TĨNH TỌA KHAI TRÍ (B)
''Nhờ Định có Tuệ''
Lê Quý Đôn
(Bài minh khắc trên khánh đồng
Chùa Thanh Quang)
Nguy cơ thiếu hụt nhân tài
Các nhà Bác học trong thời đại ngày nay đang đau đầu về bốn đại nguy cơ quy mô Thế giới: mất cân bằng sinh thái, bùng nổ dân số, cạn kiệt nguồn năng lượng, thiếu hụt nhân tài. Sở dĩ ba nguy cơ đầu chưa giải quyết được vấn đề then chốt chính là do chưa xuất hiện những nhân tài kiệt xuất có khả năng tìm ra lối thoát cho ba nguy cơ ấy. Vì thế, thực chất của ba đại nguy cơ trên xét cho cùng cũng nằm trong nguy cơ thiếu hụt nhân tài.
Cho tới hiện nay, Thế giới ngày càng có nhiều nước nhận thức được rằng, trong tất cả các nguồn tài nguyên Quốc gia, nguồn tài nguyên nhân tài chính là nguồn tài nguyên quý giá nhất. Chỉ có chiếm hữu được nguồn tài nguyên ấy mới có thể chiếm hữu được những nguồn tài nguyên vật chất khác.
Nền kinh tế Nhật Bản, sau đại chiến Thế giới Thứ hai, hầu như suy sụp hoàn toàn. Nhưng do người Nhật đặc biệt coi trọng vấn đề trí tuệ, đầu tư nhân tài, ra sức khai thác vốn nhân tài, cuối cùng họ đạt được mục tiêu làm cho nền kinh tế tăng trưởng, tạo ra những bước đại nhảy vọt.
Một trong những con đường khai thác nguồn tài nguyên "chất xám”, sau một thời gian thực nghiệm, ủy ban giáo dục Nhật Bản đã đưa vào chính khoá giờ học Tĩnh toạ khai trí ở tất cả các trường trung học ở Trung Quốc, các nhà giáo dục cũng đã thành công trong việc áp dụng phép Tĩnh toạ dưỡng thần để nâng cao trí lực cho thanh thiếu niên, Còn ở Ấn Độ thì ngay từ năm 1981, Bộ giáo dục đã ra quyết định dạy Yoga ở 320 trường tiều học Trung ương của cả nước. Nhìn sang bên kia Tây bán cầu, trong giáo trình Sáng tạo trong kinh doanh của trường Đại học Stanford (Mỹ) có những chương dạy về Yoga, khí công và Thiền, Hai tác giả R.Tang và K.Harary công tác tại Sở nghiên cứu Stanford đã cho xuất bản cuốn chuyên luận Chạy đua về trí tuệ trong đó xem hình toạ là phương pháp hữu hiệu nhằm khai thác tiềm năng trí tuệ con người. Theo thống kê, hiện nay trên Thế giới đã có 120 nước áp dụng Điện não pháp (phương pháp làm cho não lành mạnh). Tuy nhiên, tên gọi và cách làm ở mỗi nước có khác, song thực chất chính là tập tĩnh cho não, mà theo tinh thần khoa học có thể gọi là ''Não tĩnh công''.
Vậy vì sao trong chiến lược con người của những năm chuẩn bị cho Thế kỷ XXI này, Thế giới lại hướng về phương pháp Tĩnh Toạ cổ truyền phương Đông, đã có khoảng trên 4000 năm nay?
Không phải bây giờ, mà ngay từ thời xa xưa, các kinh sách như: Upanishad, Bhagavad Gita; Yoga Sutra của Ấn Độ, trong Sơn Hải kinh; Thần nông bản thảo kinh; Bản thảo cương mục của cổ Trung Hoa; trong bốn bộ y điển của cổ Tây Tạng, v.v… đều có đề cập đến vấn đề ích trí. Tương truyền, Đạt Ma Thiền sư - Thuỷ tổ Chùa Thiếu Lâm - diện bích tham Thiền trong một thạch động tự nhiên trên ngọn Ngũ Nhũ, bỗng ''ngộ" ra rằng: ''Khi thanh tâm tĩnh trí, vạn vật đều không thì đầu óc minh triết, thấu suốt mọi lẽ tình, sự vật được khắc ghi trong trí nhớ như dao chém đá...". Cho nên, Phật gia cho rằng: "Thiền định sẽ đưa đến trí huệ, tâm thần an đinh ắt trí tuệ sinh''. Và, Tĩnh toạ được xem là một trong những phương pháp để đại ''Huệ” - cảnh giới thượng thừa của Phật gia.
Còn Đạo gia thì nói tới ''Hư tĩnh'', ''Vô vi''. Nho gia thì đề xuất ''Trai tâm, ''Toạ vong''; Yoga thì kể đến Dhyana Samâdhi…
Như vậy là sau một thời gian dài tìm kiếm những con đường phát triển trí tuệ, các nhà khoa học đã phát hiện thấy trong Yoga. Khí công, Thiền chiếc chìa khoá khai mở tiềm năng trí tuệ con người. Ở đây đúng là ẩn giấu những hạt châu quý giá đối với con người trong thời đại hiện nay. ''Quay về với phương Đông''- đó là lời nhắn nhủ của các nhà khoa học phương Tây...
Con người hiện đại khai thác bí pháp cổ xưa
Các thà Thiền Triết cổ Đông phương quan niệm: Con người là một tiểu Vũ trụ được cấu tạo theo mô hình đại Vũ trụ”. Mục tiêu cuối cùng của cuộc đời là "đắc đạo” tức là hoà nhập được với đại Vũ trụ. Lúc ấy giữa ta và đại Vũ trụ không còn cách biệt, không còn đối lập, con người sẽ tan hoà vào cái thực thể bao la: ''Hợp Đức với Đất trời, hợp ánh sáng với Nhật – Nguyệt, hợp trật tự với bốn mùa, hợp Cát Hung với Quỷ, Thần...”. Tới được Cảnh giới này, con người sẽ được giải thoát và đạt được sự minh triết thiêng liêng.
Song, do những dục vọng mê mẩn lầm lẫn làm tâm trí luôn luôn xáo động, con người không nhìn thấy được chân ngã của mình. Muốn thấy được bản chất thực, con người phải làm cho những đam mê, ham muốn đó lắng dịu và giữ cho tâm thanh tịnh. Giống như mặt hồ lặng sóng, con người sẽ nhìn thấu tận đáy.
Muốn đạt được điều đó, con người phải trải qua bước tập trung tư tưởng, làm cho các kích động bên ngoài không vào được, rồi đến lúc toàn tâm tập trung vào một ý, con người suy nghĩ và đối tượng nhập hoà thành một...
Từ đó, ra đời công pháp Tĩnh toạ hay gọi theo tinh thần khoa học hiện nay là “Não tĩnh công”, nói một cách ngắn gọn là tập “Tĩnh” cho não.
Chỉ đơn giản một từ “Tĩnh'', song nó hàm chứa một sức mạnh lớn lao, một tác dụng vô cùng huyền diệu.
Lão Tử chủ trương "Thanh tĩnh vô vi" vì chỉ có “thanh tĩnh” mới có thể biết rõ ngọn nguồn. Đức Phật thì dạy "tín tâm thanh tịnh'' sẽ sinh ''thực tướng'' bởi chỉ có tâm tĩnh mới cảm giác được điều chân thực.
''Não tĩnh công'' thực chất là kỹ thuật điểu khiển tinh thần, giúp ta tập trung được tinh lực, từ đó sử dụng não một cách tối đa, động viên được những năng lực tiềm ẩn trong con người. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học hiện nay như Kasamatsu và Hirai (Nhật Bản), Dương Vận Lương và Hồ Tùng Xương (Trung Quốc), Mahalishi và Yogendraii (Ấn Độ), R.W Collier và R. K Walla (Mỹ),v.v... đều đã khẳng định tác dụng khai trí của ''não tĩnh công”.

1. Tăng cường trí nhớ
2. Phát triển sức tập trung chú ý
3. Nâng cao tính tính linh hoạt vô tính chính xác của tư duy.
4. Kích thích óc tưởng tượng và trí sáng tạo.
5. Nâng cao thành tích học tập của thanh thiếu niên.
Nếu tập luyện đều đặn, kiên trì sẽ có khả năng tăng cường các chức năng của não, phát triển năng khiếu, huy động được những năng lực tiềm tàng của cơ thể.
Tu luyện đến trình độ cao, giống thư các Yogi Ấn Độ, các Đạt Ma Tây Tạng, các Thiền sư, Đạo sĩ, con người hoàn toàn có thể đạt được những công năng đặc dị, những quyền năng siêu việt. Tới được cảnh giới này, con người làm chủ được những khả năng siêu phàm cả về tâm lý và sinh lý…
Nói theo Bác sĩ Hirai (Nhật Bản): ''Trong suốt quá trình lịch sử loài người, não tĩnh công đã có một tác dụng vô cùng to lớn. Nó trở thành vũ khí tinh thần của những nhân vật kiệt xuất, là phương pháp hữu hiệu giúp con người làm chủ mình, là vật kích thích óc sáng tạo của con người một cách màu nhiệm!”
YÊU LĨNH CỦA PHÉP TĨNH TOẠ
Trải qua tập luyện, người tập sẽ ý thức được rằng, cái cao quý nhất của động là tĩnh. Người xưa xem nhập tĩnh là khâu quan trọng nhất của tập luyện nội công. Quả vậy, có dẹp được tất cả những tâm tư tình cảm, đam mê xáo động mới có thể đạt đến tĩnh được. Trong tập luyện, những tạp niệm trên bám riết dai dẳng, khó bề dứt bỏ, thấy được tính chất ''ngoan cố” của chúng, có người đã đặt cho chúng cái tên ''tâm ma". Tâm ma giống như chú ngựa bất kham luôn luôn muốn bứt khỏi dây cương phi lồng ngang dọc. Để thuần phục những chú ngựa bất kham đó, nhiều khi ta phải dùng đến ngọn roi ý chí, đến sức mạnh trí tuệ, đến tâm kiếm, tuệ kiếm. Thì ra cũng có lúc phải dùng đến tâm kiếm để chặt đứt tâm ma. Chính vì vậy, trình độ nhập tĩnh nông hay sâu chính là thước đo đánh giá mức độ tịnh tiến trong tập luyện. Trình độ nhập tĩnh càng cao, tinh thần càng vượng thịnh thì chân khí càng sung mãn. Sách Tô vấn viết: '' Trong lòng thanh tĩnh hư vô, chân khí thuận theo”. Trạng thái sinh lý của tĩnh ở đây khác với trạng thái thức (được đặc trưng bằng trạng thái hưng phấn), cũng không giống trạng thái ngủ (được đặc trưng bằng trạng thái ức chế), mà là một trạng thái kỳ diệu đặc biệt của người tập luyện, trong tĩnh có động, động ở những tầng bậc sâu kín nhất của con người, động tới Tinh - Khí - Thần, nó kích thích và điều động những dạng năng lượng đặc thù của cơ thể, làm cho khí huyết lưu thông, cân bằng Âm - Dương, tinh thần sáng rõ, sung mãn, thấu suốt được bản chất thực của mọi sự vật. Nhà tư tưởng đầu đời Thanh Trung Quốc là Vương Phu Chi, trong cuốn: Tư vấn lục viết: "Tĩnh nói đây là tĩnh động, không phải la bất động. Tĩnh hàm chứa động, động không rời tĩnh”...
Yếu lĩnh của phép tĩnh tọa là thả lỏng cơ bắp, gắn kết ý nghĩ và hơi thở, khai thông các huyệt đạo, tĩnh động hoà hợp, tự nhiên, vừa sức tuần tự.
Tập tĩnh tọa có nhiều cách, mỗi ''gia'' mỗi "phái'' lại có những cách riêng của mình, song tất cả đều trải qua các bước sau:
Điều thân: ngồi xếp bằng hoặc ngồi hai cẳng chân bắt chéo hay một chân duỗi, chân kia đặt lên đùi. Cũng có thể ngồi theo tư thế bán già hay kiết già hoặc ngồi ngay ngắn trên một ghế đẩu, tay đặt trên đùi hoặc hai bàn tay đè lên nhau, hai ngón cái tiếp xúc với nhau, tượng trưng cho ''Thiên - Địa - Nhân hợp nhất''. Lưng thẳng, đầu hơi cúi, cằm má xệ xuống, mắt nhắm, lông mày giãn ra, miệng ngậm, đầu lười đặt vào chân răng hàm trên. Thời gian kéo dài 1 - 2 phút.
Điều tâm: trước hết thở ''phào" một cái như trút hết mệt nhọc để đi vào trạng thái nghỉ ngơi, nới giãn, yên tĩnh. Sau đó, gợi nhớ tới một chuyện vui nhất trong đời hoặc một cảnh sắc êm đềm, bao la, thơ mộng, tâm niệm một điều gì cao đẹp mà mình ước mong, đeo đuổi... Thời gian cũng kéo dài 1-2 phút.
Điều tức: hít thở bằng mũi. Thở, nhẹ, sâu, dài. Hít vào bụng phình, thở ra bụng thót (thở bụng thuận) hay hít vào bụng thót, thở ra bụng phình (thở bụng nghịch) đều được, miễn sao thở hết sức tự nhiên, không chút gò bó. Lúc này, thở ra và hít vào đều được chỉ huy, điều chỉnh và kiểm soát. Sau đó, chỉ chú tâm chỉ huy hơi thở ra, không để ý tới hơi hít vào. Cuối cùng cả hơi thở ra và hít vào đều không để ý thở hết sức tự nhiên, thoải mái, bình thường, chỉ còn mỗi cảm giác mơ hồ đâu đó rằng: "ta còn thở". Trong phép tĩnh toạ, người ta gọi trạng thái này là "ý thủ hô hấp, tức là luôn luôn tâm niệm đến việc hô hấp, theo dõi, kiểm soát hơi thở, nhờ vậy không để cho tư tưởng phân tán, gạt bỏ mọi suy nghĩ miên man. Tập luyện đến trình độ cao tất cả ý nghĩ, tinh lực tập trung vào kinh mạch, huyệt đạo, cung môn, luân xa (chakras), nhằm thức tỉnh những năng lượng tiềm tàng trong cơ thể. Khoảng thời gian này kéo dài từ 10 đến 15 phút, cuối cùng, từ từ xoa hai bàn tay đưa lên vuốt mặt, chải tóc, day ấn da đẩu rồi khe khẽ mở mắt, giơ tay, đứng lên vươn vai, thở "phào'' và kết thúc buổi tập.
Các nhà hiền triết cổ Đông phương đã tập tĩnh công. Hiện nay ở nhiều nước, trong nhiều trường học và ngoài xã hội, người ta đã nghiên cứu và tập tĩnh công nhằm tăng cường và cải thiện năng lực chuyển hoá qua lại giữa các quá trình hưng phấn và ức chế cũng như tính ổn định của vỏ não, đẩy mạnh tính linh hoạt nhạy bén và khả năng điều chỉnh của não, giúp cho não ở vào trạng thái tối ưu. Vì vậy, tất cả đều thống nhất nhận định rằng, tĩnh công là phương pháp hữu hiệu nhất giúp não phát huy hết năng lực tiềm ẩn của chính mình.
Ở nước ta, sử sách còn truyền tụng, nhờ tu tập tĩnh công đã có các Thiền sư Vạn Hạnh thông minh siêu dị, Đạo Hạnh pháp thuật cao thâm, Minh Không biến ảo tài tình...
Tiền Học Lâm, nhà khoa học nổi tiếng phương Đông, đồng thời là Hội trưởng Hội chức năng đặc dị Trung Quốc dự đoán: "Thế kỷ XXI sẽ diễn ra cuộc chiến tranh trí tuệ toàn cầu”…
Não tĩnh công chắc chắn là thứ vũ khí lợi hai trong cuộc chiến tranh ấy!
(A, B) THẾ TRƯỜNG