cố trong cuộc đời chúng ta. Tuy nhiên, ít có ai theo dõi để biết được rằng trong lòng bàn tay mình có thay đổi hay không.
Những đường chỉ tay nhi: Sinh đạo, Hôn nhâ, Sinh lý, Thái Dương, Tâm đạo là những đường chỉ có sự thay đổi (có những ấn tượng mới theo tuổi tác và sự nghiệp). Sự xuất hiện của những ấn tượng này không nhất định, có khi một năm, có khi vài ba năm. Kể cả một số những dấu hiệu khác như. Ngôi sao, Chữ thập, Cù lao cũng có thể xuất hiện hoặc mất đi, để báo cho chúng ta những điều may mắn hoặc những điều xấu về sức khỏe, bệnh tật.
Tướng mạo, bàn tay và chỉ tay, ngoài việc liên quan đến cá tính, khả năng, các diễn biến tâm sinh lý, còn có liên quan đến chứng bệnh như bệnh tim, thận, gan, hay suy Âm Dương trong cơ thể của mỗi con người, đây là một sự liên quan mật thiết không thể tách rời được trong đời sống toàn diện của con người đó. Những công trình nghiên cứu phân tích bàn tay, chỉ tay được công bố như tác phẩm The Hand (Bàn tay) của Bác sĩ Josef Ranald người Áo; hay của bác sỹ Ray Hyman người Mỹ, cũng có công trình nghiên cứu tượng tự, đã gây dư luận sôi nổi trong giới tri thức và công chúng và nhất là đối với các nhà nghiên cứu tâm sinh lý giáo dục. Các ông tin rằng, những ấn tượng trên bàn tay liên quan đến các trạng thái tâm sinh lý và cá tính của con người là có thật, hoàn toàn không phải là thuật bói toán, mê tín dị đoan.
Xem xét các dấu hiệu trên bàn tay đó là một khoa học thuộc ''Khoa học quan sát phân tích”, chưa được hiểu thấu triết và phổ thông hóa mà thôi.
Bác sỹ Ranald đã bỏ ra một quãng thời gian dài gần 15 năm để chuyên tâm nghiên cứu về bàn tay, chỉ tay con người cùng với việc phân tích tướng mạo và vóc dáng. Bộ sưu tập của Bác sĩ Ranald gồm nhiều mẫu bàn tay có kèm theo chữ ký của các nhân vật trên Thế giới, trong số đó có những nhà lãnh đạo Quốc gia như Thánh Mahatma Gandhi của Ấn Độ, Đại tướng De Gaulle, Tổng thống nước Pháp, nhà danh họa nổi tiếng Pablo Picasso, nữ kịch sĩ nổi danh Sarah Bernhadt, danh ca Enrico Coruse, nhà văn nổi tiếng G. Bernard Shaw. Cả tên trùm Đức quốc xã Adlof Hitler cũng gởi đến mẫu bàn tay có kèm theo chữ ký của y. Ông quan sát, phân tích trên mẫu bàn tay, chữ ký và tiên đoán về cuộc đời về sự nghiệp của họ. Hầu hết những người này đều xác nhận rằng: Bác sĩ. J.Ranald đã thành công trong khoa học này một cách tế nhị. Công trình của Bác sĩ J.Ranald bắt đầu từ năm 1918 đến năm 1933 thì hoàn thành và xuất bản với tựa đề bằng tiếng Anh là The Hand (Bàn tay) gồm 2 cuốn, cuốn thứ nhất dày 250 trang bao gồm nhiều đề tài, nhiều đặc điểm, chi tiết trong bàn tay, chỉ tay cho đến vấn đề bệnh chứng. Sau đó được dịch ra tiếng Pháp với tựa đề là Les Mains Perlant (Bàn tay thốt nên lời) xuất bản năm 1958.
Quyển hai gồm 350 trang, nội dung xác định sự tương quan và giá trị giữa các ấn tượng trong bàn tay với tướng mạo, dáng dấp con người. Nhà xuất bản Sầm Giang - Sài Gòn đã chuyển dịch và xuất bản cả hai cuốn với tựa để: Khám phá những bí mật của bàn tay, phát hành năm 1970, theo nguyên tác của Bác sĩ Josef Ranald (hiện nay tài liệu này rất hiếm).
Theo nhận định của Bác sĩ J.Ranald: ''Một chỉ tay, hay một ấn tượng tốt không có nghĩa gì cả mà phải trọn một bàn tay, mới là mấu chốt của cuộc đời”.
Công trình nghiên cứu của ông có tính cách mê tín, dị đoan hay không? Các nhà nghiên cứu cho rằng: ''Đây chỉ là một khoa của khoa học quan sát, phân tích và tiên đoán. Bộ môn này có sự liên quan mặt thiết với những khoa học khác như Tâm lý học, Phân tâm học" v.v...
Chúng tôi giới thiệu những đường nét, những dấu hiệu căn bản của bàn tay, để trên cơ sở đó, bạn tự phân tích, đánh giá và dự đoán về mình.
Đối với phương pháp chiết tính ngũ hành của khoa Chiêm tinh Đông phương: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là những vì tinh tú có tác động chủ yếu đến muôn loài mà nhất là con người. Cách phân tích các phần trong bàn tay của người Ai Cập mà J.Ranald áp dụng trong khi nghiên cứu để hoàn thành bộ sách nói về khoa học quan sát và phân tích bàn tay và chỉ tay thì cũng có ít nhiều trùng hợp với khoa học Đông phương về vận số Ngũ hành như: Hỏa (Feu), Thủy (Eau), Thổ (Terre), riêng về Kim và Mộc thì được thay vào bằng không khí (Air), tượng trưng cho Trời là (Solei).
Dựa trên nguyên tắc căn này J.Ranald chia bàn tay ra làm 4 phần liên quan đến Lửa, Nước, Đất và Không khí - hay Trời cũng thế. Phần này do hai đường Trí đạo và Sinh đạo (Thổ tinh) làm thành. Phần trên của đường Trí đạo, trong khu vực giữa đường này và dưới các ngón trỏ, giữa áp út và út, thuộc Trời và Lửa, đó là phần hoạt động thuộc Dương và nam tính.
Khu vực còn lại, nghĩa là phần dưới đường Trí đạo đến cườm tay thuộc về Nước và Đất, đó là phần thụ động thuộc về Âm và nữ tính. Chúng ta có hình thức như sau:

Đường Trí đạo nằm ngang bàn tay, khoảng giữa một trong ba đường chíhh là Sinh đạo, Trí Đạo và Tâm đạo. Vị trí bên trái của đường Định mạng (đường nằm dọc, giữa bàn tay, bắt nguồn từ cườm tay trở lên) và ngón cát, thuộc về Dương là phần hoạt động. Vị trí bên phải của đường này, nghĩa là rìa bàn tay thuộc về Âm là phần thụ động. Chúng ta có thêm một hình thức như sau:

Trở về hình thức nguyên thủy của bàn tay chúng ta nhận thấy hai ngón cái và trỏ thuộc phần hoàn toàn hoạt động (Dương), trong lúc đó, gò Thái Âm (gò đối diện với gò Kim tinh, phần dưới ngón tay cái, thuộc phần thụ động hoàn toàn (Âm) riêng gò Thủy tinh hoạt động về tinh thần (Dương) thụ động về vật chất (Âm) còn gò Kim tinh thì ngược lại, hoạt động về vật chất (Dương) mà thụ động về tinh thần (Âm).
A) CÁC GÒ TRONG LÒNG BÀN TAY
Lòng bàn tay chứa đựng 7 gò và gan bàn tay, gọi là đồng:
1) Gò Mộc tinh (số 6), nằm dưới ngón trỏ, xác định kỳ vọng và sự ham muốn.
2) Gò Thổ tinh (số 5) nằm dưới ngón giữa, xác định sự hoạt động của con người.
3) Gò Thái dương (số 4) nằm dưới ngón áp út, xác định sự phô trương thực tài.
4) Gò Thủy tinh (số 3) nằm dưới ngón út, xác định sự thông minh.
5) Gò Thái âm (số 1) nằm ở tận cùng lòng bàn tay, phía dưới ngón út, xác định trí tưởng tượng và sự mơ ước.
6) Gò Kim tinh (số 8) nằm đối diện với gò Thái âm, dưới ngón cái, xác định tình cảm và sức khỏe.
7) Gò Hỏa tinh có hai phần Hỏa tinh âm (số 2) và Hỏa tinh dương (7). Gò Hỏa tinh âm nằm giữa hai gò Thủy tinh và Thái âm. Gò Hỏa tinh dương nằm giữa hai gò là Mộc tinh và Kim tinh. Gò Hỏa tinh dương xác định sự can đảm và gò Hỏa tinh âm xác định sự bành trướng của tính can đảm ấy.
Sau cùng liên đới ảnh hưởng với gò Hỏa tinh là phần còn lại giữa các gò là gan bàn tay, gọi là Đồng hỏa tinh (số 9). Vì liên đới ảnh hưởng đến gò Hỏa tinh, nên ý nghĩa của Đồng hỏa tinh là xác định tầm mức bành trướng của sự can đảm mà gò Hỏa tinh đã có sẵn.
1) Gò Mộc tinh:
Nằm dưới ngón trỏ, xác nhận tính tự phụ, tham lam và kỳ vọng áp đảo kẻ khác. Tác dụng và ảnh hưởng của vì sao Mộc tinh trong khoa Chiêm tinh là chỉ định óc tìm tòi. khảo cứu, sưu tầm, ấn tượng của may mắn, hạnh phúc và cao thượng.
Gò Mộc tinh thật cao và ngón trỏ trội, người tự phụ, tự hào và phách lối nhưng rất giàu tin tưởng ở sự thiêng liêng, nổi bật trên đường tín ngưỡng. Người này, nếu theo đuổi con đường tu đạo thì sẽ gặt hái kết quả nhanh chóng.
Gò Mộc tinh có một hình thức đầy đặn, không cao và một ngón trỏ thon, người có nhiều kỳ vọng cao xa, nhiều ham muốn. Đời sống sẽ được vẻ vang, hạnh phúc, người có tâm hồn cao thượng.
Gò Mộc tinh nảy nở, đều đặn với một ngón trỏ dài, đầu bầu dục, người có tài điều khiển, nhất là trên đường binh nghiệp sẽ gặp nhiều danh vọng nhờ can đảm, nhiều nghị lực và cũng nhiều kỳ vọng.
Gò Mộc tinh trũng, người không biết ham muốn, lười và tự kỷ. Người này thuộc hạng tầm thường.
2) Gò Thổ tinh:
Gò Thổ tinh nằm dưới ngón giữa xác nhận tính cương nghị, khả năng biện luận, tầm mức hoạt động, sự cẩn thận (nhất là trên phương diện tiền bạc) năng khiếu hầm mỏ, nông nghiệp, và sự rủi may trên đường đời.
Gò thổ tinh đầy đủ và một ngón giữa mảnh khảnh, người có nhiều suy nghĩ vu vơ và có nhiều ước vọng có khi trở thành ảo vọng. Gò Thổ tinh đầy đặn và một ngón giữa trội hơn các ngón, người này thường tự kỷ cá nhân, không thích giao dịch nếu không có lợi lộc. Gò Thổ tinh dưới hình thức này và một ngón giữa nhọn, người bi quan ương ngạnh, nhưng lại ưa thổ lộ tâm tình. Nếu Gò Thổ tinh cao, con người sẽ đa sầu đa cảm.
Gò Thổ tinh đầy đặn với một lóng giữa của ngón giữa cũng đều đặn, người tinh khôn có thực tài.
Gò Thổ tinh cao, với một lóng, chót củ ngón giữa to lớn, người keo kiệt, biển lận, gò càng nổi cao, tính keo kiệt càng nhiều.
Nếu gò Thổ tinh đầy đặn, ngón giữa thon, trong lòng bàn tay lại có một đường Tâm đạo mờ ảo, người này tính tình bạc nhược, thất vọng, buồn nản có khi dẫn đến tự tử.
Gò Thổ tinh trũng, mẫu người này hèn hạ, khốn khổ. Nhưng lếu gò Thổ tinh rộng, đầy và cao nhất trong các gò của lòng bàn tay, thì dù đường Sinh đạo có bị đứt, người này cũng sẽ trường thọ, và đầy đủ phúc đức lúc tuổi già.
3) Gò Thái dương:
Nằm ở thân dưới ngón áp út, biểu hiện khả năng nghệ thuật và sáng suốt, minh mẫn về tinh thần. Cũng như gò Mộc tinh, gò Thái dương xác định về sự ham muốn cao thượng hơn, đó là danh vọng và quyền thế.
Gò Thái dương cũng như ngón áp út gần như có một giá trị tương phản với gò Thổ tinh. Một gò Thái dương tốt, người vui vẻ, rộng xã giao, đài các, đa cảm và nhiều tư cách, thích im lặng trầm tĩnh, minh bạch, người giàu nhân phẩm, thích nghệ thuật, dù chính mình cũng không tạo được nghệ thuật.
Gò Thái đương đầy đủ với một ngón áp út dài, lòng ham muốn sẽ bị thúc đẩy đến tận cùng; người say mê cờ bạc ham tiền, sống một cuộc đời bồng bềnh trôi nổi. Trường hợp này của gò Thái Dương mà gặp phải một khoảng rộng của ngón trái và ngón trỏ, tật xấu càng nhiều hơn, người nóng nảy hơn.
Gò Thái dương đầy đặn với một lóng giữa của ngón áp út dài, một đường Trí đạo kiểu mẫu, người sẽ trở thành tuyệt vời trong kinh doanh. Nếu gò Thái dương đều đặn kèm với một ngón áp út thon dài; người sẽ ham mê kịch nghệ thuật, màu sắc và vẻ đẹp tính tình lạc quan.
4) Gò Thủy tinh:
Gò Thủy tinh đóng ở thân dưới ngón út, nó xác nhận tài hoạt bát, xã giao rộng và giỏi biện luận, nếu nó đều đặn và có một ngón út cũng đều đặn. Nếu gò Thủy tinh nổi cao và có ngón út trội hơn các ngón khác là người xảo trá, không lường được, tính tình thường thay đổi lừa thầy phản bạn.
Gò Thủy tinh trũng, người đần, không có khả năng về thương mại, nhưng say mê cờ bạc, sẽ trở thành người ti tiện.
5) Gò Thái âm:
Gò Thái ám đóng ở rìa bàn tay, thân dưới gò Hỏa tinh âm, xác nhận sức tưởng tượng và sự mơ mộng. Một gò Thái âm đầy đủ cao rộng, người có óc phiêu lưu, thích bồng bềnh trên sông nước, giàu mơ mộng nhưng cũng có khả năng sáng tác, có đầu óc sáng tạo. Nếu gò Thái âm nổi cao quá và mềm nhũn, người bất nhất, không chủ định,… đầy tham vọng. Nếu một gò Thái âm cao đầy đặn, lại gặp một gò Thủy tinh cũng đầy đặn, người này có khả năng sáng tạo, có thể hứa hẹn một danh vọng trên con đường nghệ thuật sáng tạo.
Với một gò Thái âm nảy nở, tràn ngập ra ngoài bìa bàn tay, nó hứa hẹn một sức tưởng tượng quá đáng, mơ mộng viển vông và có thể trở thành mê tín.

6) Gò Kim tinh:
Gò Kim tinh đóng ở thân dưới ngón cái, ám mất lóng thứ 3 của ngón này và được phân chia ranh giới bằng vòng cung của đường Sinh đạo. Gò Kim tinh xác định sức khỏe sinh mạng và tình cảm của con người.
Nếu gò Kim tinh này nở đầy đủ, người sẽ giàu nhân ái, đức độ, sống lâu và rất dồi dào tình ái. Gò Kim tính càng nổi cao, người càng có nhiều ham muốn được gần gũi với người khác phái. Nếu gò Kim tinh càng nổi cao ở phần dưới lòng bàn tay, ,người càng có sức lực mãnh liệt về tình dục và trở nên cuồng bạo! gò Kim tinh đầy đặn, người càng say mê sắc đẹp, ưa làm vừa lòng người khác phái, đa tình nhưng không đa dâm.
7) Gò Hỏa tinh:
Khi nghiên cứu về gò Hỏa tinh, J. Ranald nhận xét như sau:
Nghiên cứu về gò Hỏa tinh có thể nói rằng phức tạp, phiền phức vì nó chia làm 3 phần (Hỏa tinh dương, Hỏa tinh âm và Đồng Hỏa tinh).
- Gò Hỏa tinh dương nằm ở giữa hai gò Mộc tinh và Kim tinh.
- Gò Hỏa tinh âm nằm giữa hai gò Thủy tinh và Thái âm.
- Phần còn lại ở giữa bàn tay là Đồng hỏa tinh.
Mỗi một địa hạt có một giá trị khác nhau, mặc dù đặc tính của vì sao Hỏa tinh là xác nhận sự can đảm và sức bành trướng của con người.
Gò Hỏa tinh dương là phần biểu tượng sự hiếu chiến và cũng là phần hung hãng và can đảm trên phương diện vật chất. Đó là trường hợp người lính chiến và người hiệp sĩ.
Gò Hỏa tinh âm đóng đối diện với gò Hỏa tinh dương, xác nhận tính cách hình thức và tầm hoạt động của cá tính sẵn có của gò Hỏa tinh dương, về vật chất cũng như về tinh thần.
Một bàn tay có hai gò Hỏa tinh âm và Hỏa tinh dương đều nảy nở, người này có thể làm xáo trộn tất cả các hoàn cảnh và cũng không hề lùi bước trước hoàn cảnh. Một sự nảy nở nhiều về Đồng hỏa tinh sẽ tăng cường hiệu năng của hai gò Hỏa tinh âm và Hỏa tinh dương. Hơn nữa, khi Đồng hỏa tinh có đường chạy ngang qua, đó là biểu hiện cường độ của hai gò Hỏa tinh âm và Hỏa tinh dương đến mức tràn đầy. Một trường hợp nguy hiểm sẽ đến làm cho bàn tay nào có cả hai gò Hỏa tinh âm và Hỏa tinh dương đều nảy nở, người này sẽ hung bạo không bờ bến. Ngoại trừ một ngón cái to và một đường Trí đạo làm chủ mới có thể kìm hãm được sự hung bạo đó mà thôi.
Ngoài việc liên đới ảnh hưởng giữa các gò với nhau trong lòng bàn tay, còn sự liên đới ảnh hưởng giữa các gò và những đường chỉ tay. Nó liên quan với nhau một cách chặt chẽ. Chẳng hạn như chiều hướng chảy đến, hay qua ngang đường Trí đạo hoặc Tâm đạo về một gò nào đó, gò ấy ít ra cũng tương quan ảnh hưởng đến những đường chấy. Do đó việc nghiên cứu giá trị của bàn tay đòi hỏi có nhiều sự thấu triệt một cách rõ ràng giá trị tuyệt đối của các gò và sự tương quan ảnh hưởng của nó. Đấy là lời nhận xét của Bác sĩ J.Ranald về giá trị và tác dụng của các gò trong bàn tay chúng ta.
B) CÁC ĐƯỜNG CHỈ TAY
Hình thức các chỉ tay.
Mỗi bàn tay có những nét đặc trưng riêng biệt, có bàn tay nhiều đường chỉ, có bàn tay thì ít đường Chỉ. Tuy nhiên, theo Bác sĩ J.Ranald thì chúng ta chỉ cần chú ý vào khoảng 15 đường chỉ. Nắm được 15 đường chỉ tay này, chúng ta có thể biết được cuộc đời ước vọng hoặc gian lao trong một con người, nhất là đối với trẻ em, con em chúng ta. Biết trước được những nét chính yếu này, chúng ta có thể có điều kiện hướng dẫn chúng trên đường đời hướng nghiệp và tránh được những tai họa.
Những đường chỉ tay cần xem xét gồm: ._
Chúng ta cần biết quan sát qua hình dáng (hình thức) các đường chỉ tay trong lòng bàn tay chúng ta một cách chính xác và tinh tế. Giá trị của các đường chỉ phụ thuộc vào độ rộng, hẹp, nông, sâu, dài ngắn, thẳng hay cong, đứt đoạn hoặc đậm nhạt.
* Đường chỉ rộng: có nghĩa là tràn đầy, tượng trưng cho một con rạch nước vượt mức bình thường. Đó là tình trạng ngập lụt. Do đó, đường rộng xác định tật xấu cũng như tính tốt, nhưng thiếu chiều sâu nghĩa là thiếu sự xét đoán suy nghĩ.
* Đường cạn: như một con rạch vô chừng khúc sâu khúc cạn, cũng có thể là một cánh đồng hoang có nước chảy qua. Trong lòng bàn tay, đường cạn xác định tính cách ''mập mờ”. Người sẽ có một cuộc sống mập mờ, không nhất định, không dứt khoát và cũng ''ngắn ngủn”.
* Đường chỉ sâu: đây là hình thức của một con suối từ núi đổ xuống ào ạt và mạnh mẽ, không một trở lực nào ngăn cản được. Đây cũng là con rạch sâu, lòng rạch sâu mãi. Đường sâu xác định tính cách trường kỳ của nó. Nghĩa là về tính tốt cũng như tật xấu người dám lao mình vào cuộc, gánh chịu nặng nề hay là tận hưởng trọn vẹn.
Trên thực tế, đây là hình thức của sự gan liều, già dặn, giàu đức tin cũng như giàu tham vọng.
Nếu đường sâu, có đứt đoạn, con người đó sẽ luôn luôn gặp trở ngại, bão táp, nhưng chỉ trong thời gian ngắn.
* Đường mỏng: tượng trưng cho một đường nước lúc nào cũng chực cạn, nước chảy từng hồi. Đây là hình thức ít ham muốn. Với hình thức chỉ tay điều hòa như vậy, sẽ có một cuộc đời thanh thản, ít gặp trở ngại nhất.
* Đường chỉ dài: đường đài tượng trưng cho sông. Đường ngắn tượng trưng cho suối, nó xác định thời gian và thời hạn xảy ra tính tốt hay tật xấu, xảy ra biến cố trong cuộc đời chúng ta.
* Đường chỉ rõ ràng: đây là một mẫu người đáng được hãnh diện, nó xác định chắc chắn, chính xác, không sai lệch.
* Đường chỉ mờ: đường mờ có một ý nghĩa trái ngược với đường chỉ rõ ràng, mẫu đường chỉ này gần như khó nhận định, nó cũng tượng trưng cho bản chất con người, thâm hiểm, không dứt khoát, mập mờ.
* Đường chỉ thẳng: đây là tượng trưng cho một con suối nước chảy đều đặn, không nhanh cũng không chậm, có thể thả theo dòng nước mà không sợ lầm lạc, nó xác định sự dễ dàng, không bị trở ngại.
* Đường ngoằn ngoèo: đây là con suối chảy vào một nơi có nhiều chông gai, đá ngầm và cũng có nhiều khoảng trống, thỉnh thoảng xuất hiện, thỉnh thoảng lặn mất, trường hợp này là trường hợp của những người đa nghi.
* Đường chỉ nguyên vẹn: đường nguyên vẹn tượng trưng cho con kênh đào thẳng, không bị ngăn cách, cũng không có nước tràn. Yên tĩnh, trầm mặc là giá trị của loại chỉ tay này.
* Đương chỉ bị cắt: đường cắt ngược lại với ý nghĩa của đường nguyên vẹn, ý nghĩa tai họa của loại chỉ tay này là sự nguy hiểm, gian lao, bệnh tật và chết chóc nữa. Một đoạn cắt có thể nguy hại, hếu đoạn cắt ấy ở đường Sinh đạo. Cần tránh sự lầm lẫn giữa đường bị cắt với đường đứt quãng. Đường bị cắt là một đường nguyên vẹn, nhưng bị cắt ở một đoạn nào đó, còn đường đứt quãng là nhiều khúc không đều nhau, không thể xem là một đường.
C) CÁC LOẠI ĐƯỜNG CHỈ:
1 - Các đường chính:
3 đường: Trí đạo, Sinh đạo và Tâm đạo làm thành hình chữ M trong lòng bàn tay và đó là 3 đường chỉ chính yếu, những đường chỉ khác không chiếm vị trí quan trọng trong một bàn tay con người.
* Đường Sinh đạo bao vòng theo gò Kim tinh, xác định cuộc đời, bản năng thực chất cũng như sinh hoạt.
* Đường Trí đạo nằm trên đường Sinh đạo, theo chiều rộng của lòng bàn tay, từ gò Hỏa tinh dương đến gò Hỏa tinh âm, xác định ý chí, bản tính và tâm linh cùng trí thông minh của con người.
* Đường Tâm đạo nằm vắt ngang qua lòng bàn tay, dưới các ngón, trên đường Trí đạo, xác định tính tốt hay xấu, thể hiện đời sống, tâm tư tình cảm của con người.
2 - Các đường phụ:
* Đường Định mạng (hay mạng đạo) nằm dọc theo bàn tay, bắt nguồn từ cườm tay chạy thẳng lên ngón giữa, hoặc ngắn, hoặc dài. Đường định mạng phác họa cuộc đời.
* Đường Thái dương (hay đường Tài đạo) nằm cạnh đường Sinh đạo hoặc trên gò Thái âm hướng về ngón áp út, đây mới thật là đường Định mạng trên thực thế. Nó xác định sự thành bại trên đường đời danh vọng, tiền tài cũng như khả năng sinh hoạt.
* Đường Sinh lực cũng có thể gọi là đường Thủy Tinh, đường này xuất phát từ thân dưới lòng bàn tay, gần khu vực đường Sinh đạo, chạy lên ngón út. Đường Sinh lực xác định sức khỏe, thời gian sống chết, thọ, yểu của con người.
* Đương Sinh lý (đường Sinh dục) nằm ở rìa bàn tay, trên gò Thái âm, nó xác định ảnh hưởng sinh lý và cá tính của đường Thủy tinh.
* Đường Hôn nhân đóng dưới ngón út, gần đường Tâm đạo, xác định giá trị và hình thức của những cuộc hôn nhân.
Ngoài ra, gốc bàn tay (cổ tay) có các ngấn là để xác định một số giá trị khác của bàn tay.
Tuy nhiên, những đường chỉ như Định mạng, Thái dương, Sinh lực cũng có những giá trị nhất định và ảnh hưởng đến đời sống tâm tính và cuộc tranh đấu của con người.
D - CÁC GIÁ TRỊ KHÁC CỦA NHỮNG ĐƯỜNG CHỈ:
Trong công trình nghiên cứu khoa học quan sát, phân tích, cấu trúc bàn tay của Bác sĩ J.Ranald, đã xác định rằng: "Trong khoa học coi chỉ tay, những đường chỉ được xem là những chìa khóa dùng mở ngỏ cho tương lai cuộc đời, nó liên lạc chặt chẽ với các bộ phận trong con người bằng những sợi ly ty và chằng chịt, nhờ đó có thể khám phá được ảnh hưởng trung thực của mỗi đường chỉ, liên quan đến một thân phận. Đó là kết quả của kinh nghiệm. Kinh nghiệm cho thấy sự thực trong đời người không ngoài dấu vết đã ghi sẵn trong bàn tay. Việc khám phá ý nghĩa của những dấu vết ấy sẽ mang lại cho con người ít ra cũng một phần nào sáng suốt, nếu không muốn nói rằng, nắm vững được mấu chốt của đời mình, từ đó có thể nắm lấy cơ hội, hoặc không cũng tránh được phần nào tai họa, nếu có; lập luận xác đáng nhất trong việc nghiên cứu bàn tay vẫn nhìn nhận rằng có sự thay đổi rất khó nhận xét, vì rất chậm chạp bất ngờ và không thể theo dõi, để ý được. Nhờ quan sát cùng một bàn tay trong một thời gian, chúng ta sẽ bắt gặp sự thay đổi đó, ít hoặc nhiều. Sự kiện này liên quan mật thiết đến sự thay đổi tính tình và mức độ ham muốn của con người”.
Quan sát và phân tích kỹ từng bàn tay. J.Ranald đã đưa ra những nhận xét rằng: Thông thường, các đường chỉ trong bàn tay có màu đỏ hường, đậm, lợt, đều có những ý nghĩa khác nhau.
- Màu đỏ hường chứng tỏ mức độ hoạt động và sinh lục dồi dào.
- Màu xám nhạt, đi đôi với một sức khỏe dồi dào nhưng thiếu nghị lực.
- Màu thật thẫm: người sầu muộn, thù hằn và kín đáo.
- Đường tiếp nối có một ý nghĩa quan trọng cũng như bị cắt đứt và tùy theo hình thức cắt đứt, nối tiếp, sẽ cóhững giá tri khác nhau.
Cũng có trường hợp, đường chính rẽ ra nhiều đường nhỏ, đó là hình thức làm giảm sút giá trị của đường chính và cũng là ý nghĩa của sự do dự.
Hình thức này gọi là "Tua”. Tua chảy về gò nàothì giá trị của chỉ tay chính sẽ chịu ảnh hưởng nặng về về gò ấy. Những tua này luôn luôn có hiệu lực nhất định, và tùy theo thời gian, chiều hướng chảy, độ đậm, nhạt của nó mà một lúc nào đó báo hiệu những diễn biến trong cuộc đời. Thời gian biến đổi này có thể xảy ra sớm nhất là 6 tháng.
- Đường chỉ đôi: đường chỉ đôi là những đường chỉ nhỏ nhưng nằm một mình, không nhập vào những chỉ khác. Đường đôi nằm song song với đường chính, đó là hiệu năng giúp tăng cường cho giá trị của đường chính mà nó nằm song song. Trường hợp này cần được đặc biệt lưu ý, chỉ những đường song song mà không có một chi tiết nào ngăn chặn mới gọi là đường đôi. Nếu trong đường nhô nằm song song này mà có một ''Cù lao” thì đường chính sẽ mất ảnh hưởng hoặc giảm giá trị. Thời gian xảy ra sự kiện này, được xác nhận ngay tại điểm xuất hiện. Tất cả những dấu vết khác như hình “Lòi cói”, chấm, nốt, hay những gạch ngang, dọc, chồng chéo lên nhau, tùy theo mỗi dấu vết ấy mà xác định giá tri tốt, xấu của những đường chính liên hệ.
Trên đây là một số giải thích thêm của Bác sĩ J.Ranald về những hiện tượng xuất hiện trong lòng bàn tay con người, giúp chúng ta quan sát, vận dụng lý giải một cách thấu đáo các giá trị của mình.

BÀN TAY VÀ CÁC NGÓN TAY PHẢN CHIẾU PHỦ TẠNG
VÀ CÁC CƠ QUAN KHÁC CỦA CƠ THỂ
E – CHI TIẾT VỀ CÁC ĐƯỜNG CHỈ TAY
Đường Sinh đạo (số 1): đường Sinh đạo bao trùm gò Hỏa tinh dương và gò Kim tinh. Bắt nguồn từ thân dưới gò Mộc tinh, chạy xuống cườm tay, làm thành vòng cung.
Từ xa xưa, các nhà Nho, y đã có những lập luận cho rằng: đường Sinh đạo là đường độc nhất trong lòng bàn tay chỉ định tuổi thọ của con người, thời gian của bệnh chứng hay những nguy hiểm của cuộc đời con người.
Những kinh nghiệm cho thấy một thực tế trái ngược lại, lập luận trên chưa đứng vững, vì rằng có nhiều bàn tay mà đường Sinh đạo bị đứt hẳn, hoặc đườn Sinh đạo ngắn, cụt ngủn, gần như mất một phần, thế mà người có bàn tay này không hề gặp phải một tình trạng bi đát hay cuộc đời bị chấm dứt như lập luận vừa nêu trên.
Do đó, có thể chứng minh rằng: một đường Trí đạo, một đường Tâm đạo và một ngón cái tốt, luôn luôn tăng cường hỗ trợ và biến cải giá trị của những triệu chứng xấu do đường Sinh đạo phát tiết. Cho nên, muôn nhận xét tinh tường, không vấp phải lầm lạc, khi xác định những trường hợp nguy hiểm liên quan đến tính mạng, bệnh tật của con người, cần phải quan sát từ sự xác nhận giá trị của đường Sinh đạo, đến sự liên quan ảnh hưởng giữa đường này với các chi tiết khác trong bàn tay.
Nếu đường Sinh đạo bị cắt đứt thành nhiều đoạn, hoặc có hình thức như: do nhiều đường lối tiếp nhau, đó là biểu hiện của sự sút kém về sức khỏe xuất phát từ bộ máy tiêu hóa. Nếu đường Sinh đạo bắt nguồn thật cao dưới ngón trỏ, người sẽ tự phụ kiêu căng, nhiều tham vọng và biết sử dụng khả năng hoạt động của mình để thỏa mãn tham vọng.
Một đường Sinh, đạo bắt nguồn thấp, sẽ có một giá trị ngược lại. Thông thường, trong đa số bàn tay, đường Sinh đạo bắt nguồn từ thân giữa của phạm vi hai ngón cái và trỏ. Đó là hình thức bình thường.
Sự chấm dứt của đường Sinh đạo cũng có nhiều hình thức:
Nếu phần kết thúc của đường Sinh đạo rẽ về gò Thái âm nghĩa là về phía rìa bàn tay, đó là hình thức chứng tỏ sự khuấy động, người phiêu lưu, nay đây mai đó mà không đừng chân tại chỗ nhất định nào, cũng không sống ở nơi chôn nhau cắt rốn.
Một đường Sinh đạo ngưng ngang và gặp một ngôi sao hoặc chữ thập, đó là hình thức của một cái chết bất ngờ, hoặc một tai nạn khủng khiếp nếu có những dấu hiệu hay đường chỉ khác cũng xác nhận điều đó.
Nếu đường Sinh đạo có hình vòng cung, gần bao trùm cả phần tiết diện to rộng của gò Kim tinh, người như thế sẽ có nhiệt tâm, độ lượng và giàu lòng thương người.
Ngoài ra, các nhà y học và thống kê quan trắc nhân học còn cho biết rằng những người có tay dài, ngón tay chấm đầu gối, dáng đi ngay thẳng thường là người thích tự do, hào phóng, ưa hoạt động, nhưng tính kiêu căng. Tay tương đối ngắn so với thân hình là người hà tiện, cứng đầu hay gây gổ. Tay đầy đặn nhưng gân guốc là người hay tự phụ nhưng ưa phỉnh nịnh. Tay nhiều lông là người đa nghi nhiều tham vọng nhưng thích trưng diện. Tay không lông là người ôn hòa, khiêm tốn. Tay dài quá đầu gối là người siêu phàm v.v...
F – DIỆN MẠO, CÁ TÍNH ĐẶC TRƯNG VÀ CÁCH GIÁO DỤC TRẺ EM THEO TRUYỀN THỐNG PHƯƠNG ĐÔNG
1) Loại tròn:
Đặc tính: các giác quan nở nang, mở rộng, giữa một khuôn mặt đầy đặn. Có nhiều đường cong, miệng; lỗ mũi rộng, mắt to không sâu lắm, hai hàng lông mày cách xa (không giao với nhau).
Cá tính: loại trẻ này có khả năng thụ tính nhiều hơn hoạt tính. Khả năng hấp thụ chiụ đựng và thu nhận mọi ảnh hưởng của môi trường cao. Sống mật thiết với mối trường, cần có sự che chở, phản ảnh chân thành cảnh vật và đời sống quanh mình. Rất khăng khít với gia đình, quê hương, học đường, xã hội. Tuân phục lề lối, tập tục, không suy nghĩ.
Đời sống nội tâm: không có gì vững chắc, làm việc hoàn toàn theo tập quán và phản chiếu hoạt động của ngoại cảnh. Dễ dạy, hay bắt chước, dễ sai khiến khuyên bảo.
Xã hội: hòa nhã, dễ chịu, vui vẻ tự nhiên, đơn sơ, dễ dung hòa với mọi người, mau hết giận làm lành, không giữ thù hằn,với ai, dễ quen thân. Cảm tình khá bồng bột (ít chế ngự). Thuộc vào loại Cảm và Sơ.
Ở học đường: Học trò “tốt”, vâng lời, giàu trí nhớ, không thông minh và ít hiếu kỳ cho lắm, nhưng làm hết bổn phận, ngoan ngoãn, hấp thụ mọi lời giáo huấn, làm bạn với tất cả mọi người.
Lớn lên thích những nghề nghiệp gì mà cha mẹ có (bắt chước) không thích chọn lựa. Thích ở gần nơi chôn rau cắt rốn. Sợ mạo hiểm, đổi đời, thích một cuốc sống hạnh phúc nhàn hạ, đầm ấm với những người quen, một đời sống không xê dịch, luôn được che chở, đùm bọc. Yếu điểm: sức tự vệ, phản kháng và thích nghi với hoàn cảnh kém. Mềm yếu, nhu nhược xu thời, dễ thoái lui trước khó khăn trở lực. Thuộc loại cho là biếng nhác, ương ngạnh, kém lý luận trừu tượng.
Giáo dục:
a) Tạo một hoàn cảnh lành mạnh, không đòi hỏi nghị lực và khả năng tranh đấu quá sức đứa trẻ.
b) Tập cho đứa trẻ hoạt động, tự suy nghĩ, lựa chọn để sống có bản ngã, đối phó trước mọi trở ngại. Tiếp xúc với những gì mới lạ. Các sinh hoạt tập thể sẽ giúp cho đứa trẻ dạn dĩ, đi dần vào khuôn khổ, kỷ luật (nhà trẻ, vườn chơi v.v. . . ) đối với những trẻ dưới 4 tuổi. Lớp mẫu giáo đối với những đứa trẻ trên 4 tuổi.
2) Loại thuẫn dẹp: (Rétractélatéral)
Đặc tính: khuôn mặt bầu dục, các đường nét mặt đẹp hơi cong, phần nửa dưới mặt khá rộng. Nhìn nghiêng thì mũi miệng hơi hở, thân hình hơi ốm, nét mặt cởi mở, đầy đặn. Nếu những nét này sớm hiện ra nơi trẻ và nổi bật như một khuôn mẫu thì đây là biểu hiện cá tính, đặc sắc và trường cửu của đứa trẻ.
Cá tính: thuộc loại hoạt. Hiếu động, sớm biết đi, biết chạy, không ngồi yên một chỗ, thích đi chơi xa. Dọc đường chạy ngang chạy ngửa, ngó bên này liếc bên kia, thích các trò chơi cần đến sự vận động của thân thể. Ghét sự đùm bọc, che chở, vuốt ve của người thân, Sợ ký túc xá và những cảnh sống có kỷ luật nghiệm.
Học lực: bình thường nếu không nói rằng kém cỏi.
Ham thích: thích cầm đầu làm chủ tình thế và có khiếu điều khiển bạn bè trong các cuộc chơi, chỉ huy trận giả, hò hét, trống kèn. Hay bỏ học đi chơi lang thang ngoài thiên nhiên với bạn bè hiếu động. Nếu ta giữ trẻ ở nhà, bắt ngồi im lặng, nó sẽ đâm ra khó tính, nghịch ngợm, khó dạy, nóng nảy, hờn giận, sức khỏe kém dần và nản chí, vì nó mơ tưởng đến những cuộc viễn du, tang bồng, hồ thì ''Non nước đang chờ gót, lãng du...”. Đứa trẻ thường ngỏ ý: sau này thích là lính thủy, phi công, sẽ được đi xa. Thích khoe mình, không kiêu căng, ít hờn giận, thích được khen.
Năng khiếu thực nghiệm: thích nghề thủ công chứ không hướng về trí thức trừu tượng.
Giáo dục:
a) Nếu ta cưỡng ép xu hướng tự nhiên, đứa trẻ sẽ kháng cự và các nhược điểm sẽ tăng lên. Cho nên, cha mẹ, thầy cô giáo phải theo cá tính đó để hướng dẫn vào nề nếp. Cho sống trong một khung cảnh rộng rãi, thoáng khí (vật chất lẫn tinh thần) để đứa trẻ dễ “tung hoành'' trút bớt sinh lực hiếu động ra ngoài. Đứa trẻ sẽ trở nên đằm thắm, ôn hòa, mạnh khỏe. Tránh ở ký túc xá những năm còn nhỏ, năng cho đi chơi, đi dạo, tập thể thao và tốt hơn hết là cho tham gia những sinh hoạt tập thể như nhà thiếu nhi, vườn trẻ v.v...
b) Việc học hành nên hướng về thực nghiệm, những môn học đòi hỏi nhiều cử động, bởi giác quan lanh lẹ, chân tay khéo léo. Cho đứa trẻ - thiếu niên chọn nghề theo hướng này, nếu không, đứa trẻ sẽ luôn đổi nghề và thất bại.
c) Huấn luyện, hướng dẫn về đời sống nội tâm, vì đã có tính nông nổi, kém tự chủ. Huấn luyện tinh thần tự trọng, hướng dẫn trí suy nghĩ trước khi hành động.
3) Loại thuẫn đứng: (Rétracté Frontal)
Đặc tính: ốm hơn loại trên. Nếu không bệnh hoạn thì thân hình cân đói, cử chỉ điều độ, rét mặt nghiêm trang, nhìn nghiêng thì trán, cằm thiên về dáng đứng thẳng, mũi kín, các giác quan lõm vào và sâu hơn, xung quanh xương thô lên, che dấu một năng lực dồi dào.
Cá tính: thông minh, khôn sớm và dễ thương, dễ thăng bằng, biết sử dụng khả năng một cách điều hòa, biết chọn lọc ảnh hưởng, điềm tĩnh, tự chủ cao. Trí óc sáng suốt thông minh, làm việc có phương pháp, trật tự, hiếu học, có trí nhớ, nhiều tưởng tượng, nhưng ''không mơ theo trăng và lơ lửng cùng mây”. Có óc thực tế mà cũng giàu suy tư, không nông nổi nhưng chân thành bền bỉ với tình bạn, ít thu hút quần chúng. Kiên trì trong công việc và làm có kết quả. Lướt thẳng trở ngại một cách âm thầm. Có sáng tạo, nhưng không xuất sắc lắm.
Giáo dục: rất dễ giáo dục, vì loại này có khả năng thích nghi với bất cứ ngoại cảnh nào. Ta chỉ cần dùng lý trí để khuyên bảo và giúp đi xa sẽ thực hiện được nhiều công việc lớn lao. Bác sĩ, nhà khảo cứu, kỹ sư, nếu đủ điều kiện học hành đừng bắt đứa trẻ đi ngược ý muốn của nó, cũng đừng đặt để, vì như vậy đứa trẻ sẽ không tuân phục theo ý muốn người hướng dẫn hoặc khó thành đạt.
4) Biến thể:
Đặc tính khuôn mặt: khuôn mặt trũng hoặc gãy, hình hài nghiêng đứng. Các giác quan co rút lại, khép kín (miệng ngậm chặt, mũi gãy, lỗ mũi kéo về hai bên, mắt nhỏ và sâu) trái hẳn với loại thuẫn dẹp. Nhìn nghiêng khuôn mặt là một đường cong lõm ở giữa.
Cá tính: hay chống cự, bất phục tùng, cứng đầu và nếu ta cưỡng ép đứa trẻ sẽ phản kháng bằng cách bạo động, đôi khi bộc lộ tính cách tàn nhẫn.
Ý chí: bền bỉ, nhiều sức chịu đựng, không than phiền, khóc lóc nhưng lại làm khổ kẻ khác rất nhiều, bởi sự khép kín khắc kỷ mà bản thân nó không hiểu, làm ta có thể hiểu lầm đứa trẻ không có tâm địa, thiếu tình cảm, không biết xúc động.
Tình cảm: mạnh, nhưng ẩn kín, đến nỗi ta tưởng đứa trẻ khô khan lạnh nhạt. Nó giấu kín tất cả cảm tính vào nội tâm. Chỉ cởi mở cho một vài người đã gây được thiện cảm đối với đứa trẻ, khi đó cảm tình rất chân thành, có thể xả thân hy sinh cho bạn bè. Thường thường, đối với đứa trẻ khác, đứa trẻ có hai thái độ: hoặc chí thiết, hoặc chống đối chứ ít khi hững hờ. Thái độ trái ngược này tùy theo hoàn cảnh.
- Sống hợp với hoàn cảnh (đứa tể tự lựa chọn lấy) thì nó hồn nhiên hoạt bát. Nếu không nó sẽ tự khép mình lại, không nói năng tìm sự cô lập - điểm này có lợi mà cũng có hại - sự im lặng có thể giúp đời sống nội tâm phát triển, nhưng cũng có thể kết tinh những tâm tính kháng cự bất mãn. Quá tình tích tụ ấy có thể bùng nổ vì ước vọng bị kích thích, và sẽ đưa đến nguy hiểm nếu sự bùng nổ ấy lệch lạc.
Giáo dục: tạo hoàn cảnh cho đứa trẻ sống trong một môi trường ấm cúng, dễ chịu với đời sống vật chất khả dĩ. Tránh những trở ngại quá sức nó. Lợi dụng sự kiên định của nó, để giúp nó đặt tin tưởng vào hoàn cảnh, vào người lớn. Đừng nghiêm khắc quá và tránh sự giận dỗi trước mặt đứa trẻ.
Loại này chiếm số đông trong phái trẻ em nam hơn phái trẻ em nữ.
Nếu là bé gái thì đời sống gia đình sau này sẽ gặp những trở ngại (vì thiếu nữ tính). Nhưng dù nam hay nữ giáo dục loại này cần có nhiều sự sáng suốt, tận tụy, mềm dẻo.
5) Loại tam giác: (nhọn Rétractê de Basse)
Đặc tính: khuôn mặt tóp ở phần dưới bề ngang hẹp, giác quan nhỏ, khép kín, hàm thon, xương ít mà thịt cũng ít, trán phần nhiều cao, da khô và xanh.
Cá tính: đa cảm, khôn sớm nhưng ít nhuệ khí, khép mình, thích sống trong một môi trường thu hẹp và thân mật, để tìm sự che chở đùm bọc. Sợ xã hội, sợ chỗ đông người, mới lạ; ''mật cụ già ít tuổi”.
Giáo dục: rất khó, phải luôn luôn quan tâm đến, vì nó phản ứng một cách bất thường, hoặc chống đối hoặc tránh xa, hoặc cởi mở, nếu được che chở. Tránh đưa vào khuôn khổ khắt khe. Đừng bắt nó ăn nhiều, làm nhiều.
Cần cho đứa trẻ sống với thiên nhiên nhiều hơn, nhất là những ngày trời êm đẹp. Mỗi lần đi như vậy cần tổ chức cho trẻ hoạt động, khuyến khích và kéo dài thêm những hoạt động mà đứa trẻ thấy thích. Khi đứa trẻ ham hoạt động thì dần dần tự nó sẽ tìm đến với những hoạt động tập thể.
6) Loại thuẫn nở và đứng:
Phong phú và thăng bằng hơn hết, nhờ sự tổng hợp của hình thể thuẫn nở và đứng.
Thuẫn: bản chất của thuẫn là vận động, hoạt động.
Nở: khuôn mặt khá rộng, nhiều sức hấp thụ. Trán nở, hàm nở vừa phải, nhiều sinh lực và lý luận.
Đứng: trán đứng. Đó là loại tự chủ, thích điều khiển, giác quan nửa khép, nửa mở; mắt to nhưng sâu, nhiều sức phát triển mà cũng nhiều sức tự vệ. Cương nghị, vừa có tình cảm phong phú, vừa có nghị lực, hoạt động và suy nghĩ. Đây là “tướng” lãnh tụ. Diện mạo của loại cá tính lý tưởng.
Giáo dục: tập cho trẻ biết cách tổ chức các trò chơi mời bạn bè tham gia. Hướng cho trẻ có những tình cảm cao thượng, rộng rãi, khoan dung. Rèn luyện cho đứa trẻ một ý chí khắc phục khó khăn để đạt được các thành tích trong học tập và các hoạt động khác của nó. Từ các đặc tính, hình thái, thể trạng, cá tính, nhân cách trên những tri thức giáo dục toàn diện nhằm đào tạo cho xã hội một con người hoàn mỹ: đức trí, thể mỹ dục. . .
Tóm lại: Từ những phần nhân tướng học trình bày trên đây về cấu trúc hình thể của con người mà trong nền văn minh nhân loại của cả hai phương trời Đông phương và Tây phương đã tích lũy được qua vài nghìn năm quan sát, trắc nghiệm và thử thách đã để lại cho con người tới đầu Thế kỷ XXI này nhưng giá trị tiềm ẩn vô giá. Nếu con người ngày hôm nay biết khai thác ''giải mã" và vận dụng chúng vào cuộc sống thì đó là thứ tài sản vô giá. Nếu chỉ dùng một từ giản đơn phủ định sạch trơn cho là mê tín, dị đoan, tức là ta đã đánh mất đi những tài sản vô giá của nhân loại. Song nếu chỉ căn cứ vào đó để thụ động trong cuộc sống, không vận động chớp thời cơ thiên thời, địa lợi, nhân hòa thì đó thực sự là những người duy tâm thần bí cực đoan. Thứ nữa con người là một thực thể vật chất sống, có quan hệ tổng hòa giữa các quy luật tự nhiên và xã hội, nhất là trong một cơ thể sống nó không thể hoạt động tách rời các bộ phận lục phủ, ngũ tạng mà phải liên đới liên hoàn đồng bộ với nhau trong một cơ thể sống. Hay nói một cách cụ thể hơn các bộ phận trong cơ thể con người từ khuôn Mặt, Mắt, Mũi, Trán, Gò má, Sơn căn, Ân đường, Nhân trung, Địa các, tay, chân, cao, thấp, béo, gáy, làn da, mái tóc, nụ cười, nói năng, đi, đứng, nó là tổng thể các bộ vị và hoạt động của con người. Vì thế, nếu tách rời các bộ phận, bộ vị lục phủ ngũ tạng, hệ kinh lạc mà chỉ nhấn mạnh một bộ vi, Ngũ quan, Tam đình, Ngũ nhạc nào đấy về một ai đó để nói về cuộc đời ''số phận'' người ấy thì sẽ là một sai lầm lớn và rất phi khoa học.
NGUYỄN HOÀNG ĐIỆP
(Khảo cứu, biên soạn)