TRUYỀN THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VỀ KINH DỊCH
Theo truyền thuyết thì Phục Hy đã dựa vào Hà Đồ, Lạc Thư để lập ra Tiên Thiên Bát quái: Còn Văn Vương dựa vào Tiên Thiên Bát quái và Cửu trù, Hồng phạm của Hạ Vũ để lập ra Hậu Thiên Bát quái. Thế rồi có thuyết nói rằng: Từ Bát quái, Phục Hy đã dùng các quái luân phiên đặt quẻ nọ trên quẻ kia để thành 64 quẻ. Mỗi quẻ lại có 6 hào, mỗi hào có ba sách (trong có khí Âm, khí Dương) biến đổi đủ 3 lần thì thành một hào. 64 quẻ có 384 hào (64 x 6 = 384) và 1152 sách (theo số Đại diễn).
Và theo Phùng Ý thời Tống ghi:
'Văn Vương tán quẻ của Bào Hy, diễn cỏ thi, suy biến dịch của 9 (Dương già thì biến), 6 (Âm già thì biến) để sinh ra hào; bởi thế quái, hào đều liên hệ với nhau bằng lời và dịch tên là ''Dịch”. Từ khi Khổng Tử tán Dịch của Văn Vương thì các sách Dịch của Hạ, Thương đều bỏ. Cho nên Khổng Tử nói: ''Bào Hy vạch Bát quái, chứ không nói làm Dịch”.
Tác phẩm đầu tiên nói về Kinh Dịch là cuốn Chu Lễ. Theo từ điển Từ Hải lúc đầu nó có tên là Chu Quan (nói về quan chế, bổng lộc) sau đến đời Hán mới đổi là Chu Lễ. Sách này chép đời Chu có ba loại bói, có quan Thái bốc giữ ba loại Dịch: Liên Sơn Dịch; Qui Tàng Dịch, Chu Dịch. Về nguồn gốc của 3 loại Dịch cũng có nhiều thuyết khác nhau. Thuyết thì nói: Liên Sơn Dịch của Phục Hy, Qui Tàng Dịch của Hoàng đế; có thuyết lại nói Qui Tàng của Hoàng đế: Liên Sơn của Thần Nông. Một thuyết khác lại cho là Liên Sơn Dịch của nhà Hạ lấy quẻ Cấn làm đầu (có lẽ vì Cấn cũng là núi và Sơn cũng là núi). Một thuyết nữa nói Qui Tàng Dịch của nhà Thương lấy quẻ Khôn làm đầu (bởi lẽ Khôn là đất mà Qui Tàng có nghĩa là muôn vật từ đất sinh ra rồi lại trở về với đất); nhưng hai loại Dịch đó đều mất, ngày nay chỉ còn có Chu Dịch. Và người được nhắc tới công đầu tiên với Chu Dịch là Văn Vương. Ông tên thật là Cơ Xương, một chư hầu của nhà Ân, phong làm Tây Bá. Sau Kiệt Trụ thấy thế lực của ông mạnh, chư hầu theo về đông đúc đã bắt ông giam ở Ngục Dữu Lý 7 năm trời. Cuối cùng ông được Kiệt Trụ thả và giao cho ông cầm quân tiêu diệt các dân tộc nổi loạn. Đến khi được Khổng Tử Nha (Lã Vọng) giúp đỡ, Văn Vương đã hoàn thành nhiệm vụ rồi mất vào năm 1135 Tr.CN.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng khi bị giam ở Ngục Dữu Lý, có lẽ Văn Vương đã trùng quái và tìm ý nghĩa cho 64 quẻ. Ông cũng là người viết Thoán từ và cũng gọi là Quái từ cho mỗi quẻ. Các nhà nghiên cứu, Nho gia, sử gia đều nhất trí cho rằng nhờ có Văn Vương mà các quẻ từ đây mới có lời giải khá minh bạch.
Khi ông chết, con ông là Cơ Phát lên ngôi Tây Bá. Năm 1122 Tr.CN, Cơ phát đem binh diệt Trụ lập ra nhà Chu; xưng Vương là Chu Võ Vương, phong cha là Văn Vương. Chu Võ Vương có làm cho cơ đồ nhà Chu hưng thịnh, nhưng người có công làm cho nền văn minh Trung Quốc phát triển hùng mạnh là Chu Công Đán, em ruột của Chu Võ Vương. Võ Vương chết năm 1115 Tr. CN, con là Chu Thành Vương còn nhỏ tuổi lên nối ngôi. Chu Công Đán làm phụ chính, ông đã hết lòng phò tá giữ ngôi cho cháu, dẹp tan bọn phản loạn trong dòng họ tổ chức Nhà nước, sửa đổi lễ nhạc. Song Chu Công Đán vẫn chuyên tâm nghiên cứu theo nghiệp cha và phát triển Kinh Dịch.
Thời Văn Vương mới chỉ đặt ra Thoán từ để giải nghĩa toàn quẻ. Chu Công Đán đặt ra Hào từ cho mỗi hào của mỗi quẻ.
Tới giai đoạn này Chu Dịch mới thành một cuốn sách có căn cứ, nghĩa lý; đời sau gọi là Kinh và chia làm hai thiên: Thượng cho 30 quẻ đầu, Hạ cho 34 quẻ sau. Nhưng lời của Thoán từ và Hào từ còn đơn giản, huyền bí ít người hiểu được phải chú thích thêm bản Thập Dực ( Thập là mười, Dực là cánh con chim). Nó biểu tượng ẩn ý rằng: Thoán Từ của Văn Vương, Hào Từ của Chu Công Đán đặt ở dưới mỗi quẻ, mỗi hào là đã đủ hình con chim. Bây giờ thêm Thập Dực là thêm lông, thêm cánh cho con chim. Song ta hiểu Dịch và Chu Dịch nghĩa là gì? và Dịch có từ đời nào do ai đặt ra?
Về từ nguyên, chữ Dịch có nhiều cách hiểu và diễn giải khác nhau. Có thuyết cho chữ Dịch là biến đổi. Có người lại cho chữ Dịch là tượng hình của một loài rắn tựa như loài kỳ thông ở nứớc ta rất dễ thay đổi màu sắc của da. Lúc ở trên cây nó có màu xanh lá cây hay màu vỏ cây, lúc xuống đất giống như màu đất. Mới đầu hình đó chỉ loài kỳ nhông, sau có nghĩa là dễ biến đổi như kỳ nhông. Cuối cùng chỉ còn nghĩa là biến đổi.
Một thuyết nữa, cho Dịch bao gồm chữ Nhật là Mặt trời ở trên và chữ Nguyệt là Mặt trăng ở dưới. Dịch là sự thay đổi cho nhau như Mặt trăng và Mặt trời. Mặt trời lặn thì Mặt trăng mọc và ngược lại, cứ như thế luân chuyển vòng tuần hoàn vĩnh hằng. Dù theo nghĩa nào thì Dịch cũng có nghĩa là biến dịch thay đổi. Vạn vật sinh ra, tồn sinh rồi biến thành dạng khác. Trong các quẻ và hào đều thể hiện sự biến dịch đó. 8 quẻ đơn hào Âm, hào Dương thay đổi cho nhau, ... Quẻ Càn vạch Dương lên đến 5 hào là thịnh cực, tới hào thượng là suy. Đời người cũng vậy, có lúc sinh thời tráng kiện; rồi già yếu, bệnh tật ốm đau suy kiệt và chết. Trong trời đất, 4 mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông kế tiếp thay nhau biến đổi, vận chuyển (thu: liễm; đông: tàn; hạ: trưởng; xuân: sinh). Vậy Dịch có nghĩa là sự biến dịch, biến đổi, giao dịch và bất dịch trong Kinh Dịch.
Về Chu Dịch có hai thuyết khác nhau. Thuyết của Trịnh Huyền đời Hán cho rằng: Chu là Chu trình hết vòng tuần hoàn rồi trở về (chu nhi phục thuỷ); nó là vòng chu lưu trong Vũ trụ, là phổ cập. Chu Dịch có nghĩa là đạo dịch, phổ biến khắp Vũ trụ, nó hết một vòng là trở về. Trịnh Huyền còn lý lẽ rằng ba sách dịch đời Chu là Liên Sơn, Qui Tàng, Chu Dịch;hai tên sách đầu tiên không chỉ thời đại, thì tên cuối cũng không chỉ thời đại.
Còn thuyết của Khổng Dĩnh Đạt đời Đường bác lẽ trên và nói rằng: hai sách Liên Sơn, Quí Tàng không có chữ Dịch ở đằng sau; còn Chu Dịch có chữ ''dịch'' ở sau, tức là chữ ''dịch'' không thể tách khỏi chữ Chu. Điều này có nghĩa là Dịch của nhà Chu. Song lý luận của hai học giả trên đều không đứng vững, cho đến nay ta chỉ biết Chu là đời Chu. Chữ Chu Dịch xuất hiện sau Khổng Tử, Mạnh Tử vì lẽ trong Luận Ngữ, Mạnh Tử chỉ dùng tên Dịch chứ không có tên Chu Dịch.
Như vậy danh từ Dịch xuất hiện từ thời Văn Vương.
Và sau khi được Khổng Tử san định, sách Dịch được hoàn tất mỹ mãn, trở thành Kinh Dịch trong ngũ kinh.
Khổng Tử san định thành 12 thiên: 2 KINH (Thượng Kinh và Hạ Kinh) trình bày 64 quẻ, 10 TRUYỆN và THẬP DỰC. Tiếp nối với danh nghĩa tam giáo đồng lưu, bọn phương thuật vẽ biểu tượng của Dịch bằng năm vòng tròn đồng tâm:
Vòng trong cùng: Thái Cực (như hình Thái Cực mà trong thuyết là hình Lão Tử vẫn cầm khi cưỡi trâu).
Vòng nhì: Lưỡng Nghi (Âm nghi và Dương nghi).
Vòng ba: Tứ Tượng (Thái Âm, Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm).
Vòng bốn: Bát quái (Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tợn, Khảm, Cấn, Khôn),
Vòng năm: 64 quát.
Trên đây chúng ta đã thấy nguồn gốc, cơ cấu nội dung và cách sử dụng của Kinh dịch, một quyển sách mà từ xưa Trung Quốc coi là một quyển ''Thánh kinh”, nó có những công dụng huyền ảo và đa diện, có đến 16 môn học: truyện học, pháp học, chương cú học, đồ học, số học, sấm vĩ học, v.v. . . Các triều đại nối tiếp về sau, coi đây là cuốn sách ''triết lý động" của Đông phương và khai thủy lịch sử tư tưởng Trung Hoa.
Nhưng theo một số nhà nghiên cứu cho rằng toàn bộ Kinh dịch hình thành vào thời Xuân Thu Chiến quốc (770 đến 221 Tr.CN). Kinh hay Chữ Dịch gồm hai phần: Kinh và Truyện tức Kinh dịch và Dịch truyện.
Kinh dịch là quyển sách bói gồm có ba phần: Quái, Quái từ và Hào từ; Dịch truyện là một tác phẩm triết học gồm mười thiên gọi là Thập dực. Tư tưởng căn bản của dịch lý chứa đựng trong Bát quái là một thứ tư tưởng gốc ở kinh nghiệm, ở quan sát thực tế của người nguyên thủy từ các giai đoạn trước cho đến khi người la biết nuôi gia súc và ăn thức ăn chín.
Theo Trung Quốc Cổ đại xã hội nghiên cứu của Quách Mạt Nhược, ở thời Ân trong xã hội nô lệ từ trong cuộc vận động của lớp người mới là Chu tộc chống lại sự thống trị của chủ nô quý tộc, hình thành một tư tưởng mới phản đối tư tưởng thừa quyền của chủ nô đó là tư tưởng Bát quái, vốn là thứ quan điểm duy vật biện chứng nguyên thủy của con người Cổ đại.
Nhưng ý thức hệ vốn duy vật của tầng lớp bị trị không thể không chịu ảnh hưởng của ý thức hệ thống trị và mang màu sắc thần bí. Bọn chủ nô nhà Ân chiếm lấy nó, chế biến đi, dùng các quẻ để bói cho nên tư tưởng Bát quái của Dịch đã bị thần bí hóa.
Những Vương triều về sau để trị dân và cũng cố nền cai trị của mình, các vị Vua chúa dùng thêm một vũ khí tinh thần là Kinh dịch có nội dung Kinh dịch nhà Chu đã thay đổi và thêm vào nhiều vấn đề cả những truyền thuyết sau này nữa. Thế là Kinh Dịch bị biến đổi, xuyên tạc không còn như cũ nữa.
Có thể nói do tính chất phức tạp của Kinh dịch nên đến nay có nhiều sách chú giải, bàn về nó. Thời nhà Thanh, Vua Khang Hy đã cho tập hợp các sách nói về Kinh dịch từ đời Chu đến đời Thanh bổ sung vào Tứ Khố Toàn Thư được 158 bộ, gồm 1761 quyển có tên tác giả và phụ lục 8 bộ; 12 quyển nữa, không có tên tác giả. Nhưng tóm lại Kinh dịch không phải là cuốn sách ''thần bí'' như người ta đồn đại mà thực chất chỉ là quyển sách của nền triết lý cổ Trung Hoa có nhiều giá trị; song trong đó cũng có những phần siêu hình đã bị bọn phương thuật, vu nghiễn và bọn Vua chúa phong kiến khai thác, lợi dụng để mị dân cho dễ cai trị. Còn Hà Đồ, Lạc Thư là do óc con người sáng tạo ra cũng như phép Cửu trù, Hồng phạm và Ma phương chỉ là phép toán học đơn thuần tựa hồ như Ma trận (trong toán học cao cấp) mà ngày nay ta đã biết. Tuyệt nhiên, không có tính chất thần bí như người đời đã thần thoại hóa nó. Dưới đây chúng tôi xin trình bày kỹ hơn về vấn đề Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát quái.

