Tài liệu: Độn Đại an và Nhâm độn

Tài liệu
Độn Đại an và Nhâm độn

Nội dung

ĐỘN ĐẠI AN VÀ NHÂM ĐỘN

 

độn Bát môn và độn Lục nhâm. Họ dùng sáu cung ở bàn tay trái rồi lấy ngày, giờ, tháng để tính quẻ. Theo quy định: dưới cuối đốt ngón tay trỏ là Đại an cung Dần, đầu ngón tay trỏ Lưu niên cung Trung, đầu ngón tay giữa là Tốc hỷ cung Ngọ, đầu ngón đeo nhẫn là Xích khẩu cung Mùi, dưới đốt ba là Tiểu cát cung Tý. dưới đốt ba ngón giữa là Không vong cung Sửu.

ĐẠI AN: Thày bói bấm tay sau khi hỏi: Ngày, giờ, tháng khởi sự, nếu hợp vào Đại an sẽ gặp bạn hữu được ăn uống, có quý nhân phù trợ;

Nếu gặp Lưu niên thì sẽ có chia ly, cản trở.

TỐC HỶ: vạn sự may mắn, có lộc tài, cầu sao được vậy.

XÍCH KHẨU: Quẻ xấu (chuyện miệng tiếng, khẩu thiệt).

TIỂU CÁT: Có tài lực toại ý muốn.

KHÔNG VONG (ĐỊA KHÔNG): Bệnh tật, khẩu thiệt, vợ con đau ốm, mất trộm, quẻ xấu nhất, câu thày thường tán như vậy.

XIN THẺ (XĂM)

Cách xem này, người ta thường thấy xuất hiện ở các đền, chùa. Người đi xem vừa lễ vừa khấn rồi xóc ống thẻ cho đến khi nào rơi ra một thẻ. Người xem nhìn thấy ký hiệu của thẻ, đem thẻ ấy đến xin người thủ từ một tờ giấy có in sẵn mấy câu thơ thuộc về quẻ thẻ có số ký hiệu đó để giải đoán.

Ngoài ra, bên cạnh đó, người ta còn nhắc đến môn Độn Khổng Minh. Tương truyền môn này do Khổng Minh để lại, gồm hai phần:

Phần thứ nhất là 15.000 chữ tượng trưng cho mọi vật mọi việc, người xin Độn nói lên điều muốn biết và chọn những chữ để đếm thành nét hoặc những chữ sổ, rồi cộng lại trừ đi 384 (tức 384 hào của 64 quẻ dịch) và theo hàng lối của từng vần tìm thấy chữ nghĩa trong số 15.000 chữ đó gộp lại nhiều lần mà đoán tốt, xấu. Truyền thuyết gọi đây là Khổng Minh thần số.

Phần thứ hai gồm: 384 bài thơ; tượng trưng cho sự biến dịch của 384 hào trong 64 quẻ. Mỗi bài thơ có 8 câu, mỗi câu có 7 chữ. Tìm mỗi bài thơ ấy mà xem tốt, xấu. Tương truyền Gia Cát Lượng vẫn sử dụng trong binh pháp chiến trận và đời sống.

XEM CHÂN GÀ

Bói chân gà, đầu gà là xem chân, đầu một con gà trống nhỏ đã luộc lên để bói. Sau này vì người bói không phải mỗi lúc đều giết gà, các thày bói có một xâu chân đã phơi khô, khách chọn một cái và thày dựa vào đó để bói. Thày bói xem ngón trỏ của chân gà chỉ vào đầu, trung cung (chỗ giữa bàn chân gà) gân huyết để đoán.

Đại khái trung cung đầy đặn (khi luộc chân gà nào chẳng co lại và trung cung nào chẳng đầy lên) là trong nhà khá giả; trung cung lõm là gặp lúc đang suy. Gân huyết đỏ hồng hào là tốt; huyết xăm đen là xấu. Ngoài ra, huyết đọng ở cung nào ở các đốt chung quanh chân hợp với đám trung cung Bát quái cũng chỉ sự xấu, tốt.

Xem bói đầu gà, cũng xem sắc huyết như xem chân gà, huyết đỏ thì tốt, huyết đen thì xấu. Lúc xem còn tùy huyết đóng ở nơi nào mà đoán hay, dở. Thường thì đầu gà mỏ há, mắt nhắm lại là tốt (gà nào luộc chẳng thế), mỏ ngậm mắt mở là xấu.

            LỜI ĐỒNG DAO – SẤM KÝ

Người ta còn dựa vào lời Đồng dao để tiên đoán về sự việc. Họ dựa vào một cuốn sách nào đó nói là: Đồng dao là Sao Huỳnh hoác hiện xuống để dạy trẻ em, nên nhiều câu đã đúng với thời cuộc. Chẳng hạn câu: Chi chi chành chành, cái đanh thổi lửa là nghiệm vào đèn điện. hoặc câu: Chỉ đâu mà buộc ngang trời, thuốc đâu mà chữa cho người lẳng lơ nghiệm vào sổ điện báo và nhà lục xì.

Các lời Sấm ký là những câu ẩn ngữ của các nhà thuật số tính theo số Thái Ất để đặt ra. Tục truyền, theo phép ấy tính được 500 năm về trước và 500 năm về sau.

Người đời nói rằng: vị đặt ra những câu Sấm ký nói vận mệnh thời cuộc là: Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nostradamus.

Chẳng hạn như câu: Cẩu vĩ trư đầu xuất Thánh nhân là ứng nghiệm vào Nguyễn Ánh - Gia Long “cõng rắn cắn gà nhà” diệt nhà Tây Sơn thống nhất giang sơn vào năm Nhâm Tuất. Hay câu: Hoà đao mộc lạc, thập bát Tử thành, Đông Á xuất nhật, Đoài cung ẩn tinh. Người ta cho rằng là nghiệm vào việc hưng suy của các Vương triều Lê, Lý, Trần, Chúa Trịnh. Đại loại những câu Sấm tương tự như vậy về các sự kiện có rất nhiều. Trong tập sách này chúng tôi không liệt kê ra ở đây và cũng không bàn tới sự đúng sai, có phải của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay không phải của ông mà ở đây muốn nói tới một loại hình chiêm đoán được các thày ''bói dùng để hành nghề. Riêng về vấn đề này độc giả hãy đọc thêm các sách khác.

Cầu mộng

Người xưa thường cho rằng: trước khi đi thi hay làm việc gì trọng đại, muốn được quỷ thần mách bảo, hướng phải đi cầu mộng. Muốn vậy, đương sự phải ăn chay, tắm rửa sạch sẽ rồi đem vàng hương đến đền, chùa nào đó linh thiêng khấn lễ. Và sau đấy ở lại tại đó chờ mộng. Hễ mộng báo gì thì cứ thế mà đoán. Theo họ thì mộng có khi rõ ràng, có khi huyền ảo. Trong chiêm mộng kinh có đặt sẵn những bài giải mộng. Nếu nằm thấy Mặt trời dọi vào nhà thì được thăng quan tiến chức. Nếu thấy Mặt trăng soi vào bụng thì sinh quý Tử. Trường hợp thấy răng sâu thì có người thân chết; thấy rụng răng có huyết là có lộc, phát tài v.v. . .

Số tướng

Ngoài các cách bói trên đây, các thày bói, tướng còn có phép xem tướng. Phép xem số tướng cũng xuất hiện ở Trung Quốc từ rất xa xưa. Đời Hán có Hà Thương Công soạn ra số Tam mệnh, đời Đường có Tăng Nhất Hanh, Tăng Đạo Mậu và Lý Hư Trung tương truyền đều là những nhà thuật số có tiếng tăm. Đời Ngũ đại có Tử Bình soạn ra số Định chấn, đời Tống có Lâm Hiếu Công soạn số Lộc Mệnh. Ngoài ra còn có các số Ngũ tinh, Hà Lạc, Tiền Định, Tử Vi… Đại để số nào cũng hay suy lấy Âm - Dương - Ngũ - hành chế hóa sinh khắc và tính theo nhiều độ Nhật Nguyệt tinh thần hợp với ngày sinh, tháng đẻ của từng người mà đoán số mệnh giàu nghèo, hèn sang, thọ yểu thế nào! Trong các phép kể trên, ở nước ta các thầy số thầy tướng hay dùng nhất là số Hà Lạc, số Tiền Định, số Tử Vi (đã nói ở phần trên).

Số Tiền Định

Tương truyền là Quỷ Cốc từ đời Xuân Thu soạn ra. Trong số Tiền Định họ lập sẵn những ''cục'' về ngày sinh và tháng đẻ và trường hợp nào, mỗi ''cục'' có mấy câu thơ thất ngôn và mấy câu định cách về việc cát, hung, họa, phúc để giải đoán cho mọi đương sự về số phận, cuộc đời…

Số Hà Lạc

Dùng Bát tự (năm, tháng, ngày giờ, mỗi cái thuộc về một can, một chi) rồi tính số mục và ghép vào quái hào trong Kinh Dịch để đoán “số mệnh”.

 

MAI HOA BỐC HAY BÓI CHIẾT TỰ HOẶC MAI HOA DỊCH SỐ

Môn bói này tương truyền là của Thiệu Khang Tiết đời Tống đặt ra. Ông đã viết sẵn lời giải đoán cho từng quẻ. Người muốn bói, tự viết ra một chữ, rồi xem hình tượng hay chữ hay nét mà khép vào quẻ; từ đó họ dựa vào lời quẻ có sẵn để đoán hung hay cát. Thực ra, cách đoán này còn rất nhiều chỗ mập mờ, mơ hồ nên hậu thế còn nhiều hoài nghi. Số người tin dùng Mai Hoa dịch số của Thiệu Khang Tiết chủ yếu là phát triển và lưu hành ở Trung Quốc.

Ở Việt Nam, Sài Gòn trước đây có dịch một vài quyển nhưng bản dịch còn rất sơ sài. May mắn gần đây có bản dịch của Ông Văn Tùng mới xuất bản đã có nhiều tiến bộ; dịch giả đã cố gắng bám sát nguyên bản và sáng tạo trong dịch thuật. Kể ra đây là một bản dịch quý giả cho độc giả Việt Nam để đi sâu khảo nghiệm môn Mai Hoa dịch số. Nhưng cũng có điều đáng tiếc không tránh khỏi là trong bản dịch này còn đôi chỗ rườm rà, khó hiểu do cách diễn đạt, thuật ngữ chuyển đổi chưa nhuần nhuyễn chuẩn mực, không mạch lạc. Thậm chí có chỗ có thể lược bớt đi mà không phương hại tới nội dung. Thứ nữa là khâu biên tập, sửa bông còn để lại quá nhiều lỗi gây nguy hại (hiểu sai) cho những độc giả mới nhập môn. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu qua mấy phương pháp của Mai Hoa dịch số để độc giả tham khảo.

            1. Phương pháp Tiên Thiên chiêm quái

2. Phươmg pháp Hậu Thiên chiêm quái

3. Phương pháp Chiết tự chiêm quái

 

1. Phương pháp Tiên Thiên chiêm quái

Số trước quẻ sau. Căn cứ vào số giờ ngày tháng năm chiêm quái để gieo quẻ. Căn cứ vào số của năm, số của tháng, số của ngày mà xác định quẻ trên (thượng quái) căn cứ vào số của năm, số của tháng, số của ngày và số của giờ để xác định quẻ dưới (hạ quái). Lại dùng tổng hòa của số năm, tháng, ngày giờ để xác định hào.

* SỐ QUẺ

Quẻ Càn          1

Quẻ Đoài         2

Quẻ Ly 3

Quẻ Chấn         4

Quẻ Tốn           5

Quẻ Khảm       6

Quẻ Cấn          7

Quẻ Khôn        8

* SỐ NĂM

Năm Tý            1

Năm Sửu         2

Năm Dần         3

Năm Mão        4

Năm Thìn         5

Năm Tỵ            6

Năm Ngọ                     7

Năm Vị (tức quẻ Mùi) 8

Năm Thân                    9

Năm Dậu                     10

Năm Tuất                     11

Năm Hợi                      12

Số tháng: Tháng Giêng 1, Tháng 2, Tháng 3,…, Tháng Chạp 12

Số ngày. Mồng 1 là 1, Mồng 2,..., ngày 30 số 30

Số giờ: Giờ tý 1, giờ Sửu 2,…, giờ Hợi 12

Phương pháp gieo quẻ: lấy thời gian gieo quẻ làm tham số chủ yếu, trước hết xác định quẻ gieo được.

Sau đó: xác định hào lìm được.

Tiếp đó xác định quẻ hỗ trợ tìm được.

Phương pháp để xác định quẻ như sau:

a)      Phương pháp xác định quẻ trên:

Đem số của năm, tháng, ngày cộng lại; lấy tổng số năm tháng ngày trừ 3, số dư sau khi trừ có thể ở 7 khả năng sau: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7. Nếu không có số dư thì xác định là 8. Như vậy thì sẽ có số 8. 8 số này sẽ phân biệt đối ứng với 8 quẻ sau:

            Quẻ càn                       1

            Quẻ Đoài                     2

            Quẻ Ly             3

            Quẻ Chấn                     4

            Quẻ Tốn                       5

            Quẻ Khảm                   6

            Quẻ Cấn                      7

            Quẻ Khôn                    8

Căn cứ vào số dư sau khi trừ thì xác định được quẻ trên là quẻ gì.

b) Phương pháp xác định quẻ dưới:

Đem số năm, số tháng, số ngày, số giờ hỏi quẻ cộng lại rồi trừ 8. Căn cứ vào số dư sau  khi trừ xác định được quẻ dưới là quẻ gì.

Dư số là 1 thì xác định quẻ ''Càn''. Số dư là 2 thì xác định là ''Đoài'' và cứ như thế cho hết quẻ thứ 8.

Nếu không có dư số, tức là tổng số vừa trừ hết 8, thì xác định quẻ trên “Khôn”. Phương pháp xác định quẻ trên cũng giống phương pháp quẻ dưới, chỉ khác là quẻ trên không dùng số của giờ. Ở quyển I Quái số khởi lệ đã nói: "Quẻ 8”. Phàm muốn làm quẻ, không hỏi số bao nhiêu cứ lấy 8 là làm quẻ, quá số 8 thì phải lấy 8 trừ đi, lấy số linh làm quẻ. Nếu lần đầu trừ 8 không hết, lại tiếp tục trừ 8: cứ trừ 8, nếu số dư sau khi trừ 8, rồi thì đó là số của quẻ nếu được số 8 thì biết ngay là quẻ “Khôn”, sẽ không phải trừ nữa. Trừ ở đây, trên thực tế là dùng số khởi quái giảm 8, nếu không đầy 8, thì trực tiếp tính quẻ: vừa bằng 8 thì xác định đó là quẻ ''Khôn”, dùng số dư sau khi đã trừ 8 thì đó là căn cứ xác định quẻ.

c) Phương pháp khởi hào:

Đem số năm, tháng, ngày, giờ hỏi quẻ gồm bốn số này cộng lại, rồi lại cộng tổng hoà của 3 số năm, tháng, ngày, cũng có nghĩa là đem số của quẻ trên cộng với số của quẻ dưới, được tổng số đó trừ 6, số dư sau khi trừ 6, sẽ là căn cứ xác định động hào; không đầy số 6, hoặc bằng 6, thì trực tiếp xác định là số động hào. Quan hệ đối xứng giữa dư số với động hào như sau:

1 . Sơ hào (Hào đầu)

2. Nhị hào (Hào hai)

3. Tam hào (Hào ba)

4. Tứ hào (Hào bốn)

5. Ngũ hào (Hào năm)

6. Lục hào (Hào sáu)

Quyển nhất: phàm muốn tính động hào lấy tổng số Trùng quái trừ 6, lấy số linh làm động hào. Nếu không đầy 6, thì dùng ngay số ấy làm động hào, bất tất phải trừ, Nếu gặp số 6 tất sẽ trừ đi, trừ 1 lần 6 không hết thì trừ 2,3 lần 6, cứ trừ như thế, rồi lấy số linh làm động hào. Nếu 1 hào động tất coi đó là 1 hào, là Dương hào tất biến Âm hào, là Âm hào tất biến Dương hào. Lấy hào nên lấy giờ cộng thêm vào.

Cũng có người cho rằng phương pháp cầu hào động là: phàm số bị trừ 6, thì số dư là hào động, số dư 1 tức là 1 hào động, số dư 2 tức là nhị hào động, số dư 3 tức tam hào động, số dư 4 tức là hào động, số dư 5 tức ngũ động hào. Nếu bị trừ 6 hết vẫn là 6 làm động hào. Con số nhỏ hơn 6, hoặc con số không thể trừ 6 thì vẫn lấy nguyên số đó dùng làm động hào. Nguyên số là 4 tức là tứ hào động, là 1 tức là sơ hào động. Ngoài ra, cũng theo như vậy. Ví dụ: 3 giờ 35 phút ngày 8 tháng 12 năm 1985, có người đến hỏi: 7 giờ rưỡi tối hôm nay, đội bóng nữ Bắc Kinh chúng ta đấu với liên đội Minh Tinh Thế giới, vậy ai thắng, ai thua? Theo Âm lịch thì là năm 1985, tháng 11 ngày 17 giờ Thân tức là Ất Sửu, Mậu Tý, Tân Sửu, Bính Thân.

2 + 11 + 17 = 30; 30 - 8 dư 6, 6 là quẻ trên

30+9 = 39; 39-8 dư 7, 7 là quẻ dưới.

39 - 6 dư 3. Tức là tam hào động, quái tượng của quẻ là quẻ “Thuỷ Sơn Kiển”. Quẻ trên là ''Khảm'' (Thuỷ) là đội nữ của ta. Quẻ dưới là "Cấn'' (Thổ) là liên đội Minh Tinh. Thế nhưng mùa Đông là mùa thuỷ vượng. Thuỷ của ''Khảm" lâm vào tháng kiện cho nên lực khoẻ. Liên đội Minh Tinh cứ ở Thổ vị (đất thể tù) không có lực để khắc (tiêu được) thuỷ đang vượng. Cho nên đội nữ Bắc Kinh nhất định thắng, không còn nghi ngờ gì nữa.

Phương pháp vừa thuật ở trên có một chút tính hàm đồ hỗn độn, hoặc giả là không có tính xác định. Ví dụ nói tam hào động. Đó là tam hào nào động? ít ra thì nó cũng có mấy loại tam hào dưới đây: Ví dụ quẻ ''Kiển" hạ tam hào động được đến: (quẻ “Lữ”) hạ tam hào động được đếm: (quẻ “Tiết”) Trung thương tam hào động tất: (quẻ ''Dự”) Trung hạ tam hào động tất: (quẻ “Khôn”). Do đó phương pháp này còn có tính không chính xác.

 


* Thiệu Ung tự là Nghiên Phu, hiệu là Khang Tiết, người Hà Nam sinh vào thời Bắc Tống Chân Tông Đại Trung Tương Phù tứ niên (năm 1011 S.CN) mất năm thứ mười đời Thần Tông Hy Ninh (năm 1107 S.CN) Khang Tiết sống vào những năm đầu thời Tống Nhân Tông, Tống Anh Tông và Tống Thần Tông, chính là thời kỳ có nền sản xuất phát triển tương đối ổn định trong giai đoạn vương triều Bắc Tống thống nhất gần 100 năm. Thiệu Khang Tiết được yên tâm đọc sách và dốc lòng vào trước thuật. Ba mươi năm trước, khi cư trú ở Cộng Thành, Thiệu đã kiên tâm chịu gian khổ, đông không quạt lò, hè không nghỉ mát, đêm không ngủ yên, ròng rã mấy mươi năm, khắc khổ học tập, ngày đêm ngồi thẳng lưng để suy ngẫm, viết nên bộ sách ''Chu Dịch" dán hết lên vách nhà, ngày đọc mấy chục thiên.

Việc nghiên cứu “Chu Dịch” của tiên sinh đã mất không biết bao nhiêu công sức năm tháng. Thân thế, cuộc đời, sự nghiệp và trước tác của tiên sinh đã được ghi lại trong Tống sử. Đại lược truyện như sau: Thiêu Ung là người đất Phạm, theo cha bị đày đến đất Hành Chương, sau rồi đến Cộng Thanh năm 30 tuổi. Về sau rời đến đất Hà Nam, chôn cất người thân ở Y Thuỷ vì thế mà trở thành người Hà Nam. Thuở còn niên thiếu, Ung tự cho là người có tài, lòng khẳng khái muốn lập công danh, ham học đến mức không cuốn sách nào không đọc. Lúc đi học, Ung kiên trì chịu khó, mùa đông không đốt lò, hè không dùng quạt, đêm không bén chiếu, suốt mấy chục năm. Thường than rằng; ''Con người mà chỉ là bạn với cổ nhân, ru rú một mình chưa ở khắp bốn phương”. Vì thế, ông đi chu du trên Sông Hoàng Hà, Sông Phần, Thiệp, Hoài, Hán, rong ruổi khắp các vùng Tề, Lỗ, Tống, Trịnh. Mãi sau giong buồm trở về than rằng: ''Đạo chính ở đây”. Rồi không đi đâu nữa. Quan nhiếp chính ở Cộng Thành là Lý Chi Tài nghe tiếng Ung hiếu học bèn làm nhà cho để ở và nói rằng: "Ngươi có nghe chuyện học số vật lý tính mệnh không? Ung thưa: Xin hân hạnh được chỉ giáo”.

Ung thờ Lý Chi Tài làm thầy nhận được đồ 64 quẻ Bát quái ''Hà Đồ'' và ''Lạc Thư'' của Phục Hy. Điều truyền lại của Lý Chi Tài, xa có đoạn từ mà Ung đã tìm hiểu được: ''Nhận thức sự vật thống nhất với nhau sâu sắc thấm thía, đến nơi đến chốn, mênh mông rộng lớn . . ." phần lớn đều được cả. Về sau, ngài học được ở ích lão Đức Ích Thiệu: ''Làm khởi phát sự cao minh của trí tuệ để quan sát sự vận hoá, của Trời, Đất, sự tiêu trưởng của Âm - Dương, xa thì biết được sự biến của cuộc thế từ xưa đến nay, nhỏ thì biết được tính tình của cỏ cây muôn thú, tạo dựng nên kiến thức sâu sắc, mọi người không ai nhầm lẫn nhưng không phải giống tượng loại để tìm ra điển hình. Từ đó suy ra được lời chỉ giáo thâm ý về Thiên tiến của Phục Hy.

Khi mới đặt chân đến đất Lạc, lau sậy trùm ngập lối đi, mưa gió triền miên. Thiệu phải còng lưng gánh củi để nuôi cha mẹ. Cuộc sống tuy khổ ải muôn phần, ngài vẫn tự nhiên như không, lòng lại vui vẻ, người khác không thể biết được. Gặp khi cha mẹ qua đời, ngài bùi ngùi khấn lễ làm con Phú Bật kết thân với các bậc trí giả như Tư Mã Quang, Lã Công Trứ. . . sau đó các bậc hiền triết dời đến Lạc Trung, tất cả đều kính trọng Ung, mời Ung cùng làm nhà để ở. Ung đặt tên cho ngôi nhà của mình là ''An Lạc oa”, do đó mà xưng hiệu của mình là An Lạc tiên sinh.

Ban ngày, thắp hương, ban đêm, ngồi trầm tư mặc tưởng vào đúng bữa ăn thì uống rượu ba bốn tuần, gần say thì đừng lại, thường không bao giờ để cho mình quá chén, lúc hứng lên thì ngâm nga tự vịnh. Vào mùa Xuân và mùa Thu, ngài đi chơi trong thành, thường không xuất du khi mưa gió, khi đi thì ngồi lên chiếc xe nhỏ có một người kéo, lòng tuỳ theo sở thích của mình. Các gia đình sĩ đại phu nghe biết tiếng xe liền tranh nhau ra đón chào. Bọn trẻ con đều nói với nhau. ''Người thầy của gia đình ta đã tới, không xưng tên họ, hoặc chỉ để thư lại rồi đêm ra đi. Một số người hiếu sự cũng cố làm nhà như nhà của Ung để chờ ngài đến gọi là ''Hành oa”.

Tư Mã Quang thờ Ung là anh, cả hai vị đức hạnh khoan hoà thuần hậu được người làm kính trọng nể vì. Các bậc cha, thường răn bảo con em: "Chớ nên làm điều gì ác, ngài Tư Mã Quang biết đấy! Thiệu tiên sinh biết đấy! Những vị đạo sĩ đất lạc không đến công phủ thì ắt đến nhà Ung. Đạo đức khí chí của Thiệu Ung cao vời vợi, nhìn thấy ngài đã biết là hiền. Khi có ai đến học, ngài liền bảo ban ngay, chưa hề dùng lời nặng đối với một người nào.

Ngài không phân biệt giàu nghèo, già hay trẻ, đều tiếp đón đối đãi chân thành. Cho nên người tốt yêu cái đức của ngài, kẻ chưa tốt thì được ngài cảm hoá. Vào thời đó, nhân tài đất Lạc nhiều không kể xiết, song phong thái của ngài hiền hòa nhân ái trung hậu, thiên hạ đều biết.

Hy Ninh thực hành tân pháp mà không được phải dùng cưỡng bức, bắt buộc dân lành  phải nghe theo, hoặc trị tội. Các môn sinh bạn cũ ở các châu, các huyện của Ung đều đem thư đến hỏi Ung. Ung nói: “Kẻ hèn ngu này đương là lúc tận lực phép nước chắc mà nghiêm, có thể nới ra một phân, tất dân chịu ơn một phân. Trị tội phỏng có ích gì?"

Nhà Vua xuống chiếu tìm người tài ẩn dật, quan lưu Thú Vương Củng Thời giới thiệu Ung. Chiếu được giao chức Giám chủ bộ (quan coi sóc việc sổ sách), cử làm dật sĩ bổ ra làm quan đoàn luyện ở Dĩnh Châu. Ngài cố từ chối, không nhận nhưng phải thụ mệnh sau thác bệnh không ra làm quan. Năm Hy Ninh thập niên ngài mất, thọ 67 tuổi được tặng Mật thư tỉnh trước tác lang, Nguyên trung thụy hang Tiết.

Thiệu Ung cao minh tài giỏi, vĩ đại vượt hẳn thiên cổ, bình thường mà không hỗn hậu, không thấy sắc nhọn, thật là con người trong sạch mà không xu thời, hoà mà không trộn lẫn theo, giao thiệp với người lâu dài càng được người tôn trong tin cậy. Ban đầu theo hầu cha, mà Trình Hạo ở Hà Nam nới biết Ung, bàn luận nghĩa lý suốt ngày không biết chán, lúc chia tay than rằng:

"Thiệu Ung quả là bậc học giả, trong là Thánh, ngoài là Vua.

Thiệu Ung trí lực vượt hẳn người đời. Gặp việc đều biết trước. Trình Di ca ngợi rằng: ''Lòng người sáng suốt, tự có thể biết trước mọi việc''. Vì sự hiểu biết siêu việt hơn đời của Thiệu Ung, mà các học giả đương thời đã rất đề cao Ung đến nỗi nói rằng Ung có ý bỡn cợt thế gian. Lại cũng vì mọi sự tiên tri của Thiệu Ung nên có người đã cho rằng Ung có cảm xúc thanh khí với muôn vật phàm thường, lấy cái động mà suy ra cái biến. Do đó, mọi việc đương nhiên của thế sự, tiên sinh đều nói trước được cả. Khi ngài đau ốm, các ông Tư Mã Quang, Trương Tải, Trình Hào, Trình Di sớm tối săn sóc bên cạnh. Lúc sắp mất, mọi người bàn luận việc ma chay, tiên sinh đều nghe hết lời nói của họ, ngài nhìn con trai là Bá Ôn nói: "Các vị đây muốn chôn cha ở gần thành để được đi theo ánh sáng của các bậc tiên vương để làm rạng rỡ cho con cháu ta đấy”.

Khi chôn cất, Trình Hào khắc danh trên mộ tôn rằng. Đạo của Thiệu Ung thuần nhất không chút pha tạp đạt được điều mong muốn đến được. Có thể nói là an điều thành đạt. Sách trước tác gồm có: Hoàng cực khinh thể, Quan vật nội thiên, Ngư tiều vấn đối.

Thơ thì có: Y xuyên kích loại tập, Tử Bá Ôn, Biệt hữu truyện.

Từ những điều trên đây có thể biết, thầy của Thiệu Ung là Lý Chi Tài, thầy của Lý Chi Tài là Mục Tu, thấy của Mục Tu là Trần Đoàn.

1 - Phương pháp xác định quẻ hỗ.

Đem hào đầu và hào trên của quẻ 6 vạch bốc trừ đi để xem, thì coi 4 hào giữa phân chia làm hai cái bát quát (quẻ ba vạch) xem thuộc quẻ nào. Quẻ Càn, quẻ Khôn, hai quẻ này không có quẻ hỗ biến quái của chúng. Phương pháp phò trợ cách Tiên Thiên chiêm quái.

a) Vật số chiêm bói vật

Bói vật phàm là trông thấy những nhưng vật tồn tại có thể đếm được thì đều có thể dùng số này để xác định quẻ trên, dùng số giờ phối hợp làm quẻ dưới, dùng số quẻ cộng với số giờ, rồi trừ đi 6 để xác định hào động.

b) Thanh âm chiêm (bói thanh âm)

Thông thường nghe thấy thanh âm đếm được số tiếng, thì dùng số đó để xác định quẻ trên, cộng với số của giờ phối làm Hạ quái. Nếu nghe thấy động vật kêu mấy tiếng, hoặc nghe thấy tiếng người gõ cửa mấy lần, đều có thể làm số khởi của quẻ được.

c) Tự chiêm (bôi chữ)

Thông thường khi dùng số chữ để chiêm quái và có thể nên chia bình quân. Số nét bút của một nửa số chữ được phân làm tham số xác định quẻ trên; số nét chữ của một ẩn số chữ còn lại làm tham số xác định quẻ dưới. Nếu số chữ không bình quân được thì dùng thiếu đi một chữ làm tham số xác định quẻ trên; dùng số nét bút của số chữ thừa một chữ làm tham số xác định quẻ dưới. Nếu như chữ ''nhất", chữ này không thể phân rõ được phải trái, trên dưới không thể dùng được. Nếu như dấu chữ nét chữ rõ ràng thì dùng các nét chữ ở bên trái xác định là quẻ trên, các nét chữ ở bên phải xác định là quẻ dưới. Chữ để bói chia làm ''bói một chữ”; bói 2 chữ, bói 3 chữ và bói tới 11 chữ. Từ 11 chữ trở lên đều có thể khởi quái được.

d) Trượng xích chiêm (bói trượng, thước)

Một vật gì đấy, có độ dài có thể đo được số trượng trở lên thì dùng số trượng làm tham số xác định quẻ trên, số thước làm tham số xác định quẻ dưới. Đem số thước cộng với số trượng làm tham số mà xác định hào số. Số tấc không tỉnh.

e) Xích thốn vật chiêm (bói vật có thước tấc)

Vật gì có độ dài từ trượng trở xuống thì dùng số thước xác định quẻ trên, dùng số tấc xác định quẻ dưới. Cộng hợp số thước, tấc cộng thêm số giờ để lấy hào (số phân ly không kể).

Đối tượng bói hỏi của các Tiên Thiên chiêm quái có thể chia ra 4 loại:

1 . Chiêm quái cho người

2. Chiêm quái cho mình

3. Chiêm quái cho động vật

4. Chiêm quái cho tĩnh vật.

2. Phương pháp Hậu thiên chiêm quái

Phương pháp Hậu Thiên chiêm quái và Tiên thiên chiêm quái không có sự phân biệt về bản chất, chỉ có sự khác nhau về phương pháp. Điểm khác nhau là ở chỗ: phương pháp Tiên Thiên chiêm quái thì căn cứ vào số đã có để xác định quẻ có nghĩa là số trước, quẻ sau. Phương pháp Hậu thiên chiêm quái lại căn cứ vào quẻ đã có để xác định số, tức là quẻ trước, số sau.

Loại phương pháp này có hai điểm mấu chốt: một là quái tượng của ''Bát quái vạn vật thuộc loại” đều là tham số dùng để xác định quẻ trên. Hai là phương vị của ''Bát quái phương vị đồ” tức là ''Hậu Thiên Bát quái phương vi đồ'', là căn cứ để xác định quẻ dưới. Nhìn thấy vật tức là đã được quẻ trên, như nhìn thấy cha, trời, người già... thì xác định đó là quẻ Càn, làm quẻ trên, từ phương hưởng mà vật đến thì được quẻ dưới. Ví dụ, đến từ phương Nam thì xác định là quẻ Ly. Quẻ Cấn lấy số 1 làm số quẻ, quẻ Ly lấy số 3 là số của phương quẻ, lại cộng với số giờ của trên rồi trừ 6 để xác định động hào. Đối với Tiên Thiên có thể cầm bút mà thành quẻ, còn Hậu Thiên thì phải tiếp xúc với vật mới có quẻ.

3. Phương pháp Chiết tự chiêm quái

Thuật “Chiết tự” (tách chữ), để bói, ngoài một loạt những phương pháp của nó như hình thức ngũ hành, lục thần bút pháp, lục thần hình thức, tướng tự lâm dịch ra... còn có thể căn cứ vào Bát quái để tiến hành phép bói.

Thuật chiêm đoán tách chữ (Chiết tự) tướng thuật cùng với các sách cổ đại của Trung Quốc, đã có một mối quan hệ mật thiết, nó là những tài liệu vô cùng quý giá để có thể dùng cho việc nghiên cứu nghệ thuật thư pháp Cổ đại và tâm lý học Cổ đại của Trung Quốc và cũng là những tư liệu tham khảo quan trọng để nghiên cứu thuật toán mệnh Cổ đại của nền văn minh Đông Phương.




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/143-02-633385770273906250/Nen-van-hoa-co-than-bi-Dong-Tay-phuong-ky-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận