THUYẾT ÂM - DƯƠNG NGŨ HÀNH
TRONG TRIẾT HỌC ĐÔNG PHƯƠNG
Từ mấy nghìn năm trước đây, trong nền văn minh của nhiều nước Đông phương đã có một Vũ trụ quan rất tiến bộ. Họ đã quan niệm về Vũ trụ có hai cái không cùng: không gian và thời gian. Không gian là vô cùng, thời gian là vô tận. Họ cho rằng tồn tại trong không gian và thời gian ấy có hai “Khí”Âm - Dương tương hỗ giao hòa, đồng biến giao thác xoay vần cùng với thời gian và muôn vật từ đó mà ra. Nó biến hóa không cùng trong Vũ trụ.
Người Đông phương cũng còn cho rằng: thoạt đầu Vũ trụ là “Vô cực” sau đó là hỗn mang rồi đến thuở sơ khai là ''Thái cực”. “Thái cực” nhờ sự vận động rồi sinh “Lưỡng nghi” – Hai khí: Âm - Dương. Từ ''Lưỡng nghi" lại sinh ''Tứ tượng. Tứ tượng lại sinh ''Bát quái" - Tám hiện tượng lớn trong Vũ trụ: Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm sét), Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài (đầm: đồng cỏ trũng nước ứ đọng). Bát quái sinh ra “64 quẻ'' - Thể hiện sự thiên hình vạn trạng của vật chất trong Vũ trụ.
Như vậy Âm – Dương: hai khí luôn luôn vận động mà sinh ra vạn vật, Trong vạn vật lại có Âm – Dương cũng không ngừng vận động. Vạn vật tuy có khác nhau (chất sống và chất vô tri vô giác) tất thảy đều phát triển theo quy trình (trong thời gian dài - ngắn khác nhau): sinh - trưởng - suy - vong (tàn lụi) mà biến hóa không ngừng. Không có cái gì tự nhiên mất đi mà không để lại “dấu vết”, và cũng không có cái gì tự nhiên sinh ra từ ''hư vô" mà chúng chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Như vậy Âm - Dương đóng vai trò xoay vần, chuyển dời không bao giờ đứt đoạn. Nếu ''đứt" là ''vong", là “tận”; để rồi lại biến hóa, nảy sinh cái khác trong cái không cùng của Vũ trụ.
Âm - Dương - hai từ của một khái niệm biểu hiện hai yếu tố cùng tổn tại, độc lập, tương phản; nhưng lại hòa đồng, lồng vào nhau mà không triệt nhau để sinh biến. Âm - Dương không những dùng để biểu hiện trong Thể giới hữu hình (từ vi mô đến vĩ mô - Thế giới hạt cấu trúc của vật chất) mà nó còn biểu hiện trong cả Thế giới vô hình (Thế giới của tư duy, của tâm linh, cảm giác, tâm hồn v.v...). Chính vì thế, Âm - Dương có trong tất cả, từ các hiện tượng đến bản thể vật chất dù nó có trong tri giác hay không có trong tri giác.
Triết học Đông phương cũng quan niệm Trời là Dương, Đất là Âm; đàn ông là Dương, đàn bà là Âm. Trong cơ thể một con người thì bề mặt trước là Dương, mặt sau lưng là Âm, đối với đàn bà; đàn ông mặt trước là Âm, mặt sau lưng là Dương; đối với trái tim, máu đưa đi từ tim là Dương, máu từ các mao mạch chảy về tim là Âm. Như vậy trong Dương (chủ Dương) cũng có Âm và trong Âm (chủ Âm) cũng có Dương.
Trong lĩnh vực vô hình và hình sắc, sức khỏe của con người cũng biểu hiện sự tương sinh, tương phản của Âm và Dương.
Con người khỏe mạnh, hoạt bát, sinh khí, sinh lực dồi dào, da sắc tươi nhuần là sự biểu hiện của Âm - Dương cân bằng, hài hòa. Người ốm đau, mệt mỏi ủ ê, da dẻ tái mét, xanh xao hay vàng khè là biểu hiện sự mất cân bằng Âm - Dương. Đó là trạng thái Dương thác, Âm sai hay Dương thịnh, Âm suy hoặc ngược lại. Những người nào đó ưa trầm tĩnh, thư thái - người đó thiên về Âm tính. Nếu ngược lại cuồng dại, hung dữ không thể tự kiềm chế là sự mất cân bằng nghiêm trọng về Âm - Dương. Đó là Dương thái quá, quá cường lấn át Âm cũng là bệnh hoạn. Lấy lại sự cân bằng hoặc duy trì Âm – Dương là nguyên lý, nguyên tắc xuyên thấu ''Thiên - Địa – Nhân”. Âm - Dương là hai từ triết học cổ có nội hàm tính động và hàm súc thật vô bờ bến.
Như vậy sự thành của Dương là sự hủy hoại của Âm và ngược lại sự thành của Âm là sự hủy của Dương.
Âm Dương tương giao, tương thành
Âm Dương tuy tương phản, trái ngược nhau đấy nhưng không tương khắc như nước với lửa, mà tương giao, tương thôi, tương thế - gặp nhau, xô đẩy nhau, thay thế nhau - như ánh sáng và bóng tối, như nóng và lạnh, như Mặt trời qua thì Mặt trăng lại, mặt trăng qua thì Mặt trời lại; Mặt trời, Mặt trăng cảm ứng nhau mà ánh sáng phát ra; mùa lạnh qua thì mùa nóng lại, mùa nóng qua thì mùa lạnh tới; lạnh, nóng, cảm ứng nhau xô đẩy nhau mà thành ra năm, tháng. Cái đã qua co rút lại, cái sắp tới duỗi ra, co rút (khuất), duỗi dài (thân), hai cái đó cảm ứng nhau mà ích lợi mới nảy ra. Đúng như trong Kinh Dịch đã nói: ''Nhật vãng tắc nguyệt lai, nhật nguyệt tương thôi nhi minh sinh yên; hàn vãng tắc thử lai, thử vãng tắc hàn lai, hàn thử tương thôi nhi thế thành yên; vãng giả khất dã, lai giả thân dã, khuất thân tương cảm nhi lợi sinh yên.”
Bởi vậy người ta nói Âm, Dương tương giao, tương thôi (hơn là tương phản); và thay phiên nhau, theo một nhịp điệu nào đó, dài ngắn tùy hiện tượng, tùy thời, nhưng cứ cái này lên thì cái kia xuống, cái này xuống thì cái kia lên, mỗi cái làm chủ trong một thời rồi lại nhường chỗ cho nhau.
Không những vậy, Âm, Dương còn thường thành nữa. Chúng tương thành vì chúng bổ túc nhau: ngày sáng để vạn vật sinh hoạt; đêm tối để vạn vật nghỉ ngơi; Hè nóng để vạn vật phát triển; Đông lạnh để vạn vật gom lại sức thu tàng ẩn náu. Tương thành vì còn một lẽ nữa: nếu cái nọ diệt cái kia thì không còn cái nào cả. Không còn Âm thì cũng không còn Dương, không còn Dương thì làm sao có Âm và Vũ trụ, vạn vật cũng không có. Quan niệm tương phản mà tương thành đó là quan niệm phổ biến của Trung Hoa thời xưa, như Trương Kỳ Quân nói: “Các bậc thánh triết Trung Quốc thời xưa cho rằng bất kỳ sự vật gì cũng là một thể mà hai mặt; chỉ là biến hóa tương đối chứ không phân lập tuyệt đối; tương phản mà tương thành chứ không mâu thuẫn đấu tranh.”
(Trung Quốc Cổ đại thánh triết dĩ vi nhiệm hà sự vật quân thuộc nhất thế ch lưỡng diện, thị tương đối đích biến hóa, phi tuyệt đối đích phân lập; tương phản thành, bất thị mâu thuẫn đấu tranh đích liễu.)
Tương phản mà tương thành nghĩa cũng như câu: ''đồng quy nhi thù đồ'' trong Hệ từ hạ Kinh Dịch nói: ''Tuy đường lối khác nhau nhưng đều đưa tới một nơi, một mục đích cả. Nắng, mưa trái nhau, nhưng đều giúp cho cây cỏ tươi tốt, nóng, lạnh trái nhau nhưng phải có Đông có Hạ mới đủ bốn mùa”.
Trương Kỳ Quân cho rằng, thuyết tương phản mà tương thành của Dịch mới xét tựa như biện chứng pháp của Hegel; nhưng thực ra, nghịch hẳn nhau vì một bên phản để tương thành một bên phản để chống đối nhau (phản giả dĩ tương bội), tương diệt, tự diệt vì theo Hegel: (chính) Thèse (phản) antithèse phản nhau để sau cùng hòa thành Synthèse (hợp). Như vậy thành không còn, phản cũng không còn; còn theo Dịch thì Âm, Dương tuy phản nhau mà giao nhau, thay thế nhau để rốt cuộc cũng vẫn trở lại trạng thái cũ, chỉ thay phiên nhau tác động trong một thời gian để Vũ trụ được điều hòa, vạn vật sinh trưởng thôi.
Âm – Dương tương cầu, tương ứng
Âm – Dương còn một tính cách nữa là tương cầu, tương ứng.
Có tương cầu, tương ứng thì mới gặp nhau, giao nhau mà sinh ra vạn vật (Nhị khí giao cảm, hóa sinh vạn vật - Chu Liêm Khê).
Trong Vũ trụ không loài nào không theo luật đó. Kinh Dịch diễn luật đó bằng sự tương quan giữa các cặp hào 1 - 4, 2 - 5, 3 - 6. Khi Âm - Dương tương ứng thì Dương xướng mà Âm họa, hợp tác lại với nhau như quẻ Càn và quẻ Khôn. Càn cương kiện, Khôn thu thuận. Càn tạo ra vạn vật ở vô hình, thuộc về phần khí; nhưng phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu hình, mới sinh trưởng, cho nên công của Khôn cũng lớn thư công của Càn; chỉ khác Khôn có đức thuận, tùy theo Càn, bể bác cho Càn mà tiếp tục công việc của Càn, còn khởi xướng thì phải là Càn. Đó là quan niệm chung của các dân tộc ở thời đại nông nghiệp, theo chế độ phụ quyền.
Tóm lại Âm - Dương tuy tính chất tương phản nhưng cũng tương ứng, tương cầu (tìm nhau), tương giao (gặp nhau); có tương giao mới tương thôi (xô đẩy nhau), tương ma (cọ xát nhau), tương thế (thay thế, bổ túc nhau) để tương thành (giúp nhau tự hoàn thành: có cái này thì mới có cái kia, có cái này thì cái kia mới làm tròn được nhiệm vụ của nó trong Vũ trụ).
Quan trọng nhất là sự tương giao: giống đực, giống cái; cả trời, đất nữa (vì trời, đất cũng chỉ là Âm Dương) có giao cảm với nhau rồi mới có vạn vật, Vạn vật mới sinh nở biến hóa được…
Ý nghĩa của ngũ hành trong đời sống và sự tồn tại vật chất
Người xưa quan niệm trong Trời - Đất (Vũ trụ) có năm chất căn bản? Mộc (gỗ, cây cỏ); Hỏa (lửa, hơi nóng, ánh sáng); Thổ (đất, đá, các khoáng vật, trừ kim loại); Thủy (nước, chất lỏng, hơi nước . . .).
Theo sách cổ học Trung Hoa Kinh Dịch có nói Phục Hy đẽ tìm thấy “vật chất” cấu tạo nên vũ trụ là Hành Thủy. Và sách Hà Đồ - Lạc Thư có ghi số sinh, số thành ấy như sau:
Thiên nhất sinh Thủy
Đia lục thành chi
Địa nhị sinh Hỏa
Thiên thất thành chi
Thiên tam sinh Mộc
Địa bát thành chi
Địa tứ sinh Kim
Thiên cửu thành chi
Thiên ngũ sinh Thổ
Địa thập thành chi
Trời là Dương – Đất là Âm
Theo đó họ cho rằng, cứ hai hành kế tiếp nhau thì sinh (hợp) - gọi là tương sinh; còn đứng cách nhau một hành thì sinh khắc và họ đã minh họa thành sơ đồ biểu lý như sau:
Người xưa đã chỉ ra, đã nói Ngũ hành có những hành:
Tương sinh với nhau như là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. (Đi theo vòng tròn là tương sinh).
* Các hành tương khắc: Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa (các đường thẳng theo mũi tên hình sao là tương khắc).

Nhưng một điều kỳ lạ thay: việc quan niệm của người Đông phương xưa lại có một sự trùng hợp với sự kết luận của một số nhà bác học Châu Âu sau này. Nhà bác học Nicolas Copernic khẳng định và tìm thấy nguyên tổ đầu tiên trong Vũ trụ là H2O cũng thuộc hành Thủy. Và tiếp đó mới đến hành Hỏa, hành mộc, hành Kim, hành Thổ. Điều này cũng giải thích cắt nghĩa vì sao nói có 6 cục mà thực tế chỉ có 5 cục tương ứng với Ngũ hành. Nó được mở đầu bằng Thủy nhị cục, vì có Thủy thì mới có sự sống trên Trát đất. Phải có hai nguyên tố Ôxy và Hydrô kết hợp với nhau mới tạo ra được ra nước. Do vậy mở đầu phải là Thủy nhị cục chứ không có nhất cục. Rồi tiếp theo là Mộc tam cục, Kim tứ cục, Thổ ngũ cục, (Thổ là Trung ương), Hỏa lục cục. Theo một sơ đồ trật tự Thủy nhị cục => Mộc tam cục => Hỏa lục cục => Thổ ngũ cục =>kim tứ cục.
Ngũ hành là bản thể của Âm - Dương, nó cũng là sự tồn tại của các dạng vật chất. Khi vật chất bị bốc cháy thành hơi bay vào bầu trời thành, các ion trong điện trường đó chính là Dương. Các ion ấy kết tụ thành các nguyên tố hoá học trong bảng tuần hoàn của Međêlêev như đồng, chì, sắt . . . và các dạng vật chất khác tồn tại ở Trái đất là Âm. Ngũ hành có ở trong bầu trời thì cũng có ở Trái đất. Chẳng hạn:
Hành Thủy ở bầu trời là Hyđrô, ở Trái đất là nước.
Hành Hỏa ở bầu trời là ánh sáng, nhiệt độ (nắng) thì ở Trái đất là lửa.
Hành Mộc ở bầu trời là Clo thì ở Trái đất là cây cối.
Hành Kim ở bầu trời là Mêtan thì ở Trái đất là kim loại.
Hành Thổ ở bầu trời là độ ẩm thì ở Trái đất là ẩm thấp, đất đá, sa khoáng các loại (trừ kim loại).
Ý nghĩa của Ngũ hành cũng được thể hiện trong nhiều lĩnh vực khác. Ví thể như thời tiết có 5 loại:
* Táo, phong, hàn, nhiệt, thấp.
* Các chất ăn uống có 5 vị: cay, chua, mặn, đắng, ngọt.
* Màu sắc có 5 màu cơ bản: trắng, đen, xanh, đỏ vàng.
* Nhạc có 5 âm: thương, giốc, vũ, chảy, cung.
* Phương hướng có 5: Tây, Đông, Bắc, Nam, Trung ương.
* Cơ thể con người có 5 tạng: Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận.
* Ngũ hành trong 4 mùa:
Mùa Xuân (Thang Giêng, Hai) thuộc Mộc.
Mùa Hạ (tháng Tư, Năm) thuộc Hỏa.
Mùa Thu (Tháng Bảy, Tám) thuộc Kim.
Mùa Đông (Tháng Mười, Mười Một) thuộc Thủy.
Các tháng Ba, Sáu, Chín, Chạp thuộc Thổ. Thổ có vai trò hết sức đặc biệt trong cả 4 mùa. Nó là chỗ dựa cho các hành của 4 mùa - gọi là Tứ Quý. Từ trên ta có bảng tổng quát về Ngũ hành như sau:
Ngũ hành | Ngũ phương | Ngũ tạng | Ngũ khí | Ngũ sắc | Ngũ âm | Bốn mùa |
Kim | Tây và Tây Bắc | Phế | Táo | Trắng | Thương | Mùa Thu |
Mộc | Đông và Đông Nam | Can | Phong | Xanh | Giốc | Mùa xuân |
Thủy | Bắc | Thận | Hàn | Đen | Vũ | Mùa Đông |
Hỏa | Nam | Tâm | Nhiệt | Đỏ | Chủy | Mùa hạ |
Thổ | Trung ương (Đông Bắc và Tây Nam) | Tỳ | Thấp | Vàng | Cung | Tháng 3 6-9-12 |
Vì vậy, nghiên cứu về triết lý Âm - Dương- Ngũ hành ta thấy còn nhiều điều mới mẻ kỳ diệu. Nó chưa phải dừng lại ở những dòng sơ giản trên đây. Nó sẽ còn và mãi mãi là đề tài sôi động trong nghiên cứu cấu trúc vật chất và bản ngã của con người ở Thế kỷ XXI.
Qua nghiên cứu về học thuyết Âm - Dương – Ngũ hành ta thấy: người xưa đã sớm nhận thức được sự tương đồng giữa Vũ trụ và con người. Con người là sản phẩm của Vũ trụ. Vì thế mà đồng chất, đồng biến; đó là tính lý của ''Thiên Nhân tương ứng, Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể'' mà con người không thể đứng ngoài. Đó là lẽ của người xưa.
Ngày nay, con người đã bay vào Vũ trụ - ''nơi yên tĩnh của Thượng đế”, trong ý niệm thiêng liêng của người xưa. Con người đã tiếp cận được chân lý nhiều hơn so với người xưa. Song cũng xác nhận được rằng:
Con người và Vũ trụ có quan hệ mật thiết với nhau. Nhịp điệu và hơi thở của Trái đất được duy trì từ nhịp điệu và năng lượng của Vũ trụ. Mọi biến cố Vũ trụ, đặc biệt vùng Vũ trụ gần Mặt trăng, Mặt trời đều tác động dường như tức khắc tới mọi sinh vật trên Hành tinh này. Điều ấy đã ảnh hưởng tới cả những lớp địa tầng, những khối vật chất nằm sâu trong lòng đất và gây ra những trận động đất, núi lửa, sóng thần, bão tố thật là khủng khiếp. Nhiều bộ môn khoa học mới của thời đại như: Nhịp sinh học, Địa Vũ trụ, Chiều sinh học, Môi trường sinh thái, Địa từ trường v. v. . . đã lần lượt ra đời.
Khoa học của Thế kỷ XXI sẽ phát triển theo hai hướng cơ bản:
- Đi vào Vũ trụ để hiểu con người.
- Đi vào nghiên cứu con người (đặc biệt bộ não), vào lòng đất và đại dương bao la để hiểu Vũ trụ.
Âm - Dương trong môi trường sinh thái và cấu trúc vật chất
Người xưa đã Âm - Dương hóa tất cả những biểu hiện của hiện tượng, hình thể, trạng thái, trọng lượng, màu sắc . . . theo các tiêu chuẩn sau đây:
* Về phương diện vật lý, thứ gì nhẹ (hơi), lỏng, nhão, mềm, chứa nhiều nước là Âm; còn trái lại là Dương (dù các điều kiện khác giống nhau).
* Về trường lực: những lực hướng tâm (đi vào, đi xuống, chìm xuống ''nặng'' ),… là Dương, những lực ly tâm (''nhẹ'', bay lên , bốc lên, thoát ra, mở rộng, bành trướng . . . ) là Âm.
* Trọng lượng: Vật thể nào càng nặng, càng chịu ảnh hưởng của lực Dương (lực hướng tâm , hướng nội); vật có xu thế rơi xuống, chìm xuống lặn vào trung tâm, thì vật đó là Dương tính. Trong vật lý hiện đại đó là hạt nhân nguyên tử - điện tích Dương (prôtôn). Ngược lại, vật càng nhẹ, càng có xu hướng thoát ra, thăng lên, nở ra thì càng chịu các lực Âm (lực ly tâm). Vật đó là Âm tính. Điều này là tương đồng với tri thức về vật lý hiện đại: Hạt nhân nguyên tử có điện tích Dương, những electron có điện tích Âm luôn ở trạng thái cân bằng và quay quanh hạt nhân - tất nhiên đang nói ở điều kiện bình thường.
* Về phương diện hóa học, mọi hợp chất chứa nhiều H, C, Li, As, Na. . . thì Dương hơn những hợp chất gồm ít và chứa những chất như K, S, P, N . . .
Như vậy, thuyết Âm - Dương thừa nhận Âm - Dương luôn tồn tại trong mọi vật chất. ''Vạn vật đều cõng Âm và ôm Dương'' (Lão Tử) điều hòa bằng ''khí trùng hư” (mà tính vật lý hiện đại đã phát hiện và mang tính tương đối, có tính biến hóa. Không có vật gì tuyệt đối Âm, cũng không có vật gì tuyệt đối Dương, ví thể như Trái đất là Âm so với Mặt trời, nhưng sẽ là Dương so với Mặt trăng.
* Về hình thể: Âm - Dương phân chia như sau: những hình thể dài theo chiều thẳng đứng là Âm; cũng với hình thể ấy theo phương nằm ngang là Dương. Dưới đây là một số hình thể điển hình nhưng tư thế tương phản theo quy luật Âm - Dương.

- Các hình thể có phương thẳng đứng, lực ly tâm có ưu thế, vậy là Âm tính. Các hình có phương nằm ngang, lực hướng tâm có ưu thế, vậy là Dương tính.
* Màu sắc: như trên đã nói Âm - Dương phân loại màu sắc theo nguyên tắc: màu nào cho ta cảm giác “nóng” ấm áp hơn là Dương; màu nào mát, lạnh hơn là Âm. Đó là 2 trạng thái cực đoan của Dương - Âm. Các màu sắc khác nằm giữa hai cực đoan đó sẽ là: da cam, vàng, lục, xanh, chàm là sự chuyển hóa dẫn từ Dương sang Âm.
* Mùi vị: mùi vị cũng được phân loại Âm - Dương. Theo thứ tự từ Âm tới Dương: chua, ngọt, mặn, đắng, cay. Như vậy vị chua là cực Âm, vị cay là cực Dương. Cay cho ta cảm giác nóng, làm tăng sự tuần hoàn của máu; vị chua cho ta cảm giác thanh, nhẹ, mát. Cả hai vị này hòa hợp trong một món ăn (chẳng hạn như nước chấm) tạo nên sự trung hòa, kích thích dịch vị rất mạnh, do có Âm - Dương giao hòa tương xứng.
Tất nhiên, các mùi vị trên phải là của tự nhiên trong vạn vật cấu thành (không do con người tổng hợp theo phương pháp nhân tạo).
* Âm - Dương theo vùng sinh thái, địa lý: những sinh vật, thảo mộc nào dễ sinh sản, dễ mọc ở những vùng (miền, xứ) lạnh (ôn đới) thì Dương so với những sinh vật, thảo mộc thích hợp với vùng (miền, xứ) nóng (nhiệt đới).
Những dân tộc ở các vùng và miền xứ lạnh được ăn nhiều thức ăn Dương hơn nên thường hiếu động, ồn ã, tính cách bộc lộ rõ rệt, hành động bột phát, ưa sức mạnh... Ngược lại, những con người ở vùng (miền, xứ) nóng thường ăn nhiều thức ăn Âm hơn, nên về phương diện trí tuệ, thẩm mỹ, tâm linh có phần sâu lắng, trầm tĩnh, lắng đọng hơn so với dân tộc xứ lạnh. Lịch sử nhân loại đã cho thấy: sự phát triển về tư duy trừu tượng, cũng như lĩnh vực tâm linh, dự cảm khả năng vận dụng điều khiển nội lực, trí năng thì phương Đông có phần phát triển sớm và sâu hơn, đi xa hơn phương Tây từ hàng nghìn năm trước. Nhưng tại sao phương Tây lại ''có thiên bẩm”, đã đi trước phương Đ về cơ khí, điện khí?...
Những sinh vật Âm không thuận ứng dễ dàng với khí hậu Âm (xứ lạnh, thiếu ánh Mặt trôi) cũng là điều dễ thấy, theo định luật điện tích cùng dấu “đẩy nhau'', (không kết hợp); còn trong Âm - Dương dịch lý cũng vậy, Âm không tương hợp với Âm, không có tác dụng kích vận…
Từ những sự phân biệt điển hình đặc trưng về các phương diện lý, hóa, hình thể . . . sẽ giúp cho độc giả dễ dàng nhận ra, phân loại được tính Âm hay tính Dương của vạn vật cũng như trạng thái, tính cách con người cụ thể.
Ta cũng thấy mối quan hệ ''tương sinh”, ''tương đồng”; “tương hòa” và ''tương khắc" của Âm – Dương đối với vạn vật. Như trên đã nói, đàn bà (Âm) thì có “noán tử” đàn ông (Dương) lại có ''tinh trùng" (Âm) để tạo sinh hậu thế.
Có thể nói Âm - Dương xuyên suốt Vũ trụ, trùng điệp ở vạn vật, trong tinh thần, khắp mọi lĩnh vực, mà giác quan và ''siêu giác quan'' - giác quan thứ sáu của con người có thể cảm giác được, tâm linh có thể cảm nhận được; tuy nhiên nó còn là những lĩnh vực bí ẩn với khoa học ngày nay! Cũng từ nơi đó con người thực sự là một sản phẩm siêu phàm của tạo hóa, còn ẩn tàng bao điều kỳ diệu và vô tận.
Con người còn chưa khai thác hết cái bản năng siêu phàm của nội lực, nội khí vốn vẫn tàng ẩn trong cõi sâu thẳm, mênh mang tới vô tận trong chính bản thân con người. Con người cũng là một Vũ trụ không có giới hạn. Xin đừng quên đi điều đó!
Âm – Dương trong hình thể và tính cách con người
Thuyết Âm - Dương (về mặt tượng hình) cho rằng, có thể căn cứ vào: vẻ mặt, vóc dáng, giọng nói, dáng điệu, cử chỉ. . . của con người mà xác định được tính (Âm, Dương) của nó. . .
Đó là nói về giới tính. Nếu nói về phương diện tinh thần, tư tưởng thì lại khác. Đặc biệt, y lý Đông phương căn cứ theo tạng, phủ và ảnh hưởng của nó phát tiết ra ngoài... để xác định người Âm tạng và người dương tạng một cách rất logic.
Người Dương tạng: đại thể khí chất huyết tính, thân thể vạm vỡ ''chắc nịch" không sợ rét, da nóng, sắc diện tươi tắn, màu da sẫm, tròng đen mắt nằm thấp, tóc rậm và đen, phổi tốt, hơi thở mạnh, giọng nói to “âm vang có sắc khí”, tráng Dương, ham chuyện sắc dục, tiểu tiển lợi, đại tiện thường táo, tỳ vị tốt, ăn gì cũng tiêu nhưng không hợp các thức ăn táo - nhiệt, tâm tán, kích thích. Những người này thường sống lâu nhưng lại hay chết về các bệnh thuộc tim và mạch máu, gan, thận, tỳ.
Người âm tạng: thông thường khí chất lãnh đạm, dễ cảm nhận lạnh, sợ rét, da mát và hơi ướt, sắc mặt xanh, màu da trắng, tròng đen mắt hướng lên cao, tóc dịu, lông ít, hay rụng tóc, thịt mềm, hầu lộ huyết mạch yếu, Dương sự kém, chóng mệt trong sự giao hợp, hay bị di tinh, phổi yếu, giọng nói nhỏ, hay tịt mũi, tỳ vị kém, đại tiện phân sền sệt, dễ bị bệnh đường ruột, dễ bị đi tả, đầy bụng, không chịu được các thức ăn hàn (lạnh) và các món ứ trệ khó tiêu. Những người này, thường tuổi thọ không cao so với người Dương tạng, hay chết vì các bệnh thuộc về phổi, dạ dày, ruột, mật, bọng đái (bàng quang).
Còn có loại người bình tạng - không thiên về âm tạng cũng không thiên về dương tạng; thực chất, đây là loại người có sự phối kết âm dương cân bằng (âm - dương tương đồng), Phối kết được cả yếu tố âm và yếu tố dương. Tất nhiên đây là loại người lý tưởng, ta cần rèn luyện để đạt tới.
Theo Đông y, những bệnh do dương suy thường có những triệu chứng sau đây: tay chân lạnh, mồ hôi hạt trên trán, thở khó, hơi thở ra dài, hít vào ngắn, nấc cụt, hôn mê, "tiểu tiện bất cấm”.
Những bệnh do âm hư lại có những triệu chứng sau đây: sốt nặng, sắc mặt hồng hoạt, cơ thể suy nhược, gầy còm, da thịt khô héo, tiêu khát, táo bón, mất ngủ, nói mê sảng, có sự kích thích quá độ về nhục dục (trong trường hợp hư lao chẳng hạn).
Nếu bị cả âm hư, dương thoái thì ngoài các triệu chứng trên còn bị trí não ám độc, lú lẫn.
Người dương thịnh (nhiệt), thường thích ứng với mùa Thu - Đông, ít thích ứng với Xuân - Hạ, ưa lạnh mát, ghét nóng.
Người âm thịnh (hàn), thích ứng với Xuân - Hạ mà kém thích ứng với Thu - Đông; ưa nắng, khô: ghét mưa, ẩm. Khí trời thay đổi thì thể chất mỗi người cũng có phản ứng khác nhau.
Năm nào mưa nhiều, thì bệnh trong chúng sinh phần nhiều do thấp (phong thấp) phải dùng loại thuốc cay, đắng, ấm như thương truật, bạch truật kèm với thuốc phong để trị; không được dùng thuốc trái với thời tiết (vật phát thiên hòa) như: mùa Xuân - Hạ tránh dùng vị ma hoàng, quế chi. Mùa Thu - Đông tránh dùng vi thạch cao, trí mẫu, hoàng cầm, hoàng liên, thược dược ... Tuy nhiên, có trường hợp vẫn phát bỏ qua thời tiết mà theo chứng bệnh cụ thể để gia giảm thêm.
Nguyên nhân người này thuộc Âm, người kia thuộc Dương là do hai yếu tố:
* Về tiên thiên: do di truyền hấp thụ của cha mẹ, do cách ăn cách uống của bà mẹ trong quá trình mang thai (ảnh hưởng của thai giáo).
* Về hậu thiên: do cách bú mớm, ăn uống, hoàn cảnh sinh hoạt hàng ngày trong gia đình, khí hậu, tình cảm bên trong ...
Rèn luyện cải biến:
Người Dương tính cũng như Âm tính đều không hoàn toàn tốt, hay hoàn xấu. Sự xấu tốt còn phụ thuộc vào chế độ ăn uống, bồi bổ, sinh hoạt, rèn luyện và tập quán, môi trường, khí hậu . . . trong quá trình sinh trưởng và làm việc.
Người Dương tạng nếu ỷ vào bẩm sinh được khỏe mạnh mà phung phí sức khỏe, hao tán sinh khí, ăn uống bừa bãi, sống buông thả . . . . ''tửu sắc vô độ”, ăn uống bê tha; làm sao không mắc bệnh, suy yếu và chết non yểu. Còn người Âm tạng, ý thức được mình, ăn uống, rèn luyện, giữ đúng quân bình Âm - Dương; lại làm theo các điều khuyên bảo quí báu sau đây của Thái - Ất Chí Nhân, thì thân thể sẽ luôn khang kiện, cường tráng nội lực sung mãn, tâm trí và sống thảnh thơi thì dù ''tiên thiên bất túc'' vẫn được trường sinh vô bệnh như thường. Dưới đây là bảy điều khuyên của Thái - Ất Chí Nhân:
1. Ít nói năng để dưỡng nội khí;
2. Kiêng sắc dục để dưỡng tinh khí;
3. Đừng nhổ nước bọt để dưỡng tang khí;
4. Bớt thức ăn quá kích thích hoặc khó tiêu để dưỡng huyết khí;
5. Chớ giận hờn để dưỡng can khí;
6. Ăn uống chớ quá độ để dưỡng vị khí;
7. Ít lo nghĩ để dưỡng tâm khí.
NGUYỄN HOÀNG ĐIỆP
VŨ TRỌNG HÙNG