Tài liệu: Phép bốc phệ

Tài liệu
Phép bốc phệ

Nội dung

PHÉP BỐC PHỆ

 

Phép bốc phệ được các thày bói dùng ở nước ta đại thể có ba loại như sau:

Thi bốc hay bói cỏ thi.

Các thày bói lấy một bộ gồm 50 cọng cỏ thi cắt đều bằng nhau hay 50 chiếc que dài, mỗi cái chừng 3 - 4 phân đặt lên bàn. Sau đó, họ theo phép tắc nhất định mà lật số cọng cỏ ấy xem hợp với hào nào. Họ làm ba lần đếm như thế mới thành một hào rồi trộn lại với nhau. Đếm 24 lần như vậy mới được 6 hào là một quẻ. Khi thành quẻ, họ xem hào nào động, tĩnh thế nào rồi dựa vào những lởi quái từ, hào từ là tương tự đã có sẵn trong Kinh Dịch để đoán cho đương sự. Phép bói này đã du nhập sang nước ta từ rất lâu.

Bói toán ra đời trong những hoàn cảnh khác nhau và có nhiều cách bói khác nhau. Bói theo chữ Hán từ chữ “Bốc” chuyển  nghĩ ra. Bói có nhiều cách. Ở Trung Quốc bói bằng mai rùa (thịnh hành ở đời Ân - Thương khoảng Thế kỷ XVII đến XI Tr. CN) gọi là “bốc” Cách bói bằng cỏ thì gọi là “phệ”, vậy bốc phệ có từ bao giờ?

Theo truyền thuyết thì bốc phệ khởi đầu từ thời Phục Hy.

Phép bói thứ 3 Mai hoa bốc hay còn gọi là bói chiết tự hoặc là Mai hoa dịch số của Thiệu Khang Tiết sẽ trình bày trong mục sau đây.

Kim tiền bốc hay bói gieo tiền.

Cách bói này là do Kinh Phòng đời Hán đặt ra. Về sau ông Dã Hạc lập lại thành các quẻ và làm kỹ hơn, bởi thế nên còn gọi là phép bói Dã Hạc. Theo cách bói này các thày bói thường dùng 3 đồng tiền để gieo quẻ. Nếu 3 đồng tiền ngửa cả gọi là trùng; 3 đồng tiền đều sấp gọi là giao, một sấp hai ngửa gọi là đơn; một ngửa hai sấp là sách. Mỗi lần gieo là 1 hào: Trùng Thái Dương, giao Thái Âm, đơn Thiếu Dương, sách Thiếu Âm. Gieo 6 lần thành một quẻ, rồi họ xem sự động tĩnh của các hào để đoán. Khi đoán họ dựa vào Ngũ hành tương sinh, tương khắc để xem Nhật thần (ngày), Nguyệt tướng (tháng) đối với đương sự sinh phù hay sinh khắc để giải đoán.

Song song với các kiểu bói trên, người ta còn sử dụng các kiểu bói như bói Kiều, bói bài Tây, bôi chén, bói trứng, bói mai rùa, xóc thẻ tre v. v...

Đặc biệt còn một kiểu bói nữa gọi là bói Ngũ hành. Bói Ngũ hành là dựa theo Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, thổ) tượng trưng bởi năm màu (hồng thuộc Hỏa, vàng thuộc Thổ, lam thuộc Mộc, trắng thuộc Kim và đen thuộc Thủy). Khi bói, dùng một tấm bản đồ có in năm màu chia thành năm ô đều nhau và năm đồng tiền hoặc năm miếng bìa (mỗi đồng tiền hoặc một miếng bìa mang màu sắc khác bốn miếng bìa kia). Sau khi thắp hương khấn vái người bói nhật đặt vào năm ô của bản đồ rồi xem đồng tiền có màu riêng nằm vào ô nào, để luận đoán về vận mệnh của mình. Có tất cả 125 quẻ, mỗi quẻ khác nhau và ứng với những sự kiện khác nhau.

ĐỘN GIÁP (A)

Độn Giáp là một học thuyết về Tiết Khí hoặc trong năm, hoặc trong Tam Nguyên (180 năm) xác định cái hung, cái cát của Tiết Khí đối với nhiều hoạt động của từng con người như dụng binh (Khổng Minh), tu tạo nhà cửa (Tam Cung Phi), chôn cất, cưới xin, thi cử, tài lộc... Bản Mệnh. Lục Thân.

Độn Giáp dựa vào nguyên lý Thiên – Địa – Nhân hợp nhất với 9 thiên tinh đại diện cho Thiên, 8 Địa Môn đại diện cho Địa Thiên – Địa hợp nhất tạo nên 1080 tình huống về cuộc sống cho con người (Nhân). Con số 1.080=108x10 tình huống bao gồm con số 108 của nhà Phật.

Chu kỳ của Độn Giáp là 24 (Tiết Khí), con số 24 là con số đốt sống của con người, số cặp xương sườn hay số nhịp thở trung bình trong mỗi phút. Chu kỳ này cũng có thể xem là 72= 24x3, do mỗi Tiết Khí gồm 3 phần Thượng, Trung, Hạ. Con số 72 bằng nhịp mạch trung bình trong mỗi phút. Như thế có thể nói rằng Nhân với tư cách là mục tiêu của Độn Giáp - tham gia với Thiên và Địa để tạo nên khoa học đó.

Độn Giáp dựa vào lịch Can Chi và học thuyết Ngũ Hành mở rộng sang 8 Hành, phân phối theo 8 Quẻ của Bát quái đồ Văn Vương.

Có thể chứng minh rằng về mặt cấu trúc thì Linh Qui Bát Pháp và Độn Giáp chỉ là một. Đó là biểu hiện của cái ''Một của Đấng Hoá Công" trong các học thuyết trên, dù các đối tượng của mỗi học thuyết là khá xa nhau''[1].

THÁI ẤT (B)

Nếu Độn Giáp là học thuyết về Tiết Khí cho từng cá nhân thì Thái Ất là học thuyết về Tiết Khí cho các cộng đồng, các thời đại. Học thuyết Thái Ất là một học thuyết rất vĩ đại về các mối quan hệ tương trợ, tranh chấp trong cộng đồng. Chu kỳ của Thái Ất là 360 năm, với 360 = 72x5.

Thái Ất được xây dựng theo cấu trúc của thất tinh trong chòm sao Bắc Đẩu (Ursa Major) như trình bày ở bảng trên.

Trong học thuyết Thái Ất không chỉ có các mặt sao nói trên. Cổ nhân còn sử dụng nhiều loại sao khác, chẳng hạn là các Thiên Tinh của Độn Giáp, các Địa Môn cũng của Độn Giáp, các sao của Thái Ất, các sao của Văn Xương, các sao mang đến cái phúc như sao Ngũ Phúc, các sao mang đến cái hoạ như sao Tứ Thần, Thiên Ất, Địa ất, Trực Phù, các sao có chức năng kiểm tra, xử lý như Tiểu Du Thái Ất, Đại Du Thái Ất.

Logic sử dụng con số và quẻ như sau: Trước hết, chúng ta dựa vào một số thuật toán xác định để tìm mã số bằng số theo thời gian. Theo mã số đó là các huyệt, các Thiên Tinh, Địa Môn, các sao Thái Ất.  Tiếp theo là dựa vào mối tương quan vị trí giữa mã số và quẻ để đi sâu hơn vào tình huống đang xét, căn cứ vào tính chất của Quẻ hay của Hành.

Ví dụ: tại một thời điểm nào đó chúng ta có tính được mã số 1 trong Độn Giáp. Mã số 1 liên quan đến Thiên Bồng, sao Hùng và cửa Hưu, cát. Số 1 là mã số của Quẻ Khảm là biểu tượng của Thuỷ, có khả năng mưa…

Tất nhiên các bức tranh trong thực tế phức tạp hơn nhiều...

Các nhân vật trong học thuyết Thái Ất

Thất tinh trong chòm sao Bắc Đẩu

Sao Thái Ất

Ba chức năng

Thiên – Địa - Nhân

Thổ, Trung tính

Sao Văn Xương hay Chủ Mục

Chủ Đại Tướng

Chủ Tham Tướng

Mặt trời

Dương tính

Sao Hỏa

Sao Mộc

Sao Thủy Kích hay Khách Mục

Khách Đại Tướng

Khách Tham Tướng

 

Mặt trăng

Âm tính

Sao Kim

Sao Thủy

 

Theo một số nhà nghiên cứu (như Phan Đan Quế), Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có phần dựa vào học thuyết Thái Ất để tiên tri.

Trên căn bản. Độn Giáp và Thái Ất cho xuất hiện những bài toán đa tiêu chuẩn, nghĩa là trong đó có nhiều tiêu chuẩn mâu thuẫn nhau, trái ngược nhau đòi hỏi phải có sự phân nhượng ở nhiều bên.

Chính vì vậy, Triết cổ Đông phương không xuất phát từ nguyên lý bài trung mà từ một nguyên lý khác, tạo nên một cách xử thế mềm dẻo hơn trong cuộc sống đó là nguyên lý phát bài trung.

TÍNH CHẤT TOÁN HỌC CỦA TRIẾT CỒ ĐÔNG PHƯƠNG ĐÔNG –

TÂY KIM – CỔ (C)

Nếu cho rằng con số là quy luật của Vũ trụ thì Vũ trụ ắt mang tính chất một hệ thống cấu trúc toán học. Trong cuốn sách trên, chúng tôi đã chứng minh được rằng quả thực Triết cổ Đông phương là một hệ cấu trúc toán tập mờ; xây dựng theo kiểu khoa học tiên đề, trong đó Ma Phương trong Lạc Thư hay của sao Thổ đã đóng một vai trò quyết định.

Và như thế, khi nghiên cứu Triết cổ Đông phương, chúng ta có một tập hợp công cụ sau, tạo nên một

SỰ TÍCH HỢP ĐA VĂN HÓA ĐÔNG - TÂY, KIM, CỔ

Đông cổ

Tây Kim

Số - Ma Phương

Quẻ - Bát Quái

Cửu cung

Tập Mờ, Quan Hệ Mờ

Logic Mờ, Bài toán đa tiêu chuẩn Mờ

 

GS. NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/143-02-633385769672656250/Nen-van-hoa-co-than-bi-Dong-Tay-phuong-ky-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận