Tài liệu: Nhân tướng học

Tài liệu
Nhân tướng học

Nội dung

NHÂN TƯỚNG HỌC[1]

 

Trong lịch sử phát triển của loài người, bộ môn nhân tướng học của Đông - Tây kim cổ đã có cách đây vài ngàn năm. Con người đã biết xem diện mạo, hình dáng, âm thanh, giọng nói, tiếng cưới, cử chỉ, hành vi, đi, đứng, nằm, ngồi, tác phong để đoán tính tình vận hạn sự nghiệp của mỗi con người.

Người xưa nói: “Nhân hiền tại mạo'' hay 'Trông mặt mà bắt hình dong” hoặc câu: “Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời”,v.v…

Thời Đường - Tống, tướng thuật đạt tới mức mê cuồng, các truyền thuyết ghi chép về tướng thuật nhiều không kể xiết, việc trước thuật về tướng thuật cũng đạt tới đỉnh cao mới. Số trước tác tướng thuật thời kỳ này đã rút cục có bao nhiêu, hiện nay vẫn chưa thống kê được đầy đủ. Có điều, chúng ta căn cứ vào “Thống Chí - Nghệ Văn lược'' của Trịnh Tiều đã ghi 73 bộ trước tác tướng thuật, thì thấy được tình hình trước tác nhiều như thế nào. Tên, số quyển và tác giả của 73 bộ sách đó là:

            Tướng thư 46 quyển xem Tùy chí.

            Tướng kinh yếu lục 3 quyển, Tiêu Cát soạn.

            Tướng kinh 30 quyển,  Chung Vũ Lệ soạn.

            Tướng thu đồ 7 quyển.

            Viên thiên Cương tướng thư 7 quyển

            Triệu Nhuy tướng thuật 1 quyển

            Nhân luân qui giám 1 quyển

            Viên Thiên cương soạn.

            Cô bố Tử Khanh tướng pháp 3 quyển

            Đường cử soạn.

            Nguyện Ba đông trung ký 1 quyển

            Nguyện Linh Tử tướng pháp 1 quyển

            Nguyện linh sư tướng pháp

            Liễu Tùy Phong chiêu khí khắc ca 1 quyển

            Thập thất gia tập tướng thư 1 quyển

            Chiêm khí sắc yếu quyết đó  1 quyển

            Viên Thiên Cương yếu quyết  3 quyển

            Hoàng đế thần quang kinh 1 quyển

            Đường Cử tướng hiến cốt pháp 1 quyển

            Luận cốt chỉ qui tâm minh quyết 1 quyển

            Tạ Công luận sinh Tử hậu pháp 1 quyển

            Mễ Chiêu hình thìn ngoại luận 1 quyển

            Tôn Tri Cổ soạn.

            Hứa Phụ tướng thư 3 quyển

            Vũ Hầu tướng thư 1 quyển

            Viên Thiên cương khí thần kinh 5 quyển

            Dương Long Quang tướng thi 1 quyển

            Ngọc sách bảo văn tủy tâm ký 1 quyển

            Chu Thế Minh soạn.

            Trương Thiệp nhân luân chân quyết 10 quyển.

            Ma Đăng nữ tướng kinh 1 quyển

            Phạm Động soạn.

            Nguyên Chân nang 1 quyển

            Lý thuần Phong nguyên quan kinh 1 quyển

            Thông tiên ca 1 quyển.

            Lý thuyên soạn.

            Tôn Nguyên cốt pháp 1 quyển.

            Tướng Trủy 1 quyển

            Động Linh bí quyết 1 quyển

            Động Nguyên Linh yếu quyết 1 quyển

            Nga my khí pháp 1 quyển

            Tống Tê Khâu ngọc quản chiếu thần cục 2 quyển

            Ngọc Hoàn kinh 1 quyển

            Tích vi bí chương 1 quyển

            Kim ca khí sắc bí quyết 1 quyển

            Thập tam ca tướng thư 1 quyển

            Trần Đoàn nhân luân phong giám 1 quyển

            Nguy đạo sỹ tướng pháp 1 quyển

            Cô Nham tướng pháp 1 quyển

            Tam phụ học đường ngọc quyết 1 quyển

            Ngũ tinh tướng pháp 1 quyển

            Động thiên ẩn quyết 1 quyển

            Nhất hành tạp tướng ca 1 quyển

            Tâm ấn tướng thư 1 quyển

            Quỷ Cốc Tử quan khí sắc xuất tường đồ 1 quyển.

            Viên Thiên Cương cốt pháp 1 quyển

            Thiên hoa kinh 1 quyển

            Thiên Viên tiên sinh thai tức tam phương chủ 1 quyển

            Khâu tiên sinh định tính tình thi 1 quyển.

            Hải uyên kinh 1 quyển

            Ngọc tiên nhân tướng thư  1 quyển

            Quy giám cốt pháp 1 quyển

            Hình thần bí yếu 1 quyển

            Tam phủ kỳ thuật 1 quyển

            Lâm Tú Ông truyền thần tướng 1 quyển

            Kim tỏa ca 1 quyển

            Kim lệ tướng thư 1 quyển

            Hứa Phụ kim ca 1 quyển

            Lịch đại sử tướng lục 1 quyển

Môn nhân tướng cũng có cội nguồn từ Trung Hoa. Vào đời Nam, Bắc triều, Đào Hoẵng Cảnh đã tìm ra sách Tướng kinh, về sau lại có những sách Mã y tướng pháp, Viên Liễu Trang thời Minh với Liễu Trang thủy Kính; Vương thị phong giám; Tướng lý hành chân. Nhân tướng là một môn học rất phức tạp vì nó liên quan tới toàn bộ cầu trúc hình thể tâm sinh lý tính cách của một con người. Ngày nay dưới ánh sáng của khoa học như các ngành: di truyền học, sinh vật học phân tử, y học, tâm lý học và cận tâm lý học hiện đại đã làm sáng tỏ, có căn cứ khoa học về môn nhân tướng học. Dưới đây chúng tôi sơ lược giới thiệu một số lĩnh vực về bộ môn nhân tướng học của nền văn minh nhân loại đời xưa và nay để độc giả chiêm nghiệm cái tinh hoa thì tích tụ, cái dị đoan thì tiêu tán.

Trước hết nhìn vào khuôn mặt con người, cái bắt gặp đầu tiên là đôi mắt, ánh mắt. Trong y học, nói mắt là nơi phản chiếu 5 tạng (Tâm, Thận, Gan , Tỳ, Phế). Mắt phản ánh trung thành trạng thái tâm tư tình cảm, tâm lý, sinh lý, bệnh lý con người. Nhìn vào mắt, nhà y học có thể đoán được tình trạng sức khỏe, tình cảm và các con bệnh có hay không có hoặc đang ủ bệnh hay diễn ra ở một tạng nào đó trong cơ thể. Một số nhà y học Nga đã quan sát ở một con cú mèo, bình thường mắt nó rất tinh anh, không có dấu tích gì, nhưng khi con cú bị què chân thì lập tức trên mắt nó có những tia máu đỏ xuất hiện. Khi vết thương được chữa lành thì các vết tích về tia máu kia cũng mất theo. Về đôi mắt và các bộ vị khác ta sẽ xem xét bàn kỹ ở mục sau, ở đây chỉ muốn nói rằng tất cả mọi cấu trúc hình hài của con người đều liên quan mật thiết với các bộ phận chức năng trong cơ thể. Cơ thể được bao bọc bên ngoài bằng một lớp da. Da là một tổ chức tế bào xúc giác, vừa có tác dụng bảo vệ các nội quan bên trong vừa có nhiệm vụ thu nhận năng lượng, thông tin từ Vũ trụ đến với con người. Đọc được các ''mật mã'' phản ứng trên da nghĩa là con người đã khám phá ra những gì đã và đang hoặc sắp xảy ra đối với cơ thể. Bởi vậy ngay từ thời xa xưa, các Vương triều phong kiến Trung Hoa, Ấn Độ, các y gia lý số đều căn cứ vào cấu trúc ngoại hình của con người để họ phân chia các dạng người theo tâm sinh lý, tính cách, tình cảm. Chẳng hạn, ở thời Đông Chu đã chia khuôn mặt người thành 13 bộ vị; thời Hán chia thành 120 bộ vị; thời Đường - Tống 130 bộ vị; đời Minh - Thanh 140 bộ vị. Và có những y gia còn chia khuôn mặt thành 360 bộ vị ứng với 365 ngày trong năm của 4 mùa: Xuân - Hạ - Thu - Đông để luận bàn tính cách và bệnh thời khí. Y học cổ truyền dựa vào cấu trúc hình thể màu da, khí sắc (sáng sủa hay u ám, bóng láng, tươi nhuần hay sần sùi, xám đen hay nâu đỏ, xanh hay xạm vàng, v.v... ) để chẩn đoán bệnh tật phi lâm sàng. Chẳng hạn, nhìn vào đôi tai, người thầy thuốc có thể hiểu được quá khứ cấu trúc hình hài thai nhi của người đó và những khuyết tật trên con người[2]. Nhìrl vào khuôn mặt (theo phương pháp đồ hình phản chiếu) là thấy được toàn bộ cấu trúc cơ thể (từ tứ chi đến các cơ quan não bộ, tuần hoàn, hô hấp, bài tiết, sinh dục,v.v…Nhìn vào một người nước da vàng là tại vùng gan, da có tàn nhang, mụn ruồi (đen hay đỏ) hoặc tia máu là gan có bệnh. Và tương lự cũng như thế ở vùng dạ dày. Nếu một người ở chân mày bên phải có tàn nhang thì cánh tay bên trái báo hiệu có bệnh, hoặc ở nhân trung phía phải có tàn nhang tất yếu là buồng trứng bên trái có bệnh. Người có cặp mắt mí trên hum húp nặng như chì, lệ đường tím tái, da bủng, mặt nhợt nhạt như phù thũng có thể nghĩ ngay tới bệnh thận. Người mà môi thâm, da xanh xao tím tái đó là báo hiệu bệnh tim. Ở những phụ nữ lòng bàn tay có đường vân hình trái tim sẽ dẫn đến bệnh tim. Những thiếu nữ ở tuổi dậy thì nếu phát sinh nhiều nốt ruồi nổi thường là rối loạn tuyến nội tiết và có nguy cơ dẫn tới bệnh ung thư do rối loạn của tổ chức tệ bào. Nhìn vào đôi mắt đờ đẫn, dại dại là biểu thị của trạng thái tâm thẩn. Hoặc mắt bị lồi là biểu hiện bệnh lý của bệnh Bazơdô v.v... Hoặc người xưa cho rằng, người có mắt hình tam giác là thể hiện tính cách hung dữ; nếu mắt có nhiều tia máu ăn lan vào đồng Tử (con ngươi), lòng trắng có nhiều tia máu là dạng người chết yểu v.v. .. Hoặc dạng người mắt lồi, có nhiều tia máu, lòng đen ít, lòng trắng nhiều, lại thêm tai lộ vành đảo luân quách là dạng bất nhân. Đó cũng là tưởng người hiếu sát hay làm điều thất đức. Ngay từ Thế kỷ XIX, nhà Bác học Charles Darwin (Đác Uyn) đã quan sát thấy rằng: ở những con mèo có bộ lông trắng, mắt thường xanh, tai hay bị điếc; những con chó đầu hói nhất định răng bị thưa.

            Tại sao như vậy? Có điều thần bí? Không có điều gì thần bí cả, những đặc điểm đó đều do cấu trúc của gien quy định. Nguyên nhân là do đặc tính đa gien hoặc đặc tính gien đa hiệu chi phối. Nhìn vào mỗi cặp vợ chồng có một vài gien nào đó quy định, các nhà y – sinh học có thể dựa vào đặc điểm ấy để dự báo thế hệ con cái họ sinh ra. Và có thể còn cho biết tâm sinh lý, cấu trúc sinh học của các thế hệ thuộc ông bà, cha mẹ họ trước đó nữa. Ở Nhật Bản, dựa vào bộ môn y học sinh học di truyền hiện đại và nhân dạng học cổ truyền của các nước Đông phương, họ đã áp dụng vào đời sống thực tiễn rất thành công. Học sinh, sinh viên ở nhiều trường được hướng nghiệp ngay từ khi chọn nghề nghiệp (do biết được sở trường, sở đoản – qua phân tích tâm lý, tinh cách, nhân dang…). Và trong việc điều khiển, bố trí con người ở các dây chuyền sản xuất, vị trí công tác của các nhân sự trong bộ máy Nhà nước một cách có hiệu quả.

            Bàn về tướng pháp (hình tướng) có nhà tướng pháp nói kỹ hơn về chữ “tiện” (hèn mọn, không có địa vĩ xã hội), phân cấp phân loại sự hèn mọn để thuyết minh. Quyển 6, Thái thân thần giám viết: “Sáu tướng hèn mọn là: Góc trán lõm khuyết, thiên trung (phần trên trán) mỏng thấy là một, lưng ngực đều mỏng là hai, tiếng nói rời rạc yếu ớt là ba, tai mắt nhìn nghiêng là bốn, sống mũi cong bẹt là năm, ánh mắt vô thần là sáu. Người có tướng lục tiện chỉ là tôi tớ của người”. Có nhà tướng thuật cho thế là chưa toàn diện, đưa ra quan điểm “Thập sát” chỉ mười tướng nghèo hèn; (1) hình mặt như mặt người say rượu; (2) hay nói lẩm bẩm một mình; (3) không có đờm mà hay cố ý khạc nhổ; (4) trong mắt luôn có tia máu, lộ rõ vẻ hung dữ; (5) thần trí lẫn lộn, cả ngày trầm mặc mơ màng; (6) giọng nói cứ như lang sói gào; (7) có ria mà không có râu; (8) khi ăn hay toát mồ hôi; (9) mũi cò, lỗ mũi hếch; (10) hôi nách nghiêm trọng. Cả “Lục tiện” và “Thập sát” đều chỉ bổ sung cho bài thơ “tướng bần tiện” mà trên thực tế chưa có sự phát triển gì.

            Sau khi tổng hợp đặc trưng của tướng mạo bần tiện, các nhà xem tướng đã rút ra kết luận về “ác tướng” bao gồm hình thể, ngũ quan, thần sắc đều không đẹp. “Thần tướng toàn thiên ngũ – tướng ác” nói: “Đầu nhọn trán hẹp, mày nặng tóc khô, tại lẫn lưỡi lộ, miệng to môi mỏng, mạch máu đỏ xuyên qua mắt, mắt có vẻ quầng, vẻ như hãi, sắc như cáu bẩn, đầu mũi nhọn, cằm nhọn”.

Ngoài tiêu chuẩn tướng giàu sang và nghèo hèn, các nhà xem tướng còn đưa ra tiêu chuẩn tưởng thọ yểu, thiện ác, cô khổ, bôn nhan... Không thuật kỹ ở đây mà nói gộp trong khi phân tích cụ thể các bộ vị hình tướng. Cần phải chỉ ra rằng các nhà xem tướng còn định ra tiêu chuẩn tưởng thọ yểu, thiện ác, trinh dâm, sang hèn, bôn nhàn, hình khắc, chửa đẻ của phụ nữ khác với nam giới. Quan điểm phụ nữ của các nhà xem tướng trực tiếp khởi nguồn từ xã hội phu quyền phong kiến, coi thường phụ nữ và quyền lợi của phụ nữ. Trong xã hội phong kiến, phụ nữ và quyền lợi của phụ nữ Trung Quốc chưa từng có ý nghĩa tồn tại độc lập mà chỉ là vật phụ thuộc của nam giới. Cái gọi là số phận của họ hoàn toàn không phải là sự phát triển đầy đủ của cá tính và tiến trình cá nhân được xã hội thừa nhận. Tất cả những vấn đề như thọ yểu, hiền đức, thiện ác, thành bại, hình khắc, chửa  đẻ đều phụ thuộc vào nam giới, vì nam giới. Do đó, các nhà xem tướng cho rằng với phụ nữ thì dịu dàng, xinh đẹp, biết yêu chiều là quý còn cứng rắn thô bạo, bừa bãi là xấu. Đó là căn bản của tướng mạo phụ nữ, Còn sang hèn, họa phúc, lành dữ... hoàn toàn do địa vị xã hội của chồng, con quyết định. Vì bản chất, từ tướng lý, nam là Dương, nữ là Âm; Dương thì cứng rắn là tốt, Âm thì nhu mì là hay, cái đạo Âm - Dương đó tuyệt đối không thể thay đổi. Vì thế, ''nam nhi không muốn mang tướng nữ, nữ nhi không thích mang tướng nam” là nguyên tắc cơ bản nhất. Nam mà dịu dàng, nhút nhát là yếu kém, nữ mà cương cường dũng cảm, là thô bạo, đều trái với đạo trung chính hòa bình. Nói khác đi tướng thuật mang bản chất phụ họa với quan niệm luân lý phong kiến, tạo ra hố ngăn cách giả tạo giữa tướng nam và tướng nữ, hai loại cảnh ngộ hai yêu cầu, hai số phận khác nhau.

 

Thọ yểu, thiện ác, quí tiện, trinh dâm, chửa đẻ của tướng nữ, có tiêu chuẩn chặt chẽ, lại mang dấu ấn thời đại rõ rệt: về nhân phẩm đạo đức, trinh chính hay tà dâm, nam nữ phải như nhau, tức là nam giới cũng có vấn đề trinh đâm. Nhưng trong xã hội phu quyền phong kiến, nam giới thường có năm thê bảy thiếp, đàng điếm đĩ thõa, hoàn toàn không bị gò bó gì còn phụ nữ thì mang nặng cái gông phu quyền, trên đầu bị khóa chặt bởi cái khóa trinh dâm, mọi lời nói cử chỉ, ánh mắt nụ cười đều đem cái gương trinh dâm ra mà so sánh, trinh thì được biểu dương tà liệt nữ, dâm thì thập ác không tha. Nói về tiêu chuẩn hình tướng, đặc trưng tướng trinh hay dâm là thế nào? Các nhà tướng thuật cho rằng, người nào trán tròn tai dày lưỡng quyền kín đáo có thế, mũi thẳng tóc thưa, nhuần mà bóng, ánh mắt trong, thân mềm tính ngay, mắt không nhìn nghiêng, bước nhẹ chậm rãi, tiếng trong không rè, yêu kiều mà có uy, dịu dàng mà có dáng . . . là người trinh chính, đoan chính. Trái lại, tướng phụ nữ dâm đãng là đầu dẹt trán hẹp, đầu to mà không có đáng đẹp, trán rộng mà tóc mai xuống sâu, ngũ quan bất định, đầu dơi tai chuột; mắt nhắm mày cau, hai mắt lả lơi, đuôi mắt cụp xuống, mũi hếch lên cao, nhân trung cong, mép có nếp nhăn, môi trắng mà mỏng, môi xanh như đồng, môi rủ không có tai, môi vênh lưỡi nhọn, tai lận như tai dê, mặt như hoa đào, mặt nhiều dấu vết trên mặt có hai chỗ lõm, thịt trên mặt nổi gò, mặt to mũi bé, mặt dài mắt tròn, mặt bóng thân rít, mình dài cổ ngắn, lưng lõm bụng bé, vai gày eo lưng nhỏ, mông vênh ngực cao, đầu vú lõm xuống, bụng lệch, ngón tay chân ngắn, rốn lồi và chệch xuống phía dưới, thịt nhão như bông, da bóng như dầu, da trắng như phấn, đa nhăn như vải, chân hạc lưng cong, trên đùi có lông, mắt lồi trắng bạc, nhìn nghiêng nhìn trộm, chưa nói đã cười, đầu lắc tay vẩy hay ngoái đầu nhìn lại, một bước đi ba lần lắc, đi như ngỗng như vịt, thấy người thì che mặt, thân nhẹ như liễu, hay tựa cửa nhìn, đỡ cằm cắn móng tay, cạo răng vò áo, tiếng nông hơi cạn, hay nói một mình, nói một câu ba lần ngắt giọng, nói năng huyên thuyên, hát hay tắc mình, rụt đầu thè lưỡi, một môi hay rung, rướn mình vươn vai, ngồi không yên ổn, cử chỉ si mê, không việc gì mà giật mình, tính tình hay thay đổi, ngủ mơ hay khóc, ngừng kim chau mày, nũng nịu vô dáng, yêu kiều không có uy. Phụ nữ dính vào một hai điều trên sẽ bị coi là dâm đãng, sớm muộn sẽ có chuyện vượt rào theo trai.

 

Đồ hình phản chiếu nội tạng trên lưng

Đồ  hình phản chiếu ngoại vi cơ thể trên lưng

Tướng phụ nữ được các nhà xem tướng bình luận tổng hợp thành ''cửu thiện tướng'' ''cửu ác tướng" (chín tướng tốt và chín tướng xấu). Cửu thiện tướng (chín tướng tốt) là: Đầu tròn trán phẳng, xương nhỏ da mịn, môi đỏ răng trắng, mắt dài mày đẹp, ngón nhọn bàn tay dày, đường bàn tay nhỏ như tơ, tiếng nói trong như nước, cười không lộ răng, bước đi chậm rãi, nằm ngồi đoan chính, thần khí trong hòa, da dẻ mịn nhuần. Cửu ác tướng (chín tướng xấu), là: mặt xấu lưỡng quyền cao, lộ hầu lộ răng, đầu tóc rối bù, đi thư rắn bước như chuột, hai mày nối liền nhau lại thô nặng, dưới mũi có chỉ vòng câu, mắt trắng như mắt dê, tiếng mạnh khê cháy, có ria mép đen.

Tuy các nhà xem tướng định ra cả một loạt những tiêu chuẩn tốt xấu, nhưng trong thực tế, rất ít khi có người chỉ có những tướng tốt hoặc chỉ có những tướng xấu, thậm chí không thể có ai như vậy. Thường thường người ta đã có một số tướng tốt lại có một số tướng xấu. Làm thế nào trong trường hợp đó? Ngọc quản chiếu thần cục, viết: '' Trán rộng nhưng cằm nhọn, xương đẹp nhưng da thô, tai dày nhưng sống mũi tẹt, mắt dài nhưng mày nhíu, miệng ngay nhưng tiếng nói khàn, lưng đầy nhưng ngón tay dùi đục, lưỡi tuy đỏ nhưng miệng như thổi lửa, môi đẹp nhưng răng không đều, hơi tuy trong nhưng dáng đi lệch, lưng tuy dài nhưng đi như chạy, tiếng nói tuy khoan hòa nhưng thần thái như si, mắt trong sáng nhưng hay nhìn ngang nhìn ngửa, nằm ngồi tuy ngay ngắn nhưng hay ăn vặt, đầu tuy dài nhưng lưng lại gãy, trong tướng pháp gọi những trường hợp này là ''chiết trừ” tức là tướng tốt tướng xấu lẫn lộn. Như thế thi hoặc giàu nhưng chết yểu, hoặc địa vị thấp nhưng sống lâu, hoặc địa vị cao, của nghèo, hoặc trước sang sau hèn, trước giàu sau nghèo. Kiểu tướng ''chiết trừ'' này tạo dễ dàng cho người xem tướng khi phán đoán.

Những tiêu chuẩn tổng thể này rất quan trọng trong tướng thuật. Mục đích của việc xem tướng đối với thầy tướng hay người đến xem đều là nhằm tranh cái xấu cầu cái tốt. Những tiêu chuẩn này, ngoài các yếu tố sinh lý và tâm lý, còn có cả những nội dung về mặt đạo đức xã hội, chuẩn mực hành vi là một thể tổng hợp, hoặc là sự giải thích ý thức phong kiến bằng tướng thuật. Điều này rất rõ trong tiêu chuẩn tướng nữ.

Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một số bộ vị chủ yếu trong cơ thể con người như Mắt, khuôn Mặt. Diện mạo hình hài, sắc điện, âm thanh qua tướng pháp dân gian đến tướng pháp ''Bác học'' của các y gia, sinh học, tâm lý học.v.v. . . để độc giả tham khảo, giải trí.

            TƯỚNG PHÁP DÂN GIAN QUA CA DAO TỤC NGỮ

Người xưa, khi xem nhân tướng một con người thường đưa về mấy dạng như sau:

* Tướng ngũ trường: nghĩa là: đầu, mặt, thân, tay, chân đều dài.

* Tướng ngũ đoản: nghĩa là: đầu, mặt, thân, tay, chân đều ngắn.

* Tướng ngũ lộ: nghĩa là mặt, mũi, tai, môi, cổ (hầu) đều lộ ra. . .

* Tướng ngũ tiểu: nghĩa là đầu, mắt, bụng, tai, miệng đều nhỏ.

Ngoài ra, còn có loại hình tướng không đủ các cách trên mà chỉ được một hoặc hai trong các cách đó như; lé, lùn, hô, rỗ, hôi, hếch... đó là những dạng người dị hình tướng, các thày xem vào đó để xét đoán. Rồi phân loại tướng người theo Ngũ hành để luận bàn phán xét.

Dưới đây, chúng tôi xin điểm lướt các cách xem tướng ''Bác học" và dân gian qua ca dao tục ngữ để độc giả tự lựa chọn cái hay để chiêm nghiệm về nhân sinh (đối nhân xử thế) cái dở dị đoan do thiên kiến nên bài trừ. Và cũng là để ''gạn đục khơi trong, đãi cát tìm vàng”.

CON MẮT QUA TỔNG KẾT DÂN GIAN

Khi quan sát hình thể và nhân cách một con người, cái đầu tiên dội đến sự “thân, sơ”, “yêu, ghét”, “cảm tình hay không cảm tình” “đôi mắt”. Quả thật, người phương Tây thường nói: "Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Người thông minh hiền hậu bao giờ cũng có đôi mắt đen láy, lòng đen, lòng trắng phân minh cân phân sáng sủa.

Kẻ tà vạy gian xảo thủ đoạn, lọc lừa bao giờ cũng có cặp mắt láo liên, nhìn trộm, không bao giờ có cặp mắt nhìn thẳng. Loại hung hiểm, hung ác hay ngộ sát bao giờ cũng có đôi mắt đầy tia máu, hung quang dữ dằn. Những kẻ có đôi mắt trắng dã (như hoa sở) hoặc lồi (mắt ốc nhồi) thường được coi là hạng người hay bạc tình, bạc nghĩa,v.v… Trong sách Quảng Giám Tập của Đông Phương có câu: "Nhãn vi tâm chí ngoại bộ. Quan kỳ vật ngoại tri kỳ nội" (Mắt là cửa ngoài của tâm hồn. Nhìn bề ngoài mà biết rõ bên trong của người ta”.

Ông Mạnh Tử khi bàn về mắt đã nói: "Lòng ngay thẳng thì mắt sáng sủa, lòng tà vậy thì mắt mờ, vì mắt không che giấu được thiện ác". Ca dao, tục ngữ Việt Nam thường nói nhiều đến đôi mắt khi thể hiện một vẻ đẹp, nhân cách, hay tính nết con người đó.

            Những người con mắt lá răm,

            Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền,

            Những người ti hí mắt lươn,

            Trai thì trộm cắp, gái buôn chồng người.

Mắt đẹp mà dài như mắt chim phượng thì làm quan lớn, oai quyền to tát. Mắt như mắt cá giếc thì nhà giàu có, phú quý. Lớn mà sáng thì nhiều của cải giàu sang. Đầu mắt mà khuyết (nhỏ) thì phá gia sản. Mắt lộ màu trắng nhiều thì bại binh, thất trận chết nơi chốn đao binh. Mắt như mắt phượng mày tằm thì quan sang, cao chức. Mắt có hình tam giác là người có tính ác, hiểm độc. Mắt dài, mày dài thì giàu có, khá giả, phong lưu. Mắt lồi ra thì chết sớm (yểu tử). Đồng tử có vằn đỏ là có nhiều việc lôi thôi kiện thưa. Mắt đỏ mà tròng vàng thì yếu tử, chết non. Mắt dài hơn tấc (tấc châu thân) thì làm quan lớn, ở bên lãnh tụ. Mắt chớp có oai là điều khiển muôn vạn người như đại tướng. Mắt như mắt dê (ti hí mắt lươn) là người lừa đảo, dễ bị hành pháp (sa vào tội lỗi). Mắt như mắt ong thì cô độc, bị chết nạn. Mắt láo liên như mắt rắn thì bị độc hình (hoạn nạn). Đuôi mắt xuôi xuống, vợ chồng ly tán. Mắt hồng mà có màu kim thì lục thân không gần (xa người thân).

Các nhà nhân học phương Đông ngày trước tính rằng loài người có tới 39 kiểu mắt. Mỗi kiểu "cầm tinh” một con vật và biểu hiện đặc trưng một số nét tính tình:

- Người có mắt rồng (đẹp như ngọc, trong như suối, tĩnh như đêm mùa thu): tính tình siêu việt, cao thượng, trọng đanh dự, khí tiết.

- Người có mắt phượng ngủ: hiếu học và có tài năng, thông tuệ, trung thực.

- Người có mắt chim sẻ (đen và sáng): hiền hòa chân thật, thức thâu đêm suốt sáng mà thần sắc không hề thay đổi. Mắt vẫn trong.

- Người có mắt uyên ương (sáng, hơi lồi): khéo léo, biết cưng chiều. Song hay có tính lẳng lơ, dâm loạn.

- Người có mắt bồ cầu (tròn, đẹp): thuỳ mị, nết na.

- Người có mắt trâu (to, lờ đờ, lòng trắng vàng đục): giản dị, hiền lành, chăm chỉ, ưa thích nghề buôn bán.

- Người có mắt voi: giỏi võ nghiệp.

- Người có mắt khỉ (đen láy, tinh ranh): lanh lợi, thích khôi hài.

- Người có mắt rùa (nhỏ và tròn, nhìn ngược lên trời, rụt cổ lại) nhút nhát, kém trách nhiệm, đẻ nhiều, sống lâu.

- Người có mắt dê (đen, vàng): đa dâm, hiếu sắc.

- Người có mắt nhạn: nặng tinh nghĩa gia đình, nghĩa khí.

- Người có mắt ốc nhồi (lồi): sống xảo trá, thủ đoạn.

- Người có mắt chó sói (hay cau mày, cúi xuống): tham lam, bất lương.

- Người có mắt hổ (mở to, trắng dã): độc đoán, táo bạo, thành đạt v.v...

Mắt một mí hay hai mí đặc trưng cho chủng tộc: đại chủng tộc Môngôlôa có lệ rất cao người mắt một mí. Mắt một mí phổ biến trong nữ giới (số này chiếm khoảng 32-38% phụ nữ Việt Nam) hoặc ở trẻ sơ sinh và lứa tuổi nhỏ. Ở những người này do lớp mở dưới da dày đã xóa mờ một mí mắt đi. Tục ngữ có câu:

            Người khôn con mắt đen sì,

            Người dại con mắt nửa chì nửa thau.

Với người đồng chủng thì có thể như thế, nhưng màu mống mắt đen, nâu hay xanh, cũng như màu da, tóc còn phụ thuộc vào giống nòi và địa dư, khí hậu. Về khoa học giải thích nó là sự tích lũy ít hay nhiều sắc tố nâu mêlanin dưới dạng tinh thể hay dạng hòa tan để dễ thích nghi với môi trường sống.

Cái thiên kiến về màu sắc của mắt và môi trong dân gian còn nặng:

Trai thâm môi, gái lồi mắt,

Trai bạc mắt, gái thâm môi.

Mắt ốc nhồi, mắt trắng dã là tướng người dễ gây ác cảm. Người xưa nhận xét rằng: to mắt hay nói ngang.

            Ngược lại:

            Những người ti hí mắt lươn,

            Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người.

Quả là những kẻ nhiều mưu gian thường hấp him con mắt để che đậy ý đồ của họ, muốn tạo ra một khoảng tối cho những tính toán đen tối, sâu hiểm.

Người một mắt được đánh giá là dữ dằn, ác độc. Phải chăng đó là phản ứng trả thù về nỗi tật nguyền:

-         Trên trời Phạm Nhan, thế gian một mắt.

-         Voi một (chéo) ngà, đàn bà một mắt.

-         Dữ như tê giác, ác như đàn bà một mắt

Các nhà tướng thuật cho rằng, cũng như trời đất có Mặt trăng, Mặt trời là nguồn sáng, Mặt trăng, Mặt trời là gương soi vạn vận, mắt là Mặt trăng, Mặt trời của một con người, quang hoa của nhật nguyệt là tinh thần của người.

Tinh thần của người tập trung vào tâm khi người ngủ, tỏa ra ở mắt khi người thức. Mắt là chỗ biểu hiện trú ngụ của tinh thần người vậy. Mắt phải dài đẹp, rõ ràng, lông trắng trắng như ngọc, lông đen đen như sơn, nếu mắt lại vươn tới tai vào tóc mai thì đấy là tướng đại quý. Nếu mắt nhỏ ngắn mà sáng, lấp lánh ánh sáng lạ thì đó là tướng vừa quý vừa thọ. Nếu tròng mắt lồi có thần quang rừng rực thì đó là tướng nắm quyền sinh sát. Nếu mắt to mà vô thần, dài mà không sáng, không có thượng hạ đường bên ngoài có mạch máu đỏ xuyên tròng, nhìn không được xa, tròng mắt luôn luôn đưa đi đưa lại hoặc mí mắt nặng nề mà khép không kín, tròng mắt thoáng có ánh vàng thì đó đều là tướng không hay. Nhà tướng thuật Đổng Chính đời Hậu Hán nói: ''Từ đầu mắt đến cuối mắt, khi khép mở đều có ánh sáng lạ thì đó là tướng thần tiên, tướng phi phàm'', ''Thần tướng toàn thiên'' dẫn Đạt ma tướng nhãn nói:

“Đẹp mà ngay, nhỏ mà dài, thần định mà lộ ra mắt, thần lộ rồi thù ngay, trên dưới không trắng, nhìn lâu không thoát, gặp biến không hoa".

''Đẹp'' là nói ánh mắt rực thần, “ngay” là nói dáng mắt ngay ngắn, đẹp đẽ, người mắt nhỏ mà không dài chỉ có tài vặt, mắt dài mà không nhỏ là người làm điều ác, ánh mắt định thần mà không lộ, không phóng tầm mắt ra ngoài, rốt cuộc vẫn là người ngu, ánh mắt có thần mà không thu lại kịp thời thì sẽ trôi nổi bên ngoài, thần không thu về được, lòng trắng phía trên nhiều là người gian ác, lòng trắng phía dưới nhiều sẽ gặp hình phạt. ''Nhìn lâu không thoát” là nói thần tướng vượng; bỗng gặp kinh biến mà mắt không hoa là tướng tâm chính. Và nói: “Mục tú nhi trường, tất cận quân vương (mắt đẹp mà dài, hẳn gần vua chúa). Nhãn tự tức ngư, tất định gia phì (mắt như cá diếc hẳn là nhà nhiều của). Mục đại nhi quang, đa tiền điền trang (mắt to mà sáng, sẽ có nhiều ruộng vườn). Mục đầu phá khuyết, gia tài kiệt diệt (đầu mắt vỡ khuyết, gia tài khánh kiệt). Mục lộ tứ bạch, trận vong binh tuyệt (mắt trắng cả bốn phía, hẳn trận địa mất binh lính bị diệt chết). Mục vi phượng loan, tất định cao quan (mắt như mắt loan mắt phượng, chức hẳn làm quan to). Mục hữu tam giác, lòng nhân tất ác (mắt có ba góc, người này ác độc). Mục đoản mi trường, dụ ích điền trang (mắt ngắn mày dài, càng nhiều ruộng đất). Mục tinh như độc, tất định quỷ chiết (tròng mắt nếu lồi chắc chắn chết non). Xích ngấn xâm đồng, quan sự trùng trùng (vết đỏ lấn tròng, việc quan trùng trùng). Mục xích tinh hoàng, tất chủ yểu vong (mắt đỏ tròng vàng, hẳn là chết yểu). Mục trường nhất thồn, tất tá minh vống (mắt dài một tấc, hẳn giúp vua tài). Mục liệt hữu uy, vạn nhân quy y (mắt rực lửa có uy, cả triệu người theo về). Mục hữu đương mục, tướng hình cốt nhục (mắt như mắt dê, làm hại cốt nhục). Mục như phong mục, ác Tử cô độc (mắt như mắt ong, chết thảm cô độc). Mục vi xà tinh, lang độc hồ hình (mắt như mắt rắn, độc như rắn, xảo quyệt như hồ). Mục vĩ tương thùy, phu thê tương ly (đuôi mắt rủ xuống, chồng vợ lìa tan).

Ma y tướng pháp lại có một bài thơ nói về mắt:

"Trắng như nhạt nguyệt phải phân minh

Mắt phượng mày rổng thảy trong xanh

Sợ nhất mắt vàng thêm mạch đỏ

Suốt đời hung bạo sống không thành.  

To nổi mắt dê là tướng dã.

Bơ vơ tiền của sạch sành sanh.

Mắt nhỏ lại sâu không tâm phúc

Người hay nhìn trộm hiếm thật tình”

Về tướng mắt còn một số ý kiến khác nữa, nhưng đại để đều thế cả.

Người ta còn ví mắt người với mắt các loại động vật như mắt rồng, mắt phượng, mắt voi, mắt rùa, mắt hổ, mắt sư Tử, mắt bò, mắt công, mắt uyên ương, mắt phượng gáy, mắt âm dương, mắt hình hạc, mắt ngỗng, mắt hoa đào, mắt say, mắt hạc, mắt dê, mắt cá, mắt lợn, mắt vằn, mắt bồ câu, mắt chó sói, mắt cò, mắt vượn, mắt hươu, mắt tôm, mắt mèo... Mỗi kiểu mắt như vậy còn được gán cho một kiểu dự báo lành dữ, họa phúc nhất định. Như nói lý tưởng nhất là mắt rồng, đó là tướng vinh hoa phú quý nhất đẳng; xấu nhất là mắt ngựa, đó là tướng khắc vợ khắc con tại khốn đốn vất vả. Rõ ràng khó thuyết phục được ai.

Mắt là mộc tinh, là biểu chứng bên ngoài của gan. Đông y cho rằng sự thay đổi hình dáng màu sắc bên ngoài của mắt là triệu chứng bên ngoài của tình trạng gan. Tướng thuật cũng dựa vào đó để nói về họa phúc. Vọng chẩm tuân kinh đời Thanh viết:

"Tướng sĩ nhìn mắt để đoán người hiền hay ngu, phải căn cứ vào lúc bình thường. Thầy thuốc nhìn mắt đoán bệnh, phải rõ khi biến... Quan sát mắt không chỉ xét hình dạng mà phải trông khí sắc...Mắt đỏ, bệnh tại tim, trắng bệnh tại phổi, xanh tại gan, vàng tại tỳ, đen tại thận, màu vàng khó tả là bệnh ở trong ngực..."

            MIỆNG, MÔI, TIẾNG CƯỜI, GIỌNG NÓI

Tục ngữ đoán tướng nói rằng:

- Rộng miệng cả tiếng.

- Đàn ông rộng miệng thi tài,

Đàn bà rộng miệng điếc tai láng giềng.

Hoặc:

- Đàn ông rộng miệng thì sang,

Đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà.

- Miệng tu hú ăn lở rú lở rí

- Mỏng môi hay hớt, trớt môi nói thừa.

- Mỏng môi hay hót, dầy môi hay hờn.

- Môi dầy ăn vụng đã xong, môi mỏng hay hớt, môi cong hay hờn.

- Trai thâm môi, gái lồi mắt.

- Cua thâm càng, nàng thâm môi.

Ở đây cái miệng cười bao giờ cũng gây được thiện cảm:

- Miệng cười như thể hoa ngâu.

Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.

- Chẳng tham nhà ngói rung rinh,

Tham về một nỗi em xinh miệng cười.

- Miệng cười em đáng mấy mươi,

Chân đi đáng nén, miệng cười đáng trăm.

Ngoài tiếng cười, tục ngữ có những câu đoán định tính người qua giọng nói:

            - Những người lanh lảnh tiếng đồng,

Số chẳng sát chổng thi cũng hại con.

- Đàn bà sang sảng tiếng đồng,

Chẳng vát vả về đường chồng cũng vất vả về đường con.

            - Người thanh nói tiếng cũng thanh,

Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu

- Những người chép miệng thở dài,

Chỉ là sầu khổ, bằng ai bao giờ

            - Tẩm ngẩm tầm ngầm đấm chết voi.

Bàn về tiếng cười, giọng nói, không thể quên

HÀM RĂNG, MÁI TÓC:

- Voi chéo ngà, đàn bá khểnh răng.

- Cái răng cái tóc một góc con người.

-  Răng đen một góc, tóc tốt một phân (là người xấu mã)

 

ĐẦU TÓC, RÂU VÀ LÔNG:

-         Chữ tốt xem tay, người hay xem khoáy

-         Một khoáy sống lâu

Hai khoáy lỗ đầu,

Ba khoáy chóng chết.

Bốn khoáy hết tội.

-         Cá tươi thì phải xem mang.

Người khôn xem láy đôi hàng tóc mai.

-         Đàn bà tốt tóc thì sang,

Đàn ông tốt tóc thì mang nặng đầu.

-         Tốt tóc nặng đầu, tốt râu nặng cằm.

-         Đói rụng (bạc) râu, sầu (rầu) rụng (bạc) tóc.

-         Những người da trắng tóc thưa,

Đẹp thì có đẹp nhưng thưa việc làm.

-         Đàn ông không râu bất nghì,

Đàn bà không vú lấy gì nuôi con.

-         Nhất có râu, nhì bầu bụng.

-         Trai bạc mặt gái thâm môi.

-         Chim sa cá nhảy chới nuôi,

Những người lông bụng chớ chơi bạn cùng.

-         Quân Tử long chân, tiểu nhân lông bụng.

VÓC DÁNG NGƯỜI

-         Những người béo trục béo tròn,

Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày.

-         Những người thắt đáy lưng ong.

Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con.

Tuy thế miệng lưỡi người đời lắt léo:

-         Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,

Béo chê béo trục béo tròn.

Gày chê xương sống, xương sườn phơi ra.

Tướng vừa phải, không quá khổ là hay!

Lại có những câu:

-         Cả mô là đồ làm biếng.

-         Bụng bí rợ, ăn như bào, làm như khỉ

-         Người gày thầy cơm

-         Lồi rốn tốn cơm

-         Lớn vú bụ con

-         Cả vú to hông cho không chẳng màng

Miệng cười cũng có mấy chục kiểu khác nhau, tùy tâm trạng cá tính mỗi con người. Có rất nhiều những câu tục ngữ nói về Trông mặt mà bắt hình dong”:

-         Nhân hiển tại mạo, trắng gạo ngon cơm.

(Người hiền hiện ra mặt)

-         Những người mặt nạc dóm dầy,

Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn.

-         Người nào mặt nặng như mo,

Chân đi bậm bịch thì cho chẳng màng.

-         Má miếng bầu coi lâu muốn chửi.

Mặt chữ điền tiền rưỡi muốn mua

-         Khô chân gân mặt đắt tiền cũng mua.

-         Gò má làm khá người ta.

Song những người đàn bà lưỡng quyền cao lại bị chê là sát chồng, cao số.

-         Trên ừng thì hổ lang

Dưới làng thì mặt rỗ

-         Mặt rỗ như tổ ong bầu

Cái răng khấp khểnh như cầu rửa trôn.

-         Xấu mặt hơn béo bụng…

 




Nguồn: bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/143-02-633385774052500000/Nen-van-hoa-co-than-bi-Dong-Tay-phuong-ky-...


Chưa có phản hồi
Bạn vui lòng Đăng nhập để bình luận