LÃO TỬ VỚI ĐẠO ĐỨC KINH
Cùng với Kinh dịch, Lão Tử đã để lại cho nhân loại một tác phẩm cũng không kém phần vô giá là Đạo đức Kinh.
Theo sách Sử Ký của nhà sử học Trung Quốc Tư Ma Thiên thì Lão Tử sinh ở Khổ Huyện nước Sở, phía Đông Hà Nam Trung Quốc, họ Lý tên Nhĩ, tự là Bá Dương, thụy là Đam làm quan giữ kho sách cho nước Chu. Thấy thế nước này suy, ông bỏ đi về phía Tây. Khi qua khỏi biên giới thì theo sự thỉnh cầu của quan Doãn Hy mà viết sách Thương Hạ Thiên hơn năm nghìn lời nói về ý nghĩa của đạo đức.
Tư Mã Thiên còn chép một thuyết được lưu hành lúc bấy giờ là: ''Dường như Lão Tử còn sống hơn 160 tuổi, có người nói hơn 200 tuổi”.
Theo Sử ký ghi thì niên đại và sự hoạt động của Lão Tử hơn năm nghìn lời nói về ý nghĩa của đạo đức vào khoảng Thế kỷ VI và Thế kỷ V Tr. CN. Nhà nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc Quách Mạt Nhược trong cuốn Thanh Đông Thời Đại viết:
''Từ thời Tần (221-206 Tr. CN) trở về trước, không ai hoài nghi chuyện Lão Tử tên là Đam đã từng làm thầy Khổng Tử. Trước đời Tần, người ta đều cho quyển Đạo Đức Kinh được viết ra sau khi Lão Tử đã chết, là do học trò Lão Tử ghi chép lại những lời nói của Lão Tử. Từ thời Tần trở về sau mới có sự nghi vấn vì người sau lại cho tác phẩm Đạo Đức Kinh là do Lão Tử viết ra mà trong sách đó thì rõ ràng có nhiều dấu vết của thời đại Chiến Quốc''.
Theo Quách Mạt Nhược, truyền thuyết nói Lão Tử đi về phía Tây xuất hiện từ đời Hán cùng với huyền thoại Lão Tử sống trên 160 tuổi là có ý nêu chính Lão Tử viết quyển Đạo Đức Kinh.
Bằng những dẫn chứng và phân tích khác, nhà nghiên cứu khẳng định: ''Quyển Đạo Đức Kinh là do học trò của Lão Tử là Hoàn Uyên sinh vào giữa Thế kỷ IV Tr. CN, đồng thời với Mạnh Tử. Hoàn Uyên dùng lời lẽ của mình để thuật lại tư tưởng của Lão Tử, do đó đã làm cho tác phẩm ấy nhuốm nhiều màu sắc thời đại của Hoàn Uyên”.
Sự việc là như thế, nhưng một số người hành nghề dị đoan đã dựng lên nhiều chuyện kỳ quặc thánh thần về Lão Tử. Họ kể lại rằng mẹ của Lão Tử mang thai ông 80 năm đến khi ông ra đời tóc và lông mày đã bạc trắng cả. Họ cũng nêu Lão Tử là người không bình thường, ông cưỡi trâu đen hoặc hươu, hai tay cầm hình Thái cực. Đó là hình ảnh người siêu phàm, hiểu ma thuật một cách sâu sắc.
Về nội dung cơ bản của quyển Đạo Đức Kinh thì tuyệt đại đa số học giả Trung Quốc đều nhất trí nhận rằng: “Đạo” là quy luật tự nhiên của giới tự nhiên. Nó không hề bao gồm bản chất hữu thần. Quách Mạt Nhược đã vạch ra rằng: ''Sự phát minh lớn nhất của Lão Tử là đã vứt bỏ hẳn quan niệm lúc bấy giờ cho rằng ''trời'' có ý chí, là vi chúa tể nhân gian”.
Nhưng Đạo Đức Kinh của Lão Tử đã cường điệu thái quá cái trừu tượng mà xem nhẹ cái cụ thể, có khuynh hướng tách rời qui luật (đạo) với cơ sở vật chất của nó.
Tư tưởng cơ bản của Đạo Đức Kinh là thế giới hiện thực và đời sống con người tuân theo cái ''đạo'' tự nhiên nhất định. Chữ ''đạo'' đó xét theo kết cấu văn tự gồm hai chữ (thủ và xước) hai chữ đó hợp lại thành khái niệm về ''đường đi”. Theo sách xưa Tả Truyện thì chữ Đạo có nghĩa là ''thông'' còn sách Lễ Ký thì chữ đạo đồng nghĩa với chữ ''do'' và chữ ''tòng”. Thật ra, hàm nghĩa của chữ “đạo” không phải chỉ dùng để chỉ “đường đi” mà còn để chỉ đường lối, lẽ sống cho con người cần phải theo. Theo Lão Tử trình bày về Đạo là một điều rất trừu tượng.''Xem không thấy, cho nên gọi nó là vật không trông thấy, nghe không thấu... muốn sờ mó mà nó lại là vật không tiếp xúc được, cho nên gọi nó là rất nhỏ'' (chương 14). Ông nêu tiếp : ''Đạo ở trong thiên hạ, cũng như nước trong khe suối chảy ra sông biển'' (chương 32). ''Đạo là nguồn gốc sâu xa của vạn vật” (chương 62).
Lão Tử còn cho rằng con người là bị động. Con người bất lực không thể cải biến được Thế giới. ''Đạo thường là vô vị, đồng thời tạo ra tất cả mọi sự vật, nếu bậc hầu vương có thể giữ được đạo thì vạn vật sẽ tự biến hóa '' (chương 37)
Xuất phát từ chủ nghĩa duy tâm cực đoan và chủ nghĩa thần bí, các nhà triết học Nho gia đã mưu toan dùng khái niệm “đạo” làm cơ sở cho siêu hình học và tuân lý học của họ. Trong sách Trung Dung vào Thế kỷ III Tr. CN đã thừa nhận “đạo” là quy luật phổ biến trên Thế giới, tác giả của Nho gia đã biến Đạo thành nguồn gốc tinh thần tức là cái gọi là Thánh.
Vào Thế kỷ II Tr. CN nhà thần bí chủ nghĩa của Nho gia là Đổng Trọng Thư đã đem chung hợp ''đạo" với ''ý chí của trời. Vào thời Trung cổ, các nhà đạo học do Chu Hy đứng đầu đã lợi dụng đạo mà dựng nên một hệ thống triết học hoàn chỉnh về lý học của chủ nghĩa duy tâm. Một nhà triết học Nho gia khác là Vương Dương Minh (1472-1528) đã mưu toan biến đạo thành nguyên tắc của chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Các nhà thần bí chủ nghĩa tôn Lão Tử là người sáng lập ra tôn giáo mới. Họ bịa đặt rất nhiều chuyện thần thoại về Lão Tử và học thuyết của ông.
Nhà Hán học Nga N. Bitrurin (1777-1853) đã nhận xét: Học thuyết Lão Tử là lý luận về luân lý, là triết học của Lão Tử, nó không giống với bất cứ tôn giáo nào, các nhà thần bí chủ nghĩa mạo xưng là thừa kế Lão Tử, đã xuyên tạc tư tưởng Lão Tử, tự đặt ra nguyên lý của mình và lập nên tôn giáo”.
Cùng với Đạo Lão, Đạo Phật, Đạo Khổng cũng ngày càng được truyền bá rộng ở Trung Quốc. Cạnh tranh với hai Đạo này, Đạo Lão đã dùng nhiều hình thức thần bí. Những người truyền bá Đạo Lão nói họ có thể : ''Xua đuổi ma, quỷ, luyện tiên đan, nước thường sinh và tiến hành độn, bói”. Những người kế tục tìm cách phối hợp Đạo Lão và Đạo Khổng với nhau. Vua Chúa thấy đây là một công cụ tốt để dễ bề thống trị quần chúng nên đến năm 141 (SCN) Đạo Lão đã dần trở thành Quốc giáo. Các việc làm cúng tế, bói toán ngày càng mô rộng.
Song một điều ta thấy rằng ở Đạo Lão do nội dung tư tưởng của Lão Tử đã bị hậu thế biến đổi, những việc làm mê tín, dị đoan của Đạo đã biến đổi này, được giới thống trị phong kiến Trung Hoa du nhập sang Việt Nam thành nhiều hình thức thần bí kỳ dị.
N.H.Đ