Tài liệu: Kinh dịch tinh hoa của triết cổ phương Đông

Tài liệu
Kinh dịch tinh hoa của triết cổ phương Đông

Nội dung

KINH DỊCH*

TINH HOA CỦA TRIẾT CỔ ĐÔNG PHƯƠNG

Chúng tôi xin đi thẳng ngay vào vấn đề: Tinh hoa của Triết cổ Đông phương điển hình là Kinh Dịch. Đây là nhận định chung của rất nhiều nhà khoa học trên Thế giới và ngày câng nhiều người có nhận định như vậy. Nhưng Tinh hoa này nằm ở những điểm nào? Xin có mấy ý kiến sau.

Nói khái quát nhất, có thể xem Kinh Dịch - tức là 64 quẻ Văn Vương với Bát Quái Đồ Hậu Thiên được xây dựng trên hình vuông của Sao Thổ, hay trên Lạc Thư - là lý thuyết hệ thống phổ quát nhất tối ưu (Universat optimal theory of systems) của những hệ thống đang tiến hóa. Với lại hệ thống này, trên nguyên tắc cần nghiên cứu dưới ba cấu trúc cơ bản của phương pháp luận tiếp cận hệ thống (systematic approach methodology): cấu trúc chức năng (functional structure), cấu trúc thực thể (substantial structure), cấu trúc genetic (genetic trúc ture).

Tuy nhiên, với Kinh Dịch các cấu trúc thực thể và genetic trùng với nhau: đó là cấu trúc bản thể.

 

I. Kinh dịch là lý thuyết phổ quát nhất, tối ưu về hệ thống

Chúng ta biết rằng, trong Triết cổ Đông Phương có những học thuyết như Đông Y Thời Châm học (Chronoacupunture), Tử Vi, Độn Giáp (Lục Nhâm Đại Đôn), Thái Ất Thần Kinh, Bát tự Hà Lạc,… Đây là những hệ thống tuân theo các nguyên lý và quan hệ cấu trúc sau:

Nguyên lý

Nói chung, các học thuyết trên đều xuất phát từ những nguyên lý khái quát nhất về Vũ trụ quan và Nhân sinh quan cổ Đông phương như:

-  Nguyên lý Vũ trụ là Một.

- Nguyên lý vạn vật Đồng nhất (Bản) thể.

- Nguyên lý con Người là Một Tiểu Vũ trụ

- Nguyên lý Thiên Địa - Nhân hợp nhất.

Quan hệ cấu trúc hệ thống

Mặt khác, các quan hệ chính tạo nên cấu trúc của các học thuyết cổ Đông phương là Quan hệ cấu trúc hệ thống Âm, Dương. Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Âm Dương mâu thuẫn nhau nhưng nương tựa vào nhau, không hủy nhau, thống nhất hài hòa với nhau, làm cơ sở cho nguyên lý phi bài trung (Middle included principle), trái ngược với nguyên lý bài trung (Middle Excluded principle) của nền Duy Lý Tây phương.

Quan hệ cấu trúc hệ thống Tứ Tượng: Thành, Thịnh, Suy, Hủy.

Quan hệ cấu trúc hệ thống Ngũ Hành: Sinh, Trưởng, Hóa, Thâu, Tàng sinh khác nhau.

Quan hệ cấu trúc hệ thống Bát quái, mở rộng cấu trúc Tứ Tượng hay Ngũ Hành sinh khắc thành cấu trúc Bát Quái có quan hệ sinh khắc nhau.

Quan hệ cấu trúc hệ thống Cửu Cung, mở rộng cấu trúc Bát Quái với sự hiện diện của Trung Cung.

 

Tính toàn đồ và đa tiêu chuẩn của học thuyết cổ Đông phương.

Ngoài ra, về phương pháp luận cơ bản, các học thuyết cổ Đông phương mang những đặc tính sau của các hệ thống sống:

Tính Toàn Đồ

Triết cổ Đông phương xem Cấu trúc con người và Vũ trụ gần như nhau, dù con người là một bộ phận của Vũ trụ. Theo thuật ngữ Tây phương, tính chất này gọi là tính chất toàn đồ (hologram, holo = toàn, gram = đồ).

Tính đa tiêu chuẩn

Triết cổ Đông phương xem mọi diễn biến là kết quả của những tranh chấp hỗ trợ (sinh, khắc) xuất phát từ các quan hệ cấu trúc hệ thống trên, chủ yếu là quan hệ Âm Dương với nguyên lý phi bài trung. Rõ ràng đây là một bài toán đa tiêu chuẩn (multicriteria problem) rất phức tạp.

Tính phổ quát: Kinh dịch bao trùm các tiền đề của nhiều học thuyết

 Nói riêng về Kinh Dịch, theo nghiên cứu của chúng tôi, nhiều cơ sở của Triết cổ Đông phương đều nằm trong 64 quẻ Văn Vương.

Ví dụ:

Trình tự khí huyết chảy trong nhân thể 50 vòng trong mỗi ngày gọi là Đại Chu Thiên (Big cycle) cũng có mặt trong 64 quẻ Văn Vương.

Hệ thống các bước phát triển của con người (hay Quỹ đạo) cũng có mặt trong 64 quẻ của Văn Vương.

Cơ sở của lý thuyết Tiết khí (hay Thời tiết) cũng có mặt trong 64 Quẻ Văn Vương.

Cơ sở của các biến cố lớn của nhân loại cũng có mặt trong 64 quẻ Văn Vương.

Nếu kể thêm Y Dịch Lục Khí thì hệ thống các huyệt Ngũ Du cũng có mặt trong 64 Quẻ Văn Vương. Hệ thống các huyệt Kinh và Lạc cũng thế. Các căn bệnh cơ bản cũng thế. . .

Tính tối ưu: Kinh Dịch là một lý thuyết tối ưu

Nhiều tác giả nghiên cứu Kinh Dịch đã nói: ''Trong Kinh Dịch chỉ có một chữ Thời”. Thời đây chính là Thời tối ưu để hành động. Kinh Dịch là một học thuyết theo thời gian ghi số (digital). Nội dung chữ Thời tối ưu dựa trên các nguyên lý và quan hệ cấu trúc trên. Đó là kết quả của một sườn tính toán cứng và mặt khác, của một kinh nghiệm đánh giá (estimation) mềm chủ quan.

Tính khoa học: Kinh Dịch nêu cao cơ chế cộng hưởng

Cơ chế về quan hệ giữa các bộ phận là cơ chế đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Rõ ràng đây là loại cơ chế cộng hưởng khoa học, nhưng lại liên quan đến các cấp độ Thiên, Nhân khác nhau ở thực tại. Vì thế, nhà sinh học nổi tiếng Thế giới là Rupert Sheldrake mới gọi là cơ chế đó là cộng hưởng hình thái genetic (Morphic genetic resonance).

 

II. Các cấu trúc chức năng, thực thể bản thể - genetic của kinh dịch

Ngay đầu cuốn sách của tác giả Nguyễn Hiến Lê đã viết: ''Kinh Dịch Đạo mình của Người Quân Tử”. Nghĩa là chức năng của Kinh Dịch trước hết là Đạo làm Người cho người Quân Tử. Nhưng Đapk Người phải theo Đạo Trời. Và theo cổ nhân, phải theo Đạo đúng Thời riêng và Thời chung. Đó là bản chất cơ bản về cấu trúc chức năng của Kinh Dịch. Nhưng cái Thời chung này có thể tính được không? Bản thân 64 Quẻ Văn Vương không cho các thuật toán cụ thể tính cái Thời chung đó, trừ trường hợp tính các Tiểu Vận và Đại Vận riêng cho từng người trong Bát Tự Hà Lạc. Cái Thời chung này được tính dựa vào các học thuyết khác, như Độn Giáp, Thái Ất. . .

* Có người cho rằng Kinh Dịch chỉ là một học thuyết thô sơ thậm chí ''thiếu khoa học, thiếu logic, chỉ gồm toàn là hiện tượng rời rạc nhau, không hiểu thế nào cả!”.

* Còn Tiến sĩ Giám đốc Học viện Erannos, một Học viện loại lớn nhất của Tây phương về Kinh Dịch, trong bức thư của ông gửi cho tôi thì cho rằng Kinh Dịch là một kết quả to lớn của trí tưởng tượng của cổ nhân.

Nói chung đối với Kinh Dịch và nói riêng đối với Triết cổ Đông phương, có nhiều thái độ trái ngược nhau, có người muốn bác bỏ, có người muốn bảo vệ. Nhưng tại sao lại bác bỏ, và tại sao lại bảo vệ Kinh Dịch?

A. Thế nào là một học thuyết thô sơ và không thô sơ?

1. Phải chăng những học thuyết có tính toán nhiều hiện tượng, chính xác mới gọi là không thô sơ? Tại sao mãi cho đến ngày nay, tuy được trang bị bởi bao nhiêu phương tiện hiện đại, nền văn minh Duy lý Tây phương vẫn chưa xây dựng được một học thuyết nào về cấu trúc tinh thần, tâm thức, về đạo lý? Và Duy lý Tây phương cũng vẫn chưa với tới được những biên giới của các phạm trù chính yếu của sự sống và đi đúng hướng vào bản chất, vai trò của con người nói chung trong vòng quay của Vũ trụ?

2. Chúng tôi đã xây dựng được những cơ sở của Kinh Dịch bằng lý thuyết tập mờ, sáng tạo từ năm 1965 bởi nhà toán học L.A. Zadeh (California) và đã thấy rằng: để có thể giải được một bài toán đa tiêu chuẩn của Đông Y học như Lục Nhâm Đại Độn hay Thái Ất Thần Kinh thì không biết sẽ cần bao nhiêu trang giấy, bao nhiêu phương trình, công thức toán học cho vừa. . . Thế thì phải chăng Triết cổ Đông phương là thô sơ?

3. Chưa nói đến các học thuyết này đã phanh phui được những cấu trúc thầm kín còn vô hình của nhân thể trên các mặt vừa tâm (Psycho), vừa thể (Somatic), chẳng hạn trong Đông Y học, hay về các cấu trúc Tâm - Sinh - Lý về Tiết khí trong Độn Giáp.

4. Và cũng chưa nói đến còn bao nhiêu bài toán về tôpô của Triết cổ Đông phương liên quan đến cái gọi là là Mebius hay về các hình vuông kỳ diệu của Thất Tinh (tức là Sao Thổ, Sao Mộc, Sao Hỏa, Sao Kim, Sao Thủy, Mặt trời và Mặt trăng), trong đó Lạc Thư của Bát quái đồ Văn Vương chỉ là trường hợp đơn giản nhất!

Nói cho cùng lên cho được một sơ đồ về chức năng Đạo làm người như Kinh Dịch với các học thuyết dẫn xuất - gọi là các cấu trúc của Thực tại (Structures of Reality) như Đông Y Thời Châm học, Độn Giáp, Thái Ất - không chỉ là không thô sơ, mà còn rất sâu sắc về nhân sinh quan và Vũ trụ quan . . .

B. Kinh Dịch có logic không?

Để giải đáp, trước hết cần xác định là khi nói đến logic, chúng ta muốn hiểu là logic nào. Phải chăng là logic hình thức (Formal logic)? Nếu muốn mọi hình thái hoạt động của con người luôn luôn phải theo logic hình thức này, thì Kinh Dịch sẽ trở thành một cái vô nghĩa, vì Kinh Dịch đi theo một logic khác. Trong Hội thảo vô thức năm 1979 tại Tbilisi (Liên Xô cũ), người ta đã xác nhận rằng logic là sản phẩm của Văn hoá vì có nhiều nền Văn hoá khác nhau, nên có nhiều hình thái logic khác nhau. Thực chất logic của Kinh Dịch là logic phi bài trung ở trên. Chẳng hạn Kinh Dịch nói: ''Trong Họa có Phúc, trong Phúc có Họa”, trái hẳn với logic hình thức. . .

Tuy nhiên, để xây dựng Kinh Dịch, cổ nhân đã theo một con đường mà trong thời đại ngày nay, Vật lý hiện đại đang đeo đuổi. Đó là phương pháp luận tiên đề (Postulat) tạo nên cấu trúc logic nội tại của học thuyết được xây dựng. Nói cụ thể hơn:

* Vật lý học hiện đại có tiên đề thì Triết cổ Đông phương có nguyên lý.

* Vật lý học hiện đại có phương trình, tức là các mốiquan hệ giữa các yếu tố, thì Triết cổ Đông phương cũng có các quan hệ Âm Dương, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái, Cửu Cung.

* Vật lý học hiện đại có toán học đại số hiện đại và có toán vi tích phân làm phương tiện logic, thì Triết cổ Đông phương có toán tập mờ và toán các số nguyên cũng làm phương tiện logic.

* Vật lý học hiện đại giải được các phương trình trên cơ sở toán học của mình để tìm ra nghiệm, thì Triết cổ Đông phương cũng giải được các bài toán đa tiêu chuẩn của mình và tìm ra được các nghiệm là các học thuyết khác nhau, như đã biết. . .

BỨC TRANH VẬT LÝ HIỆN ĐẠI

BỨC TRANH TRIẾT CỔ ĐÔNG PHƯƠNG

I. Nguyên lý – tiên đề

I. Nguyên lý – Tiên đề

Các nguyên lý tương đối và tốc độ bất biến.

Nguyên lý không gian bốn chiều…

Nguyên lý bài trung, Duy lý.

Hệ thống tất định, cơ giới.

Các nguyên lý vũ trụ là Một, Thiên – Địa

Nhân hợp nhất, nguyên lý Phản phục

Nguyên lý phi bài trung. Duy lý mờ

Hệ thống khả năng. Nghệ thuật

II. Đại lượng

II. Đại lượng

Véc tơ bốn chiều, véc tơ sáu chiều.

Tenxơ

 

Bất biến: Vô hướng (từ) bốn, (từ) sáu chiều.

Thời gian: liên tục (thời gian ghi số)

Thời gian optimum (thời gian tối ưu)

Tượng: Âm Dương, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái, Cửu Cung.

Số: Lạc Thư, Hà Đồ.

 

Bất biến: Nguyên lý Phản phục…

Thời gian: ghi số

Chữ Thời của người Quân tử.

III. Phương trình và nghiệm

III. Phương trình và nghiệm

Phương trình hiệp biến

 

Nghiệm: quỹ đạo

Các quan hệ như sinh, khắc, cách, bách, phát,…

“Nghiệm”: hệ 64 Quẻ Văn Vương

IV. Các hệ thống con

IV. Các hệ thống con

a) Véc tơ bốn chiều: xung lượng, năng lượng

Cơ học tương đối tính,

Cơ học Newton

b) Tenxơ phản xứng. Cặp véctơ điện từ

Lý thuyết điện từ trường.

Lý thuyết bán dẫn, lý thuyết chất rắn

Lý thuyết Plasma…

a) Quỹ đạo 8-9-1-2-3-4… Thiên tả hòa,

 

Thiên Nội, Học thuyết Thái Ất,

b) Quỹ đạo 4-3-2-1-9-8… Địa hữu chuyển, Thiên Ngoại. Học thuyết Độn Giáp, Đông Y học, Thời Châm học.

c) Y Dịch Lục Khí, Thuyết quỹ đạo con người? (Bát Tự Hà Lạc…)

 

Cấu trúc logic của Kinh Dịch và của Lý thuyết tương đối là như nhau.

Bảng này dành riêng cho các bạn đọc đã biết lý thuyết tương đối trong Vật lý học hiện đại.

* Nói riêng, nếu lý thuyết tương đối chứa được các cơ sở của Cơ học và Điện từ trường, thì Kinh Dịch cũng vậy với các học thuyết dẫn xuất của nó là Đông Y, Thời Châm, Độn Giáp, Thái Ất. Như thế, tính bao quát của Kinh Dịch cũng tương tự như tính bao quát của lý thuyết tương đối. Hai bên đều có khoa học luận (Epistemology) như nhau.

Vậy thì chúng khác nhau ở những chỗ nào?

C. Sự khác nhau giữa Kinh Dịch và Vật lý học với sự khác nhau về đối tượng

Những sự khác nhau này nằm sâu ở trong tính chất các đối tượng nghiên cứu: Vô sinh và Hữu sinh, Vật chất và Tinh thần.

Sự khác nhau về Triết học

Sự khác nhau này cũng nằm ở nguyên lý bài trung một bên và nguyên lý phi bài trung bên kia, như đã nói.

Sự khác nhau giữa tất định và khả năng

Những sự khác nhau còn ở chỗ một bên là lý thuyết Tất Định (Deterministic Theory), còn bên kia là các lý thuyết về Khả  Năng (Theory of Possibilities).

Sự khác nhau giữa khách quan và chủ quan

Một sự khác nhau nữa là ở chỗ, một bên không có sự tham gia chủ quan của con người trong các quyết định cuối cùng; còn bên kia cần thiết có sự tham gia của chủ quan con người để đánh giá (estimation) các khả năng khác nhau có thể xuất hiện (như trong chẩn đoán y học Đông phương). Chúng ta đang đứng trước những hoạt động vô cùng phức tạp của con người trong cuộc sống, và không thể khi nào cũng luôn luôn có những tình huống đơn giản không đòi hỏi sự lựa chọn chủ quan.

CẤU TRÚC THỰC THỂ - BẢN THỂ - GENETIC CỦA KINH DỊCH

Trên kia chúng ta đã nói tới tính cấu trúc logic của Kinh Dịch. Bây giờ chúng ta nói tới một đặc tính logic khác của học thuyết đó.

Với các bạn đọc đã làm quen với Kinh Dịch, thì Kinh Dịch gồm 64 Quẻ, có một trình tự xác định từ Quẻ này đến Quẻ khác, và tập hợp các Quẻ chia thành hai phần, phần Thiên gồm 30 quẻ và phần Nhân gồm 34 Quẻ.

Mỗi Quẻ lại có 6 hào, mỗi hào có thể là Âm hay Dương, và trong tập hợp 6 hào đó có những mối liên hệ xác định:

 

Phần Thiên Nội quái

Phần Nhân Ngoại quái

Thiên – Địa – Nhân – hợp nhất Nội Ngoại quái

3. Hào mạt

2. Hào Trung

3. Hào Sơ

6. Hào Mạt

5. Hào Trung

4. Hào Sơ

Cặp Hào 3 – 6

Cặp Hào 2 – 5

Cặp Hào 1 - 4

 

Ngày trước, trong cuốn sách Le Livre du Ciel et de la Terre et les secrets du Yi Kinh – Cuốn sách của Trời, Đất và những bí mật của Kinh Dịch; tác giả Lavier cho rằng, ý nghĩa của ba cặp Hào là như sau:

Phần Thiên, Nội quái

Phần Nhân, Ngoại quái

3. Hào đặc tính của (nguyên) Nhân

2. Hào biểu thị của (nguyên) Nhân

1. Hào thực thể của (nguyên) Nhân

3. Hào đặc tính của (kết) Quả

2. Hào biểu thị của (kết) Quả

1. Hào thực thể của (kết) Quả

Như thế tác giả Lavier cho rằng, tương quan giữa Nội Quái Ngoại Quái là quan hệ nhân quả. Đồng thời ông cũng muốn tiến tới khía cạnh thực thể (substance) của Kinh Dịch.

Nhưng theo nghiên cứu của chúng tôi, để tìm cấu trúc thực thể bản thể - tức genetic của Kinh Dch cần đào sâu nguyên lý Vũ trụ là Một của ngay Triết cổ Đông Phương. Nếu quả thực Vũ trụ là Một, thì học thuyết khái quát của Triết học đó - tức là Kinh Dịch - phải thể hiện cho được cái Một đó.

Nhưng vì người mang cả Vũ trụ trong bản thể của nó theo nguyên lý con người là một Tiểu Vũ trụ, nên chúng ta có sơ đồ logic sau, trong đó cần tìm xem Kinh Dịch - với tính chất là học thuyết về con người mọi mặt - phải mang trong bản thân nó cái thực thể nào của con người.

 

Theo các nghiên cứu của chúng tôi về mặt logic, có nhiều khả năng cái thực thể đó của con người được biểu hiện trong Kinh Dịch, chính là hệ các cơ thể vô hình của nó.

Quả vậy, có thể hình dung mối quan hệ giữa các cơ thể vô hình của con người và tập hợp các hào của Quẻ Kinh Dịch như sau:

Nội Quái bình diện

Tiên Thiên các cơ thể vô hình

Quan hệ giữa Nội quái và Ngoại quái

Ngoại quái bình diện Hậu Thiên

Các cơ thể vô hình

Hào 3

Cơ thể Etheric mẫu, sản ra cơ thể Etheric

Hào 2

Cơ thể Thiên Cảm xúc cao cấp

Hào 1

Cơ thể Ketheric Tâm thần cao cấp

Cơ thể Trung Gian

Hào 6

Cơ thể Etheric

Hào 5

Cơ thể Cảm xúc

Hào 4

Cơ thể Tâm thần

Âm Dương Ngũ hành Bát quái

Plasma Sinh học  Tiên Thiên khí

Âm Dương Ngũ hành Bát quái…

Plasma Sinh học

Âm Dương Ngũ hành Bát quái…

Plasma Sinh học Hậu Thiên khí

Âm Dương Ngũ hành Bát quái…

Mối quan hệ giữa Nội quái và Ngoại Quái được biểu hiện ở cơ thể 4 là cơ thể Trung gian giữa hai bình diện Tiên Thiên và Hậu Thiên. Nếu được như thế, thì tính logic của Hệ Văn Vương được suy từ tính logic của tập hợp các cơ thể vô hình của con người, do tập hợp này phải mang một tính logic rất cao mới có thể tạo nên được sự sống hoàn chỉnh và ổn định của con người trong một khoảng thời gian vật lý khá dài . . .

Trong cuốn sách nhan đề Sự tích hợp đa văn hóa Đông Tây trên cơ sở Triết cổ Đông phương cho một chiến lược giáo dục tương lai của chúng tôi (đã xuất bản), chúng tôi có phân tích khá nhiều mối quan hệ giữa hệ thống (Nội Quái - Ngoại Quái và các hào của Kinh Dịch) với hệ thống (các bình diện Tiên Thiên - Hậu Thiên và các cơ thể vô hình của thân thể) về khá nhiều mặt.




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/143-02-633385067932372500/Nen-van-hoa-co-than-bi-Dong-Tay-phuong-ky-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận